Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 9 năm 2009

01/09/2009
Trong buổi sáng ngày 01/9/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Phòng Kiểm soát bệnh truyền nhiễm (Cục Y tế dự phòng và môi trường, Bộ Y tế) cho biết, trong ngày 31-8, cả nước ghi nhận thêm 69 trường hợp dương tính với cúm A/H1N1 mới (miền Nam: 48, miền Bắc: 4, miền Trung: 11, Tây Nguyên: 6), nâng tổng số ca mắc cúm A/H1N1 tại Việt Nam lên mức 2.793.
Đã có 51 tỉnh, thành phố có địa chỉ đăng ký lưu trú của bệnh nhân. Số bệnh nhân đã khỏi bệnh, ra viện là 1.346 ca, hiện còn 1.445 bệnh nhân đang được cách ly, điều trị tại các cơ sở y tế.
Cũng theo thống kê của Cục Y tế dự phòng và môi trường, miền Nam vẫn là nơi có số bệnh nhân mắc cao nhất với 1.947 ca dương tính (875 ca đã ra viện), tiếp đến là miền Bắc: 327 ca (214 ca đã ra viện), miền Trung: 325 ca (142 ca ra viện), Tây Nguyên: 194 ca (115 ca ra viện).
2. Báo Người lao động có bài Khốn khổ với hợp đồng đào tạo. Bài báo phản ánh: Sau hơn 5 tháng liên hệ với gia đình các kỹ sư đã nghỉ việc, Công ty Nidec Tosok (100% vốn Nhật Bản, KCX Tân Thuận -TPHCM) đành bỏ ý định theo đuổi vụ kiện đòi bồi thường hợp đồng đào tạo. Hàng trăm ngàn USD cho chương trình đào tạo 13 kỹ sư xem như “đổ sông, đổ biển”. Nguy hại hơn, việc này có thể ảnh hưởng đến công việc đào tạo của công ty sau này.
Chương trình đào tạo này được công ty tổ chức vào năm 2005. Theo đó, công ty sẽ đưa 30 kỹ sư hiện đang làm việc tốt tại công ty sang tu nghiệp ở Nhật Bản. Các kỹ sư này học chuyên ngành đồ họa kỹ thuật linh kiện cơ động học của xe hơi. Tùy vào trình độ của mỗi người mà đào tạo từ 2 năm đến 3 năm với chi phí bình quân mỗi người là 2.000 USD/tháng. Trước khi sang Nhật, những kỹ sư trên đã ký cam kết với công ty là sau khi được đào tạo sẽ về phục vụ cho công ty ít nhất 3 năm. Tuy nhiên, sau khi về nước, những kỹ sư này làm việc được khoảng một năm thì có 13 người nộp đơn xin nghỉ việc không ăn lương với lý do: nhà neo đơn, phải về quê chăm sóc bố mẹ. Qua xác minh, công ty phát hiện những kỹ sư trên không về quê mà xin việc ở công ty khác nên đã kiện họ ra TAND TPHCM.
Tòa đã tuyên những kỹ sư trên phải bồi thường chi phí đào tạo cho thời gian cam kết làm việc còn lại với công ty. Tuy nhiên, việc bồi thường này không thực hiện được. Công ty quá mệt mỏi nên cũng không mặn mòi gì đến việc đeo đuổi thi hành án. Ông Đào Thanh Quyết, Giám đốc Hành chính – Nhân sự Công ty Nidec Tosok, cho biết: “Nhà đầu tư rất bức xúc. Việc người lao động (NLĐ) hành xử như thế ảnh hưởng đến việc chăm lo, nâng cao trình độ tay nghề cho những NLĐ còn ở lại làm việc tại doanh nghiệp (DN). DN bị mất lòng tin nên sẽ không quan tâm đầu tư cho việc đào tạo nữa”.
Nhiều DN cho rằng việc NLĐ không thực hiện cam kết sau khi được đào tạo, vấn đề hao tốn kinh phí đào tạo chỉ là thứ yếu. Tổn thất nặng nề nhất chính là kế hoạch phát triển của công ty bị gián đoạn. Ông Phạm Thái Khanh, Giám đốc Công ty Điện lạnh Tân Thái (quận 10-TPHCM), phân tích: “Khi DN có kế hoạch phát triển một mặt hàng mới hoặc nâng cấp máy móc thiết bị cũ thì sẽ cử người đi học những công nghệ mới tương ứng. Thời gian chuẩn bị cho việc này có khi phải mất một vài năm. Nếu như khi nhập máy móc về rồi mà nhân sự đưa đi đào tạo bỏ việc thì kế hoạch bị phá vỡ. Thiệt hại này không thể tính nổi bằng tiền”.
Khi NLĐ không thực hiện cam kết về đào tạo, DN thiệt hại thì đã rõ. Nhưng, ở một góc độ khác, nhiều nhà quản lý DN lại nhìn nhận vấn đề theo phương châm “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Ông Hồ Văn Thọ, giám đốc tài chính một DN tại quận Tân Bình - TPHCM, cho rằng quan hệ lao động là một mối quan hệ hết sức phức tạp và uyển chuyển. Các giá trị luôn biến động trong quá trình làm việc nên hai bên phải tự điều chỉnh các quyền lợi và trách nhiệm liên quan. Chẳng hạn, sau khi đào tạo, NLĐ có tay nghề vững vàng hơn, kỹ năng cao hơn, chất lượng công việc được nâng lên... thì DN phải xem xét lại vấn đề tiền lương, bố trí công việc tương xứng để tạo động lực mới cho họ.
Tại khách sạn Majestic (TPHCM), hằng năm, kinh phí đào tạo dài hạn hơn 100 triệu đồng. Tham gia chương trình này, NLĐ phải cam kết làm việc 5 năm sau khi đào tạo. Còn các chương trình đào tạo ngắn hạn, đào tạo tại chỗ, đơn vị không yêu cầu làm cam kết. Ông Tào Văn Nghệ, Giám đốc khách sạn Majestic, bày tỏ: “Khi NLĐ bỏ chúng tôi sang nơi khác làm việc, điều quan tâm đầu tiên của tôi chính là xem lại cách quản lý của mình. Nếu môi trường làm việc tốt, thu nhập hợp lý, quan hệ hài hòa... tôi tin rằng NLĐ sẽ không dễ gì từ bỏ nơi mình từng gắn bó”.   
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Công chức thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại, dù chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng phải hoàn trả 50% số tiền Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại, mức tối đa 36 tháng lương. Quy định này được thảo luận tại cuộc tọa đàm ngày 31/8 tại Hà Nội. Cuộc tọa đàm xoay quanh dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do Bộ Tư pháp phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức.
Theo dự thảo đưa ra thảo luận, trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây hại, dù chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải hoàn trả 50% số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại, với mức tối đa không quá 36 tháng lương của người đó.
Ngay cả trường hợp do lỗi vô ý thì mức hoàn trả tối đa cũng là 3 tháng lương. Theo ông Nguyễn Văn Cường, Phó Viện trưởng Viện Khoa học xét xử, "rất khó đưa ra căn cứ pháp lý khi xác định mức hoàn trả". Ông đề nghị tham khảo ý kiến của Bộ Tài chính và một số ngành khác. Ông cũng băn khoăn: "Trong trường hợp cả người thi hành công vụ và người bị thiệt hại cùng có lỗi, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường hay không thì Nghị định phải làm rõ".
Trong khi đó, chuyên gia Nhật Bản Ito Fuminori lại không đồng tình với mức 50% như dự thảo đề cập, bởi có thể dẫn đến trường hợp "người lỗi vô ý thì phải hoàn trả 100% số tiền Nhà nước đã bồi thường trong khi trường hợp cố ý lại chỉ hoàn trả tối đa 50%".
Chuyên gia cho biết ở Nhật Bản, các trường hợp Nhà nước yêu cầu công chức hoàn trả theo quy định của Luật Bồi thường nhà nước là "vô cùng hiếm". Luật cũng không quy định cụ thể buộc công chức phải hoàn trả bao nhiêu tiền, nhưng về mặt nguyên tắc, "công chức cố ý làm trái pháp luật sẽ phải hoàn trả toàn bộ".
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế (Bộ Tư Pháp) Nguyễn Thanh Tịnh dẫn ra một nội dung được thảo luận nhiều, đó là “Nhà nước sẽ không có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự do thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại”.
Tuy nhiên, ông Ito cho rằng trường hợp công chức gây thiệt hại do lỗi cố ý và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Nhà nước càng phải bồi thường và “quy định như dự thảo vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị gây thiệt hại". Theo ông Ito, vấn đề công chức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên giải quyết ở khâu hoàn trả.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Trong hai ngày 28 và 29-8, Hội đồng luật sư toàn quốc - Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã họp phiên thứ ba tại Hà Nội. Hội đồng đã thảo luận đề án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế do Bộ Tư pháp soạn thảo; góp ý quy chế tập sự hành nghề luật sư; thông qua quy chế làm việc Hội đồng luật sư toàn quốc, ban thường vụ và các cơ quan giúp việc của liên đoàn; thành lập Ủy ban Phát triển kinh tế tài chính của liên đoàn...
Cũng trong phiên họp này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn giới luật sư Việt Nam.
Trước đó, trong hai ngày 26 và 27-8, Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã thông qua quy chế tổ chức và hoạt động của Ủy ban Bảo vệ quyền lợi luật sư; cho ý kiến hoàn thiện quy chế tổ chức và hoạt động của Ủy ban Giám sát đạo đức nghề nghiệp, khen thưởng, kỷ luật luật sư...
3. Báo An ninh thủ đô phản ánh: Từ ngày 3-9, Đoàn kiểm tra Liên ngành sẽ tiến hành kiểm tra công tác tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn TP Hà Nội.
Đoàn kiểm tra Liên ngành gồm đại diện Sở Tư pháp Hà Nội, Vụ Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp), Văn phòng UBND TP, Công an TP, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Cục Thuế, Đoàn Luật sư Hà Nội và UBND các quận, huyện, thị xã, phường, xã nơi có tổ chức hành nghề luật sư. Đoàn kiểm tra Liên ngành so Sở Tư pháp chủ trì..
Nội dung kiểm tra của Đoàn là kiểm tra trụ sở; việc hoạt động của tổ chức đó có đúng lĩnh vực hành nghề hay không. Đồng thời, kiểm tra việc thực hiện ký kết hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm xã hội cho các luật sư và nhân viên hoạt động tại các tổ chức hành nghề luật sư.
Cùng với kiểm tra công  tác tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, Sở Tư pháp và các đơn vị chức năng sẽ xem xét, tháo gỡ những bất cập trong hoạt động của các tổ chức luật sư, qua đó nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ luật sư hoạt động trên địa bàn TP Hà Nội.
4. Báo Tuổi trẻ có bài “Bị kẹt giữa cán cân công lý”. Bài báo phản ánh: Bị kẹt giữa dòng nợ nần, hai vợ chồng đi “xiết nợ” sai pháp luật và phải chịu án tù. Nhưng sau đó khi làm đúng pháp luật là kiện ra tòa, họ vẫn không đòi được nợ. Đó là tình cảnh oái oăm của chị Nguyễn Thị Hạnh và anh Nguyễn Thành Tân(Krông Buk, Đắc Lắc).
Ngồi lật lại những cuốn sổ cũ ghi nợ và những bản án, chị Hạnh nói trong nước mắt: “Ba năm trước vì thiếu kiềm chế, hiểu biết pháp luật nông cạn mà vợ chồng tôi đã lãnh án tù. Thế nhưng khi tôi khởi kiện đòi lại hơn 7 tấn cà phê nhân, tòa án quyết định phần thắng về tôi nhưng cả năm rồi tôi vẫn không lấy được tiền...”.
Năm 2005, giữa chị Nguyễn Thị Hạnh và chị Ưng Thị Mẫn có quan hệ mua bán cà phê theo hình thức ứng tiền, chốt cà phê trước, trả tiền sau. Sau nhiều lần mua bán, khấu trừ, chị Hạnh tính ra là chị Mẫn còn nợ mình 7.008,5kg cà phê nhân. Thời gian trả nợ là vào dịp cuối năm 2008 nhưng chị Mẫn dây dưa không trả dù chị Hạnh đã đi đòi nhiều lần. Trong khi đó, chị Hạnh cũng đang nợ nhiều người nên cảm thấy bức bách.
Ngày 5-7-2006, chị Hạnh nghe tin tại nhà bố đẻ của chị Mẫn, người nhà chị Mẫn đang bán cà phê cho người khác. Chị Hạnh và chồng cùng nhiều người thân quen đến ngăn cản và lấy cà phê “xiết nợ” trong xô xát. Bên nhà chị Hạnh lấy đi 4.950kg cà phê, bán được trên 92 triệu đồng. Số tiền này chị Hạnh dùng để trả nợ. Hậu quả là ba người ra tòa về tội cướp tài sản, trong đó chị Hạnh chịu ba năm tù, cho hưởng án treo, còn anh Tân ba năm tù giam. Chồng đi tù. Nhà cửa, rẫy vườn bán hết để trả bớt nợ, một nách tám con lại chịu án treo, trong hoàn cảnh ấy chị Hạnh khởi kiện chị Ưng Thị Mẫn ra Tòa án dân sự huyện Krông Buk để đòi lại số nợ 7.008,5kg cà phê nhân.
Lần lượt tòa sơ thẩm rồi phúc thẩm đều xử cho chị Hạnh thắng kiện. Những tưởng lần này pháp luật đã mỉm cười với chị, thế nhưng... Ngày 15-10-2008, chị Hạnh đã làm đơn gửi lên Cơ quan thi hành án dân sự huyện Krông Buk (nay là Cơ quan thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ) để xin được thi hành bản án nói trên nhưng mãi án vẫn không được thi hành. Tháng 1-2009 chị Hạnh lại gửi đơn viết tay đến Cơ quan thi hành án Krông Buk để một lần nữa nhắc về việc thi hành án này nhưng vẫn không được hồi âm. Chị Hạnh nói nguyện vọng của chị là được ngồi lại với chị Mẫn để tìm hướng giải quyết số nợ trên, chị Hạnh cũng đã tìm và gọi điện cho chị Mẫn nhưng không thỏa thuận được.
Ngày 5-8-2009, trao đổi với người viết bài này, ông Nguyễn Phương Chính, trưởng Cơ quan thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, cho biết: từ khi tách huyện thì sự vụ được chuyển về cho Cơ quan thi hành án thị xã Buôn Hồ nên cũng mất nhiều thời gian. Hơn nữa, ngày 16-10-2008, Cơ quan thi hành án cũng đã ra quyết định thi hành án buộc chị Mẫn phải trả số cà phê trên cho chị Hạnh nhưng chị Mẫn vẫn không trả.
Ông Chính nói: “Đã nhiều lần chúng tôi liên lạc qua điện thoại, gửi cả giấy báo về nhà chị Hạnh nhưng không thể liên lạc. Chị Hạnh cũng không lên Cơ quan thi hành án thị xã Buôn Hồ để được giải quyết”. Trong khi đó chị Hạnh khẳng định bên Cơ quan thi hành án thị xã Buôn Hồ chưa từng báo cho chị, chị cũng không nhận được giấy mời triệu tập nào cả.
Ông Chính cũng cho biết những khó khăn trong việc thi hành án vụ án như sau: “Ngoài việc chị Mẫn nợ chị Hạnh thì chị Hạnh đang có trách nhiệm phải trả nợ cho nhiều người khác nên chúng tôi cần gặp đầy đủ các bên giúp họ thỏa thuận. Với chị Mẫn thì 70 tấn còn trả được chứ không phải là 7 tấn nhưng chị ta cương quyết không trả nợ cho chị Hạnh. Chúng tôi biết chị Mẫn có tiền, có cà phê nhưng chị ấy nói là tiền và cà phê của người nhà chứ không phải của mình nên chúng tôi không thể thi hành án. Chị Mẫn còn lấy lý do nếu mình trả nợ cho chị Hạnh thì nợ của em gái chị ấy (tức vụ xiết nợ hơn 4 tấn cà phê nhân) làm sao đòi được”.
Ngoài ra, ông Chính còn cho biết: “Chị Mẫn có một lô đất trị giá hàng trăm triệu đồng. Nếu các bên chịu ngồi lại với nhau, Cơ quan thi hành án thị xã Buôn Hồ sẽ tiến hành cho các bên thỏa thuận. Nếu thỏa thuận không được, chúng tôi sẽ tiến hành cưỡng chế, kê biên tài sản của chị Mẫn để bán đấu giá, lấy nợ lại cho chị Hạnh. Nhưng tôi sợ không ai dám mua nhà đó đâu. Còn nếu tiến hành cho chị Hạnh trả số tiền dư so với nợ trên tài sản kê biên đó của chị Mẫn thì chị Hạnh lấy đâu ra tiền. Nếu hai phương án không thành công, chúng tôi sẽ đành trả lại hồ sơ cho chị Hạnh và chịu bó tay!”.
Báo cũng có bài “Xử phạt hành chính vi phạm giao thông: TP.HCM vẫn kiến nghị tăng gấp đôi”. Bài báo phản ánh: UBND TP.HCM tiếp tục kiến nghị như trên vì đó là biện pháp cấp bách, hữu hiệu để giảm kẹt xe và tai nạn giao thông. Một đại biểu Quốc hội nói trong trường hợp các mức phạt khác nhau được chứng minh là cần thiết thì phải kiến nghị sửa luật để áp dụng.
UBND TP.HCM vừa tiếp tục đề nghị Thủ tướng cho TP và thủ đô Hà Nội được thí điểm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ với mức phạt gấp đôi so với hiện hành. Theo UBND TP.HCM, trước khi thực hiện, UBND hai thành phố sẽ trình HĐND thông qua. Trước đây, vấn đề tăng mức phạt ở TP.HCM và Hà Nội đã được Bộ Giao thông vận tải đưa vào dự thảo nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông nhưng vừa bị Bộ Tư pháp “thổi còi”. Bộ Tư pháp cho rằng cùng một hành vi vi phạm nhưng mỗi nơi lại áp dụng quy định khác nhau là “không thực hiện đúng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật...”.
Trong kiến nghị mới nhất gửi Thủ tướng Chính phủ, UBND TP.HCM cho rằng tăng mức phạt hành chính đối với hành vi vi phạm giao thông là một biện pháp cấp bách, hữu hiệu nhằm làm giảm ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông tại hai thành phố lớn. UBND TP.HCM cũng nhấn mạnh: tại các địa bàn với tình hình ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông đang ở trạng thái nguy hiểm, có khả năng kìm hãm phát triển kinh tế - xã hội, nên phải có mức phạt hành chính cao hơn.
Theo UBND TP.HCM, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm trật tự an toàn giao thông là do hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ quá tải, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân còn kém... Trong khi đó các quy định về cưỡng chế thi hành pháp luật đối với hai địa bàn trọng điểm là TP.HCM và Hà Nội vẫn chưa thật sự nghiêm khắc. UBND TP.HCM cho biết tại nhiều cuộc họp, cả Hà Nội và TP.HCM đều kiến nghị Chính phủ điều chỉnh nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo hướng cho phép hai thành phố được áp dụng mức xử phạt cao hơn các địa phương khác.
Trao đổi với PV Tuổi Trẻ về việc UBND TP.HCM tiếp tục đề nghị Thủ tướng cho tổ chức thí điểm tăng mức gấp đôi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, ông Lê Hồng Sơn (cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp) cho rằng ý kiến của Bộ Tư pháp đã thể hiện rõ trong văn bản trước đây.
Theo đó, cùng một hành vi vi phạm nhưng mỗi nơi lại áp dụng quy định xử phạt khác nhau là không thực hiện đúng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Ông Lê Hồng Sơn bày tỏ quan điểm: “Việc này sẽ do Chính phủ xem xét, quyết định nhưng tôi nghĩ là khó”. Theo ông Lê Hồng Sơn, việc giảm ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông phải được thực hiện đồng bộ, trong đó xử phạt vi phạm hành chính chỉ là một giải pháp, với các quy định chung trong toàn quốc nếu được thực hiện thật nghiêm cũng sẽ có tác dụng nhất định.
Về phía Bộ Giao thông vận tải, theo bà Trịnh Minh Hiền (vụ trưởng Vụ Pháp chế), bộ trưởng Bộ GTVT đã ký tờ trình đề nghị Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội “cho phép thực hiện thí điểm việc áp dụng mức phạt tiền cao hơn mức quy định chung đối với một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Hà Nội và TP.HCM”.
Như vậy, mặc dù không có trong dự thảo nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, nhưng việc nâng mức phạt ở Hà Nội và TP.HCM cao hơn so với quy định chung vẫn đang được đề nghị lên các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Đề cập vấn đề này, ông Trần Ngọc Vinh (ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội) cho rằng ý kiến của Bộ Tư pháp về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là có cơ sở. Trong trường hợp mức phạt khác nhau được chứng minh là cần thiết thì cần phải kiến nghị sửa luật để áp dụng.
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Lê Ninh (ủy viên ban chấp hành Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật TP.HCM) cho rằng tăng xử phạt vi phạm giao thông không phải là giải pháp tối ưu để chống ùn tắc, vấn đề quan trọng nhất vẫn là tổ chức  giao thông thật tốt, tăng diện tích mặt đường, nhất là giảm xây nhà chung cư hay cao ốc trong nội thành. Theo ông Ninh, đây là bài toán quy hoạch, không thể chỉ một biện pháp hành chính là có thể giải quyết được tình trạng kẹt xe ở TP.HCM hay Hà Nội.
Tương tự, luật sư Lê Đình Phạt nói: “Không nhất thiết phải xử phạt nặng hơn mới tránh được vi phạm hay ùn tắc giao thông. Để giải quyết những vấn đề này còn có nhiều giải pháp kỹ thuật khác: mở rộng đường, phân tuyến hợp lý, tuyên truyền vận động người tham gia giao thông chấp hành luật, tăng cường kiểm tra, giám sát...”.
Theo ông Doãn Phi Anh (nguyên giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển giao thông vận tải phía Nam), kẹt xe trong mấy năm qua phần lớn là do “lô cốt”, do các công trình giao thông chậm tiến độ. Nếu chính quyền TP giải quyết ngay chuyện này thì vấn nạn giao thông sẽ giảm và chưa hẳn phải cần tới một biện pháp hành chính cứng rắn. 
Trên đây là điểm báo sáng ngày 01/9/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm