Trong buổi sáng ngày 08/9/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Đà Nẵng đã hoàn tất giai đoạn một của Đề án 30 bằng việc thống kê và công bố các bộ thủ tục hành chính (TTHC) ở địa phương mình. Việc rà soát đã cho thấy có khá nhiều thủ tục quá rườm rà, chồng chéo khiến người dân và doanh nghiệp mệt mỏi nhiều năm qua. “Trong giai đoạn hai này, chúng tôi sẽ tập trung rà soát kỹ các thủ tục liên quan đến lĩnh vực nhà đất, dân sinh để loại bỏ các thủ tục bất hợp lý...” - ông Chế Viết Sơn, Phó Giám đốc Sở Nội vụ TP Đà Nẵng, khẳng định.
Tại Đà Nẵng có khoảng 1.377 TTHC đang được áp dụng. Tuy nhiên, theo Sở Nội Vụ TP Đà Nẵng thì trong số này có nhiều thủ tục chưa hợp lý và chưa đúng luật. “Xu hướng trước đây là thủ tục nào được đưa ra cũng đều hướng đến việc tạo thuận lợi cho... người quản lý. Ngành nào cũng muốn bảo vệ quyền lợi cục bộ và tiện việc cho mình nên thủ tục mới rườm rà” - ông Nguyễn Ngọc Huy, Trưởng phòng Cải cách hành chính, Sở Nội vụ TP Đà Nẵng, nhận định.
Ông Huy dẫn chứng một ví dụ điển hình đang tồn tại ở Đà Nẵng là thủ tục xác nhận quy hoạch. Thủ tục này quy định khi muốn chuyển nhượng, tách thửa hoặc chuyển mục đích sử dụng đất... thì người dân phải làm thủ tục xác nhận quy hoạch. “Cơ quan quản lý nắm chỗ nào quy hoạch, không quy hoạch. Vậy sao lại bắt người dân đến từng phòng quản lý đô thị để xác định có nằm trong quy hoạch không? Đây là thủ tục con và không cần thiết, cần phải cắt bỏ!” - ông Huy nói.
Một thủ tục không hợp lý khác là thủ tục cấp đổi giấy phép lái xe khi nâng hạng. Một trong những điều kiện để được cấp đổi giấy phép là phải có xác nhận của UBND cấp xã về thâm niên lái xe và an toàn giao thông trong quá trình hành nghề. Theo ông Huy, yêu cầu UBND cấp xã xác nhận những nội dung này là vô lý và hiện các UBND phường, xã kêu rất nhiều. Trong khi đó, Sở Giao thông Vận tải có phòng quản lý người lái thì lại không xác nhận... “Theo thống kê của thanh tra TP thì có đến 75% đơn thư khiếu nại của người dân liên quan đến nhà đất, giải tỏa... Điều đó chứng tỏ phần lớn các thủ tục về nhà đất hiện nay không làm người dân hài lòng” - ông Huy cho biết thêm.
Ông Huy dẫn chứng, hiện có nhiều thủ tục về nhà đất mà cơ quan quản lý đang vướng do các quy định từ trên chồng chéo nhau. Đơn cử thủ tục công chứng, chứng thực các hợp đồng giao dịch liên quan đến bất động sản. Theo Nghị định 181/2004, người dân được chọn hoặc đến UBND phường, xã chứng thực hợp đồng giao dịch, hoặc đến các tổ chức công chứng để công chứng. Nhưng Luật Nhà ở 2005 lại quy định giao dịch liên quan đến nhà ở đô thị thì người dân không được chứng thực tại các phường, xã lại mà phải tới phòng công chứng...
Về lệ phí chứng thực cũng có sự không thống nhất. Hiện lệ phí chứng thực giao dịch mà UBND phường, xã đang thực hiện chịu sự điều chỉnh của Thông tư liên tịch (TTLT) số 93/2001 của Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính. Trong khi đó, cũng cùng công việc như vậy nhưng nếu đến các tổ chức công chứng thì mức lệ phí lại bị điều chỉnh bởi TTLT số 91/2008 cũng của hai bộ trên. Điểm khác biệt là so với TTLT 93/2001, mức lệ phí của TTLT 91/2008 cao hơn đến 0,1% trên tổng giá trị tài sản. Rõ ràng là cùng một công việc nhưng lại có mức lệ phí khác nhau và hiện chưa gỡ được. Tương tự, với việc chứng thực về di sản thừa kế, nếu người dân đến UBND phường, xã thì trước khi được chứng thực phải niêm yết công khai 30 ngày. Trong khi đó, nếu đến phòng công chứng thì lại không phải qua thủ tục này...
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Nhiều văn bản pháp quy quan trọng trong lĩnh vực đất đai sẽ được hoàn thiện, ban hành trong tháng 9 này, lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết ngày 7-9. Trong số các văn bản nói trên có thông tư quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; thông tư hướng dẫn trình tự, thủ tục và nội dung xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất.
Đáng lưu ý, trong tháng 9, bộ sẽ tổ chức in ấn và phát hành giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Hoàn thiện dự án kiểm kê đất đai năm 2010; triển khai thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2010; ban hành định mức thống kê, kiểm kê đất đai lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; hoàn thiện, trình lãnh đạo bộ kết quả thống kê đất đai năm 2008…
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Khám chữa bệnh bằng BHYT: Một thông tư liên bộ làm khó người bệnh”. Bài báo phản ánh: “Khi có xác nhận không vi phạm pháp luật về giao thông của cơ quan có thẩm quyền thì người bệnh mang chứng từ đến Bảo hiểm xã hội (BHXH) để thanh toán”. Quy định buộc người bị tai nạn giao thông (TNGT) phải có giấy xác nhận không phạm luật mới được bảo hiểm y tế (BHYT) thanh toán tại Thông tư liên tịch 09/2009 của Bộ Y tế - Tài chính nêu trên được nhiều chuyên gia nhận định là làm khó người bệnh.
Bác sĩ Bùi Minh Đông, Phó Giám đốc BHXH TP.HCM, cho biết quy định cũ của BHXH ghi rằng: “Những ai vi phạm luật giao thông thì không được hưởng BHYT”. Tuy nhiên, khi vận dụng vào thực tiễn, thời gian qua BHXH đã cho phép các đơn vị điều trị tất cả trường hợp bị TNGT có BHYT, đến khi xác định họ sai luật thì mới dừng điều trị bằng BHYT.
Việc chứng minh người bị nạn có sai luật hay không sẽ do công an xác định. Nếu công an không xác định được họ đúng hay sai thì BHXH phải thanh toán tất cả tiền viện phí của người đó. Thí dụ, nửa đêm khuya một người bị tai nạn nhưng không có ai làm chứng (mặc dù họ có vi phạm luật) thì BHXH cũng phải chi trả. “Quan điểm của chúng tôi là bao giờ áp dụng luật cũng phải có lợi cho người dân” - bác sĩ Đông nói.
Bác sĩ Đỗ Hoàng Giao, Giám đốc Bệnh viện Nhân dân Gia Định (TP.HCM), cũng xác nhận, về thanh toán BHYT với trường hợp TNGT, lâu nay bệnh viện vẫn thực hiện theo quy định của BHXH. Theo đó, người bị TNGT có cồn trong máu vượt ngưỡng cho phép sẽ không được thanh toán BHYT (nếu có). Các trường hợp còn lại thì tùy từng trường hợp bệnh viện sẽ xin ý kiến của BHXH thông qua bộ phận giám định BHYT của BHXH đặt tại bệnh viện.
Tuy nhiên, quy định mới về thanh toán BHYT với trường hợp TNGT tại Thông tư 09/2009 lại thẳng thừng: Nếu không xoay được giấy xác nhận không phạm luật của cơ quan có thẩm quyền thì người bệnh đừng hòng có cơ hội được BHYT chi trả tiền điều trị. “Quy định bắt người bị TNGT phải chứng minh mình đúng hay sai để được hưởng BHYT là làm khó cho người bệnh và trên thực tế cũng khó thực hiện” - Phó Giám đốc BHXH TP.HCM, bác sĩ Bùi Minh Đông, thẳng thắn nhận xét.
Bác sĩ Cao Độc Lập, Trưởng khoa Khám bệnh Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội), cũng đồng tình với nhận định trên. “Bệnh viện chỉ có thể xác định tỷ lệ thương tích chứ không thể xác nhận “nguyên nhân của thương tích này có phải do bệnh nhân vi phạm luật hay không”” - bác sĩ Lập nói thêm.
Trả lời Pháp Luật TP.HCM ngày 6-9, ông Lê Văn Khảm, Vụ phó Vụ BHYT (Bộ Y tế), cho biết cơ quan có thẩm quyền xác nhận người bị nạn phạm luật hay không phạm luật là cảnh sát giao thông. Tuy nhiên, bác sĩ Giao phân tích, có những trường hợp bị người khác va quẹt rồi chạy mất, không lẽ người bị nạn cứ nằm đó ăn vạ chờ công an tới. Chưa kể ở vùng sâu, vùng xa, khi xảy ra tai nạn và người gây ra tai nạn bỏ chạy, người bị nạn không biết công an ở đâu mà trình báo. Hai, ba ngày sau quay lại thì hiện trường mất tiêu, lúc đó có dẫn công an tới cũng không thể làm gì được. Những trường hợp này rất nhiều và không cách nào người bị nạn chứng minh được mình đúng.
Bác sĩ Trần Vĩnh Hưng, Giám đốc Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức, cũng cho rằng việc buộc bệnh nhân phải chứng minh mình đúng hay sai để hưởng BHYT không mang nhiều ý nghĩa. “Bởi nhiều khi người bị tai nạn vừa sai luật vừa không có tiền, BHXH không chi trả thì bệnh viện cũng phải chịu” - BS Hưng nói.
Báo cũng có bài “Giám định tư pháp: Cần tăng cường cả lực lượng lẫn chuyên môn”. Bài báo phản ánh: Thiếu giám định viên là nhận định chung của các ý kiến tại hội nghị lấy ý kiến cho đề án Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức giám định và lĩnh vực giám định tư pháp trên địa bàn TP do Sở Tư pháp TP.HCM tổ chức sáng 4-9.
Theo Sở Tư pháp TP.HCM, trước năm 2005, TP có tám trung tâm giám định tư pháp thuộc các sở, ngành. Đến nay, TP chỉ còn lại ba tổ chức giám định là Phòng Kỹ thuật hình sự, Trung tâm Pháp y và Trung tâm Giám định pháp y tâm thần với tất cả 46 giám định viên. Sở dĩ có sự thay đổi trên là do trong Pháp lệnh Giám định tư pháp do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 29-9-2004 có quy định về việc nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giám định tư pháp. Tuy nhiên, chủ trương xã hội hóa trong công tác giám định tư pháp lại đang gặp khó khăn khi chưa có sự thống nhất giữa một số luật liên quan.
Hiện nay ngoài ba tổ chức giám định trên, TP.HCM có 116 giám định viên độc lập làm việc trong các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, kế toán-tài chính, thuế, xây dựng và văn hóa. Tính trung bình, mỗi giám định viên tư pháp phải giải quyết khoảng 120 vụ/năm. Riêng mỗi giám định viên của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM phải thực hiện hơn 800 vụ giám định/năm. Đáng lưu ý, lĩnh vực xây dựng chỉ có ba giám định viên, tài chính-kế toán có năm giám định viên... Các giám định viên này có độ tuổi bình quân khá cao, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Ngoài ra, phần lớn giám định viên chưa được đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu, chưa trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật về giám định tư pháp. Chính vì vậy, khi thực hiện công việc giám định, họ đều dựa vào kiến thức chuyên môn thuần túy.
Thiếu giám định viên là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng công tác giám định tốn nhiều thời gian. Chẳng hạn, vụ giám định công trình đường liên cảng A5 kéo dài từ năm 2005 đến 2007 mới cơ bản hoàn tất. Ngoài ra, vì thiếu trung tâm giám định tư pháp nên các cơ quan tố tụng phải trưng cầu các doanh nghiệp kiểm định thực hiện giám định. Điều này dẫn đến có trường hợp hai công ty giám định đưa ra hai kết quả trái ngược, hay một bên đương sự không chấp nhận kết quả giám định ban đầu. Điển hình là vụ chung cư Nguyễn Siêu xuống cấp và bị ảnh hưởng do công trình xây dựng lân cận đã có hai kết quả giám định trái ngược nhau giữa Viện Khoa học và Phát triển công nghệ-địa chất-nền móng-xây dựng công trình và Công ty Kiểm định xây dựng Sài Gòn, gây ra nhiều tranh cãi...
Đại diện Sở Tài chính TP.HCM cho rằng thực tế hiện nay rất cần đến công tác giám định tư pháp và ít ra cũng cần phải phục hồi các trung tâm giám định tư pháp như trước đây. Tuy nhiên, hầu hết các sở, ngành lại nghĩ rằng công tác giám định tư pháp không thuộc trách nhiệm của mình nên chưa quan tâm đến công tác này. Vì vậy, Sở Tư pháp TP.HCM nên tham mưu cho UBND TP.HCM có văn bản chỉ đạo trách nhiệm cụ thể để các sở, ngành tổ chức lại công tác giám định.
2. Báo Công an nhân dân có bài “Một nhà, công chứng bán cho 2 chủ. Bài báo phản ánh: Với mục đích lừa đảo, Đào Thị Hà (47 tuổi) ĐKHK tại 144 Cầu Giấy, phường Quan Hoa, Hà Nội đã dùng sổ đỏ ngôi nhà của mình bán cho 2 người khác nhau. Điều đáng nói là trong cả 2 lần mua bán, Hà đều đưa người mua đến làm thủ tục tại các phòng công chứng để làm hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi mua nhà của Hà, người mua tiếp tục bán lại cho người khác và đã hoàn thành thủ tục sang tên sổ đỏ mới…
Tháng 10/2005, vợ chồng Đào Thị Hà và Nguyễn Văn Hòa dùng giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (sổ đỏ) do UBND TP Hà Nội cấp tại địa chỉ 144 Cầu Giấy để thế chấp tại Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Láng Thượng vay số tiền 400 triệu đồng. Đến tháng 11/2006, để có tiền thanh toán cho ngân hàng, vợ chồng Đào Thị Hà thỏa thuận và ký hợp đồng bán ngôi nhà trên cho chị Nguyễn Thị Bích Lưu ở tổ 29 Yên Hòa với giá 1 tỷ đồng. Chị Lưu đã đưa tiền để Hà ra ngân hàng giải chấp lấy sổ đỏ về.
Ngày 16/11/2006, vợ chồng Hà cùng chị Lưu làm thủ tục mua bán, chuyển nhượng ngôi nhà 144 Cầu Giấy tại Phòng công chứng số 3 TP Hà Nội. Sau khi công chứng xong, chị Lưu nhận toàn bộ giấy tờ nhà và cho anh Nguyễn Văn Hòa - chồng Đào Thị Hà thuê lại ngôi nhà trên để kinh doanh. Chưa làm thủ tục sang tên sổ đỏ nhưng do đã quen biết nhau từ trước nên ngày 14/12/2006, chị Lưu đưa sổ đỏ nhờ Đào Thị Hà (là người đứng tên trong sổ đỏ) ra Ngân hàng NN&PTNT Láng Thượng thế chấp, vay hộ 300 triệu đồng. Sau khi vay được tiền, Hà đã đưa lại số tiền này cho chị Lưu.
Mặc dù ngôi nhà 144 Cầu Giấy đã thuộc về chị Lưu, nhưng đến ngày 12/2/2007, Đào Thị Hà tiếp tục thỏa thuận và ký hợp đồng bán ngôi nhà trên cho chị Trần Thị Kim Oanh ở phố Tôn Đức Thắng với giá 1 tỷ đồng. Không biết được việc trước đó Hà đã bán nhà cho chị Lưu nên sau khi ký hợp đồng, chị Oanh mang tiền cùng Hà ra ngân hàng giải chấp lấy sổ đỏ về để cùng nhau ra Phòng công chứng số 6 TP Hà Nội làm thủ tục công chứng mua bán.
Đến ngày 14/2/2007, Đào Thị Hà làm thủ tục sang tên sổ đỏ cho chị Oanh. Tháng 6/2008, chị Oanh ký hợp đồng công chứng bán và sang tên sổ đỏ căn nhà trên cho anh Lê Văn Giang ở phường Tứ Liên, Tây Hồ, hiện anh Giang đang sử dụng. Còn Đào Thị Hà, sau khi bán nhà cho chị Oanh đã ra nước ngoài một thời gian, đến tháng 5/2008 về nước, thuê nhà tại phố, phường Kim Giang, quận Thanh Xuân, đến ngày 18/2/2009 bị Công an Hà Nội bắt giam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đến nay, cơ quan điều tra Công an Hà Nội cũng đã hoàn thành kết luận điều tra, chuyển Viện KSND TP Hà Nội đề nghị truy tố Đào Thị Hà trước pháp luật. Chắc chắn sau phiên tòa xét xử hình sự đối với kẻ lừa đảo, sẽ có phiên tòa dân sự để phân xử quyền lợi của những người đã mua ngôi nhà 144 Cầu Giấy, đồng thời là những người bị hại của Đào Thị Hà. Trong vụ án này, tất cả những người mua căn nhà 144 Cầu Giấy sở dĩ đều mắc bẫy của Đào Thị Hà là bởi việc mua bán được thực hiện ở các phòng công chứng Nhà nước, đúng quy định của pháp luật.
Vấn đề đặt ra qua vụ án này là đã có 2 phòng công chứng Nhà nước số 3 và số 6 thành phố Hà Nội cùng công chứng việc bán một ngôi nhà của Đào Thị Hà cho hai người khác nhau. Trong biên bản làm việc với cơ quan Công an, ông Nguyễn Xuân Bang - Trưởng phòng Công chứng số 6 (phòng công chứng thực hiện công chứng mua bán nhà giữa Đào Thị Hà và người mua thứ 2 là chị Trần Thị Kim Oanh) cho biết hiện nay tại các phòng công chứng, trên hệ thống cập nhật dữ liệu lưu chỉ trong phạm vi nội bộ phòng, chưa có hòa mạng trên toàn thành phố giữa các phòng công chứng nên không thể kiểm soát được. Khi công chứng các bên tự cam đoan và chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch của hai bên mua bán, kể cả giá cả trên hợp đồng là do hai bên thỏa thuận, phòng công chứng không can thiệp. Do đó, sau khi tra cứu dữ liệu lưu trong nội bộ phòng chưa thấy có việc chuyển nhượng, thế chấp tại đâu nên Phòng công chứng số 6 đã tiến hành làm thủ tục mua bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất căn nhà 144 Cầu Giấy giữa vợ chồng Đào Thị Hà và chị Trần Thị Kim Oanh.
Theo CQĐT, cơ chế trao đổi thông tin chỉ dừng ở nội bộ như trên của các phòng công chứng trong việc công chứng các giao dịch nhà đất chính là "điểm" để tội phạm (như Đào Thị Hà) lợi dụng và tiềm ẩn nguy cơ các đối tượng khác tiếp tục phạm tội với thủ đoạn tương tự. Đây chính là sơ hở trong lĩnh vực công chứng cần được cơ quan chức năng xem xét và có biện pháp khắc phục kịp thời, không để tội phạm lợi dụng. Nên chăng, khi thực hiện công chứng các giao dịch mua bán nhà đất, các phòng công chứng có thể công chứng việc mua bán vào chính bản gốc sổ đỏ để đảm bảo cho những giao dịch tiếp theo.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 08/9/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.