Điểm tin báo chí sáng ngày 03 tháng 7 năm 2009

03/07/2009
Trong buổi sáng ngày 03/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Hôm qua (2-7), Hội Nông dân TP.HCM, Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND huyện Cần Giờ (TP.HCM) họp bàn phương án thống kê thiệt hại về kinh tế và môi trường để Công ty Vedan hỗ trợ cho nông dân. Trước đó, công văn hướng dẫn của Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) yêu cầu UBND TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu phải hoàn thành việc thống kê thiệt hại trước ngày 10-7.
Ông Nguyễn Văn Rảnh, Chủ tịch Hội Nông dân TP.HCM, cho biết công văn hướng dẫn của Tổng cục Môi trường rất phức tạp, liên quan đến các chứng từ chứng minh thiệt hại trong một thời gian dài (từ năm 1995 đến nay). Các buổi làm việc giữa đại diện Công ty Vedan và hội nông dân ba tỉnh, thành thống nhất Vedan sẽ hỗ trợ 45%-48% giá trị thiệt hại nhưng vẫn chưa ấn định được con số cụ thể (nếu không thỏa thuận được thì nông dân sẽ kiện đòi bồi thường - PV). Cũng theo ông Rảnh, cần thống kê thiệt hại về kinh tế trước vì có thể căn cứ trên số lượng đơn do bà con nông dân đã gửi, còn thống kê thiệt hại về môi trường thì cần có cơ quan chuyên môn cùng vào cuộc, cụ thể ở đây là Sở TN&MT.
Cùng quan điểm với Hội Nông dân TP.HCM, ông Đoàn Văn Sơn, Phó Chủ tịch UBND huyện Cần Giờ, cho rằng hội nông dân không thể làm được việc thống kê thiệt hại về môi trường. Theo ông Sơn, việc gặp hơn 1.500 hộ nông dân để xác minh lại thiệt hại cũng không đơn giản. Sau khi bàn bạc, Hội Nông dân TP.HCM và đại diện các sở, ngành thống nhất đề nghị UBND TP.HCM và Bộ TN&MT lùi thời gian thống kê thiệt hại thêm hai tháng. Sở TN&MT chịu trách nhiệm thống kê thiệt hại về môi trường. UBND huyện Cần Giờ, Hội Nông dân, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng phối hợp thống kê thiệt hại về kinh tế.
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phản ánh: Dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận đang được Tập đoàn Điện lực Việt Nam xây dựng, dự kiến sẽ được trình Quốc hội vào kỳ họp thứ Sáu tới.
Theo dự kiến, chậm nhất năm 2020 tổ máy điện hạt nhân đầu tiên của Dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận với công suất 1.000 MW sẽ hoà lưới điện quốc gia. Dự án này gồm 2 nhà máy điện với 4 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất thiết kế 1.000 MW. Sau khi tổ máy đầu tiên phát điện, những năm tiếp theo 3 tổ máy còn lại lần lượt sẽ được hoàn thành. Đến năm 2020, tổng lượng điện cung cấp của Việt Nam khoảng 45.000 MW. Như vậy với 4 tổ máy, nhà máy điện hạt nhân sẽ đóng góp gần 10% tổng lượng điện quốc gia.
Được biết, về mức độ an toàn của nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận, với khoa học kỹ thuật hiện đại của lò phản ứng hạt nhân thế hệ ba đang được nhiều nước công nghiệp phát triển sử dụng đã loại trừ được nguy cơ tai nạn trầm trọng. Nhà máy điện hạt nhân chỉ cần cách xa khu dân cư trong bán kính 10km là có thể an toàn cho đời sống, sinh họat của người dân. Nhà máy điện hạt nhân sẽ ít gây nguy cơ ô nhiễm môi trường vì chất thải của nhà máy được thu gom hết trong quá trình sản xuất và có thể kiểm soát được.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên phản ánh: Trong 3 lĩnh vực hoạt động cơ bản của Nhà nước (NN)  là lập pháp (xây dựng pháp luật), hành pháp (quản lý hành chính) và tư pháp (điều tra, truy tố và xét xử), Luật Trách nhiệm bồi thường của NN (có hiệu lực thi hành từ 1.1.2010) chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của NN trong 2 lĩnh vực quản lý hành chính và tư pháp, các thiệt hại do hoạt động xây dựng pháp luật gây ra chưa được NN bồi thường.
Thông tin này được Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính cho biết tại buổi công bố lệnh của Chủ tịch nước công bố Luật Trách nhiệm bồi thường của NN, hôm qua 2.7 tại Hà Nội. Theo thứ trưởng Chính, trong lĩnh vực quản lý hành chính, điều 13 của luật này đã liệt kê 11 nhóm hành vi mà nếu gây ra thiệt hại thì NN có trách nhiệm bồi thường bao gồm những hành vi có ảnh hưởng lớn đến các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do thân thể, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do sở hữu... do đó cần được NN dành sự quan tâm đặc biệt, bằng cách cam kết sẽ bồi thường nếu các hành vi này gây ra thiệt hại cho tổ chức cá nhân. Cũng theo ông Chính, trong hoạt động tố tụng hình sự, NN chỉ có trách nhiệm bồi thường khi người thiệt hại bị oan - tức là không thực hiện hành vi phạm tội mà bị điều tra, truy tố, xét xử.
Cùng ngày Chủ tịch nước đã có lệnh công bố Luật Lý lịch tư pháp (có hiệu lực từ 1.7.2010), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (có hiệu lực từ 1.1.2010), Nghị quyết về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.
Báo cũng có bài “Công bố công cụ đánh giá chất lượng văn bản pháp luật”. Bài báo phản ánh: Một công cụ để rà soát và đánh giá chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) được xây dựng từ sáng kiến của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) với sự giúp đỡ của các chuyên gia quốc tế vừa được công bố hôm qua 2.7.
Được xây dựng dưới hình thức một bảng câu hỏi và tính điểm từng điều, khoản được quy định trong VBQPPL, công cụ này có thể giúp rà soát nhanh tất cả các loại VBQPPL. Ông Scott Jacobs - chuyên gia tư vấn quốc tế của UNDP cho biết công cụ này sẽ xác định được các điều, khoản chưa rõ ràng, cụ thể, còn trùng lắp hoặc chồng chéo, xác định bản chất của vấn đề và giải pháp để khắc phục.
Theo ông Nguyễn Đình Cung - Phó viện trưởng CIEM, công cụ này hy vọng sẽ giúp khắc phục được phần nào tình trạng bất cập “8 không” đang tồn tại ở hệ thống VBQPPL hiện nay là không cụ thể, không rõ ràng, không nhất quán, không minh bạch, không tiên liệu trước được, không hợp lý, không hiệu quả và không hiệu lực.
Báo cũng có bài “Khám chữa bệnh chưa theo kịp luật”. Bài báo phản ánh: Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực vào ngày 1.7. Thế nhưng, các bệnh viện (BV) chưa thể triển khai vì chưa có nghị định và thông tư hướng dẫn.
Trao đổi với PV Báo Thanh Niên, tất cả các BV đều cho biết, chưa được hướng dẫn triển khai thực hiện BHYT theo luật. Hầu hết lãnh đạo các BV đều chưa nắm Luật BHYT như thế nào, chỉ biết sơ sơ một số điều. Bác sĩ Lý Lệ Thanh, Giám đốc BV Nguyễn Trãi (TP.HCM) - nơi có lượng bệnh nhân BHYT đến khám chữa bệnh (KCB) rất đông, nói: “Hiện tại BV vẫn thực hiện KCB BHYT theo quy định cũ, vì chưa được hướng dẫn triển khai cụ thể thế nào, các BV khác cũng thế”. Tương tự, bác sĩ Đỗ Hoàng Giao, Giám đốc BV Nhân dân Gia Định (TP.HCM), cũng cho biết: có thể phải mất một thời gian nữa mới tiến hành triển khai KCB theo luật được, vì phải chờ hướng dẫn thi hành; còn tập huấn, làm quen với những quy định mới.
Ở BV tuyến quận, huyện một lãnh đạo BV Đa khoa khu vực Thủ Đức (TP.HCM) - nơi có khoảng 1.000 bệnh nhân BHYT KCB ngoại trú/ngày và 500 bệnh nhân BHYT điều trị nội trú, cho biết: “Chúng tôi cũng đang lúng túng, vì luật đã có hiệu lực, nhưng chưa có những hướng dẫn cụ thể để triển khai”. Giám đốc Bảo hiểm xã hội (BHXH) TP.HCM Cao Văn Sang nói: “Mọi thứ vẫn đang còn chờ Nghị định, Thông tư hướng dẫn, nên hầu hết vẫn triển khai theo chế độ BHYT như lâu nay”.
Bà Tống Thị Song Hương, Vụ trưởng Vụ BHYT (Bộ Y tế), cho biết sau khi luật ban hành, Bộ Y tế đã khẩn trương xây dựng dự thảo Nghị định trình Chính phủ hồi tháng 5.2009, và cũng đã xây dựng dự thảo thông tư. Tuy nhiên, đến nay, nghị định chưa được ban hành vì, vẫn còn một số ý kiến khác từ các bộ, ngành nên Chính phủ đang xem xét.
Trong xây dựng dự thảo nghị định, Bộ Y tế và BHXH thống nhất đưa ra mức phí đóng BHYT sẽ tăng lên (4,5% mức lương cơ bản từ 1.1.2010), nhưng Bộ Tài chính lại đề nghị mức 3,9%. Vì chưa ban hành nghị định nên cũng chưa thể ban hành Thông tư. Trong thời gian chờ Nghị định và thông tư hướng dẫn, Bộ Y tế đã có văn bản trình Thủ tướng cho phép thực hiện một số nội dung sau: tiếp tục thực hiện chế độ KCB miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi theo hình thức thực thanh thực chi (theo quy định tại Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17.5.2005 của Chính phủ); đối với trường hợp người tham gia BHYT từ ngày 1.7.2009, vẫn thực hiện theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP của Chính phủ cho đến hết 31.12.2009. Trường hợp tham gia BHYT từ khi nghị định quy định chi tiết hướng dẫn Luật BHYT có hiệu lực thì thực hiện theo Luật BHYT. Cũng theo bà Tống Thị Song Hương: “Việc tạm thời tiếp tục thực hiện theo Nghị định 63 sẽ không ảnh hưởng gì nhiều đến quyền lợi của người bệnh. Thậm chí một số quy định theo Nghị định 63 còn có phần thông thoáng hơn nếu dự thảo Nghị định mới được ban hành”.
Đáng lưu ý, theo dự thảo Nghị định mới, người tham gia BHYT sẽ đăng ký KCB ban đầu tại y tế quận, huyện thay vì được đăng ý tại BV tuyến tỉnh, thành phố như quy định hiện hành. Lý giải về việc “thắt chặt” quy định đăng ký khám chữa bệnh ban đầu, bà Tống Thị Song Hương nói: việc đăng ký KCB ban đầu chủ yếu sẽ đóng vai trò quản lý thẻ BHYT, phân loại bệnh, sàng lọc bệnh. Bệnh nhân KCB thông thường thì không phải lên tuyến cao. Còn trường hợp bệnh nặng, nơi đăng ký khám ban đầu sẽ chuyển tuyến trên. Song bác sĩ Lương Sỹ Minh - Giám đốc BV Q.Tân Bình (TP.HCM) e rằng: “Nếu theo luật quy định, người bệnh phải đăng ký nơi KCB ban đầu là tuyến BV quận huyện, thì với điều kiện, cơ sở vật chất của các BV quận huyện hiện tại sẽ không kham nổi, mà cần phải đầu tư nhiều hơn nữa về trang thiết bị, con người...”.
2. Báo Công an nhân dân có bài Về bài "Thi hành án TP Hà Nội ra quyết định thi hành bản án đã có hiệu lực": Quyết định đã có sao chưa thi hành?. Bài báo phản ánh: Báo CAND có bài "Thi hành án TP Hà Nội ra quyết định thi hành bản án đã có hiệu lực". Theo Quyết định của Bản án phúc thẩm số 266/2007/DSPT ngày 25/12/2007 của TAND TP Hà Nội, ông Nguyễn Viết Thìn phải trả cho ông Lê Đắc Thịnh (tức Đắc Lê) số tiền gốc là 465.000.000đ, tiền lãi là 588.425.000đ và lãi suất chậm thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Sau khi có bản án, cơ quan Thi hành án TP Hà Nội đã tiến hành các thủ tục thi hành án, nhưng ngày 16/9/2008,  do VKSND Tối cao có Công văn số 109/VKSTC-V5 đề nghị hoãn thi hành án trong thời gian 90 ngày để xem xét hồ sơ theo trình tự Giám đốc thẩm nên cơ quan Thi hành án phải tạm hoãn thi hành. Ba tháng nghiên cứu hồ sơ, VKSND Tối cao đã có Công văn số 4165/VKSTC-V5 khẳng định "Bản án số 266/DSPT của TAND TP Hà Nội là hoàn toàn đúng pháp luật, không có cơ sở để xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm".
Ngày 29/12/2008, TAND Tối cao lại có Công văn số 55/TANDTC-DS đề nghị cơ quan Thi hành án TP Hà Nội tạm hoãn 90 ngày thi hành bản án trên để có thời gian xem xét đơn khiếu nại của đương sự. Đến nay đã quá thời gian hoãn thi hành án 90 ngày và TAND Tối cao cũng không có đề nghị gì thêm nên ngày 3/4/2009, cơ quan Thi hành án TP Hà Nội đã ra Quyết định số 08/QĐ-THA để thi hành Bản án số 266/2007/DSPT của TAND TP Hà Nội. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà đến thời điểm này, cơ quan Thi hành án TP Hà Nội vẫn chưa thể thi hành bản án trên?
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Như Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh, Văn phòng công chứng (VPCC) Đống Đa (Hà Nội) đã đóng cửa ngưng hoạt động gần ba tháng qua do mâu thuẫn giữa trưởng VPCC này và người góp vốn đầu tư.
Sáng qua (2-7), VPCC Đống Đa đã mở niêm phong con dấu, tài liệu lưu trữ, chứng từ, sổ sách kế toán... để tiếp tục hoạt động. Trước đó, Trưởng VPCC Đống Đa Cáp Văn Trinh đã ký biên bản thỏa thuận với ông Phạm Văn Đàm (luật sư Hoàng Đàm) - chủ đầu tư vốn về việc sẽ chuyển đổi mô hình hoạt động đối với VPCC này. Cụ thể là VPCC Đống Đa từ một công chứng viên (hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân) sang mô hình VPCC có nhiều công chứng viên (hoạt động theo loại hình công ty hợp danh).
Báo cũng phản ánh: Dự thảo mới của đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2009-2015” do Bộ Tư pháp đưa ra trong buổi họp lấy ý kiến sáng qua (2-7) đã làm rõ hơn các tiêu chí luật sư đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, luật sư phải am hiểu luật pháp, tập quán thương mại quốc tế, được trang bị các kỹ năng hành nghề luật sư; sử dụng thành thạo một ngoại ngữ để có thể trực tiếp tư vấn về pháp lý; có kinh nghiệm tư vấn, đàm phán hoặc tham gia giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế...
Theo dự thảo, mục tiêu từ nay đến năm 2015 phải đào tạo, bồi dưỡng được 2.000 luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế (chiếm 20% luật sư cả nước). trong đó khoảng 300 người có trình độ ngang tầm khu vực. Bộ Tư pháp cho biết số lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng về tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế của ta hiện đang thiếu hụt ghê gớm. Một khảo sát thực hiện năm 2008 cho thấy cả nước chỉ có 1,2% luật sư đạt yêu cầu này. Trong 1.500 tổ chức luật sư đăng ký hoạt động, chỉ có khoảng 10 văn phòng, công ty luật hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, thương mại có yếu tố nước ngoài.
Hoạt động luật sư hiện nay chủ yếu là tham gia tranh tụng, chưa chuyên sâu vào tư vấn pháp luật. Chưa kể luật sư chuyên các lĩnh vực đầu tư, sở hữu trí tuệ, tài chính ngân hàng, hàng không, hàng hải, bảo hiểm, thương mại quốc tế... còn quá mỏng hoặc đang trong quá trình hình thành. Phần lớn khi gặp tranh chấp thương mại quốc tế thì các cơ quan, tổ chức Việt Nam đều phải thuê luật sư nước ngoài làm đại diện, tư vấn, bảo vệ quyền lợi.
Báo cũng có bài Dự án Luật tiếp cận thông tin: “Đói” thông tin phát sinh khiếu kiện. Bài báo phản ánh: “Chúng tôi không đói ăn, đói mặc... nhưng đói thông tin vô cùng”. Ông Nguyễn Bốn Bảy, một người dân ở quận Tây Hồ (Hà Nội), phát biểu như vậy tại hội thảo góp ý cho dự án Luật tiếp cận thông tin và báo cáo đánh giá tác động của dự luật này hôm qua (2-7). Ông Bảy nói khiếu tố về đất đai nhiều (chiếm tới 80%) suy cho cùng cũng do không thông tin cho người dân biết đầy đủ, cặn kẽ. “Giải thích cho người dân, cán bộ chỉ nói quyết định như vậy, chính sách như vậy thì phải thi hành” - ông Bảy ngán ngẩm bảo.
Ông Bảy dẫn chứng về dự án cầu Nhật Tân, từ năm 2006, Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo Bộ Giao thông Vận tải, UBND TP Hà Nội phải lấy ý kiến người dân về dự án này. Thế nhưng tới nay chưa một lần những cơ quan trên làm việc này trong khi dự án đó liên tục thay đổi thiết kế. “Chúng ta hay nhắc tới câu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhưng nếu người dân chúng tôi không biết được thông tin thì chúng tôi bàn cái gì, kiểm tra cái gì?” - ông Bảy bức xúc. Sau đó, ông Bảy ví Luật tiếp cận thông tin giống như chiếc “phao cứu sinh” của người dân. Ông trách mãi tới năm 2012 luật này mới được ban hành và có hiệu lực là quá chậm.
Đồng tình, tiến sĩ Thái Vĩnh Thắng, Chủ nhiệm khoa Hành chính nhà nước (Đại học Luật Hà Nội), dẫn lời một chuyên gia nước ngoài ví luật này chính là “osin của nền dân chủ”. Ông Thắng cho rằng mục đích lớn nhất của dự luật này là mở rộng đóng góp của người dân đối với việc xây dựng và phát triển đất nước.
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao (khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội) đánh giá thông tin chính là căn cứ để công dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình một khi các quyết định của cơ quan nhà nước làm ảnh hưởng tới họ. Thông tin còn là một trong những công cụ quan trọng để có được một nhà nước hiệu quả, loại trừ, giảm thiểu tham nhũng, lạm quyền. “Thông tin còn là tiền đề cho phản biện xã hội. Cơ thể nhà nước cũng giống một cơ thể sinh học, phải có trao đổi chất. Nhà nước, thể chế chính trị chỉ tồn tại, phát triển và tốt khi có trao đổi thông tin với bên ngoài. Từ việc cung cấp thông tin đó, anh nhận được thông tin phản hồi thì lúc đó anh mới quản trị quốc gia tốt được. Vì sao người ta đặt vấn đề mô hình chính phủ phải mở? Phải mở mới sống được, nếu không nó sẽ là chính thể quan liêu, bao cấp và chắc chắn nó sẽ đưa ra nhiều quyết sách sai lầm, khó hiểu” - ông Giao nói.
Tiến sĩ Giao cũng cho rằng dự luật này phải giải được hai bài toán. Thứ nhất là Chính phủ phải mở, mở để bớt quan liêu, bớt lạm quyền. Mục tiêu thứ hai không kém phần quan trọng là làm sao để người dân thực hiện được quyền của mình, có được thông tin để bảo vệ mình trước sự lạm quyền, trước sự khép kín của cơ quan công quyền.
Từ cách tiếp cận trên, ông Giao kiến nghị hai nhóm thông tin cần được công bố. Nhóm thứ nhất là thông tin liên quan đến cấu trúc và quy trình hoạt động của các cơ quan công quyền. “Nhiều nước họ công bố cả danh tính, số điện thoại của những người nắm giữ chức vụ trong bộ máy công quyền. Chúng ta cũng đã bước đầu làm được việc này” - ông Giao nói. Cạnh đó, theo ông Giao, về cơ bản thì những “sản phẩm” của các cơ quan công quyền cũng phải được công khai. Ông Giao đặc biệt nhấn mạnh tới việc bắt buộc phải công khai “sản phẩm cuối cùng” của hoạt động tư pháp là các bản án đã có hiệu lực pháp luật. “Nếu công khai được các bản án thì giáo dục của chúng ta sẽ tốt hơn. Mặt khác, bản án, kết luận của tòa sẽ là thách thức rất lớn đối với năng lực của thẩm phán. Và đặc biệt là minh bạch hơn. Cùng một tính chất sự việc, tại sao ở Hà Nội lại xử thế này, TP.HCM lại xử thế kia?... Nếu chúng ta làm được việc này thì sẽ là cú hích lớn đối với cải cách tư pháp” - ông Giao nhấn mạnh.
Ông Trương Anh Tuấn, đại diện HĐND tỉnh Nam Định, nhận xét dự luật có nhiều quy định “nói cho oai” chứ chưa có chế tài để bảo đảm tính khả thi. Ông Tuấn dẫn chứng theo khoản 3 Điều 28 dự luật, việc từ chối cung cấp thông tin do người đứng đầu cơ quan hoặc người được ủy quyền quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định từ chối cung cấp. “Thế nhưng chịu trách nhiệm như thế nào thì không rõ được quy định ở đâu?” - ông Tuấn nói.
Ông Giao cũng cho rằng cần bổ sung điều khoản để bảo đảm tính thực thi của luật này, tránh lặp lại câu chuyện của Pháp lệnh Dân chủ cơ sở. “Chúng ta cứ hay đẩy vấn đề sang cho Luật Khiếu nại, tố cáo nhưng bản thân luật đó cũng đang có bao nhiêu vấn đề. Do vậy, cần có quy định để khi người dân bị từ chối cung cấp thông tin, người ta có thể tự bảo vệ mình bằng chính những thiết chế của Luật tiếp cận thông tin. Luật cũng cần quy định sẽ xử lý cán bộ, công chức như thế nào khi từ chối cung cấp thông tin không đúng quy định” - ông Giao đề xuất.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 03/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm