Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 6 năm 2009

01/06/2009
Trong buổi sáng ngày 01/6/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Trương Ngọc Hân vừa phê duyệt đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh này.
Theo đề án, giai đoạn 2009-2011, Đồng Tháp sẽ có tám tổ chức hành nghề công chứng. Trong đó giữ nguyên ba phòng công chứng hiện hành và thành lập thêm năm văn phòng công chứng ở các huyện Tam Nông, Tháp Mười, Lấp Vò, Hồng Ngự, Cao Lãnh. Giai đoạn 2012-2015, tỉnh sẽ thành lập thêm bảy văn phòng công chứng ở các huyện, thị xã, thành phố còn lại. Sau năm 2015, tỉnh sẽ phát triển thêm một số văn phòng công chứng ở những nơi có yêu cầu, phù hợp với định hướng của tỉnh.
Báo cũng có bài “Nhà bị kê biên đến 18 năm”. Bài báo phản ánh: Đó là trường hợp của bà Lê Thị Vinh, ngụ phường 7, quận Tân Bình, TP.HCM. Tháng 9-1990, bà Vinh bị TAND quận Tân Bình ra bản án buộc phải trả cho sáu nguyên đơn hơn 20 triệu đồng và gần 40 chỉ vàng.
Tháng 9-1991, TAND quận Tân Bình đã kê biên căn nhà của bà Vinh để đảm bảo việc thi hành án. Ngay sau đó, bà Vinh đã nộp cho TAND quận Tân Bình ba bản án khác mà theo đó bà được các bị đơn hoàn trả gần 20 chỉ vàng và hơn bảy triệu đồng.
Tháng 9-1994, Đội thi hành án quận Tân Bình đã gửi cho bà Vinh bản thông báo cân đối nợ của bản án mà bà phải thi hành với ba bản án mà bà được thi hành. Thông báo này cho biết sau khi cấn trừ qua lại giữa các bản án thì bà Vinh chỉ phải thi hành án với số tiền hơn 11 triệu đồng và hơn bảy chỉ vàng. Thông báo cũng hạn định đến giữa tháng 10-1994 bà Vinh phải nộp đủ số tiền và vàng trên.
Bà Vinh cho biết do không đủ tiền nộp ngay nên bà đã xin hoãn cưỡng chế thi hành án để được nộp nhiều lần. Đến năm 2008, bà đã nộp đủ số tiền và vàng còn lại như thông báo của Đội thi hành án quận. Nhưng khi bà đề nghị được giải tỏa lệnh kê biên căn nhà thì cơ quan này đã không chấp thuận, viện lẽ bà chưa thi hành xong bản án. Thi hành án quận còn cho biết thông báo cân đối nợ đã được ban hành sai quy định.
Sáng 29-5, trao đổi với phóng viên, ông Đinh Trọng Hưng, Phó Thi hành án quận Tân Bình, cho biết: “Năm 1997, khi tiếp nhận hồ sơ vụ việc, chúng tôi đã phát hiện thông báo nêu trên của Đội thi hành án quận không phù hợp luật định. Ngay sau đó, chúng tôi đã báo cho bà Vinh biết điều này nhưng bà cứ đòi thi hành án theo thông báo cũ và tất nhiên là chúng tôi không đồng ý. Chúng tôi đã hỗ trợ bà Vinh bằng cách thuyết phục những người phải thi hành án cho bà Vinh nộp khoản tiền còn nợ theo những bản án cũ và một số người đã tự nguyện trả lại tiền cho bà. Về phía bà Vinh, không còn cách nào khác là bà phải thi hành án theo đúng nội dung của bản án mà bà là bị đơn. Chỉ sau khi bà Vinh nộp đủ số tiền thi hành án hoặc các bên được thi hành án tự nguyện không yêu cầu bà Vinh thi hành án nữa, chúng tôi mới có thể dỡ bỏ lệnh kê biên nhà”.
Báo cũng cho biết: Bộ Tư pháp đang xúc tiến chủ trì xây dựng đề án thí điểm thành lập công ty tư vấn hôn nhân quốc tế tại TP.HCM.
Sẽ có một công ty được thành lập, hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài. Theo các thành viên nhóm soạn thảo, hiện có khá nhiều ý kiến tranh luận xung quanh việc xác định công ty nói trên hoạt động theo mô hình nào: công ty TNHH, công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân? Tuy nhiên, nhóm soạn thảo đang nghiêng theo phương án thành lập công ty TNHH nhà nước một thành viên do UBND TP.HCM thành lập hoặc công ty TNHH do nhà nước góp vốn chủ yếu. Một vấn đề khác cũng đang được cân nhắc là mối quan hệ giữa công ty nói trên với các tổ chức môi giới kết hôn (được thành lập hợp pháp) của nước ngoài như thế nào?
Nhóm soạn thảo cho biết vướng mắc lớn nhất khi xây dựng đề án này là việc hai nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Thương mại quy định nghiêm cấm việc kinh doanh môi giới kết hôn.
Theo thống kê, cả nước hiện có 15 trung tâm hỗ trợ kết hôn do Hội Phụ nữ Việt Nam thành lập, hoạt động tại 15 tỉnh, thành trong cả nước; trong đó chỉ có hai trung tâm hoạt động tương đối hiệu quả là trung tâm tại TP.HCM và Hải Phòng.
Báo cũng phản ánh: UBND tỉnh Bình Thuận cho biết chủ tịch UBND tỉnh vừa quyết định điều chỉnh Quyết định 1134 ký ngày 24-4 về chuyển giao hợp đồng công chứng, giao dịch từ chín huyện, thị tập trung về TP Phan Thiết. Từ ngày 7-6, tất cả các xã, phường ở TP Phan Thiết phải chuyển việc chứng thực hợp đồng, giao dịch đến Phòng Công chứng số 1 của tỉnh. Riêng việc chứng thực hợp đồng giao dịch ở chín huyện, thị còn lại sẽ do UBND cấp xã đảm nhận như cũ.
Trước đó, Pháp Luật TP.HCM đã đưa tin, theo tham mưu của Sở Tư pháp, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận đã ra quyết định chuyển giao việc chứng thực hợp đồng giao dịch của tất cả 10 huyện, thị, TP về Phòng Công chứng số 1 tỉnh. Sau quyết định này, người dân đã gặp rất nhiều khó khăn, khi có nhu cầu chứng thực họ phải đi xa cả trăm cây số vì toàn tỉnh chỉ có một nơi công chứng.
2. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Ông Phạm Cuộc (62 tuổi, nguyên giám đốc Sở Tư pháp Phú Yên) được xác định đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền của Nhà nước, lập chứng từ khống thanh toán tiền công tác phí, lập quỹ trái quy định... Do vậy, từ năm 2000 đến 2004, các sai phạm của ông đã gây thiệt hại, thất thoát tổng cộng hơn 170 triệu đồng.
Sau 3 ngày xét xử, ngày 29/5, TAND Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) tuyên phạt ông Cuộc 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, về hai tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và tham ô tài sản. Tòa cũng tuyên buộc bị cáo và những người liên quan bồi thường toàn bộ số tiền thiệt hại, chiếm đoạt.
3. Báo Lao động có bài Lạm phát đóng dấu... "mật" của Luật sư Phan Trung Hoài. Bài báo phản ánh: của Luật sư Phan Trung HoàiBài báo phản ánh: Trong phiên toà do Toà án nhân dân TPHCM đang xét xử vụ án điện kế điện tử, đã bất ngờ phát hiện bản kết luận giám định của Hội đồng Giám định tư pháp đã được đóng dấu "mật"!
Theo quy định của pháp luật, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trong quản lý nhà nước đều có chế độ quản lý tài liệu, thông tin làm sao đảm bảo hiệu quả trong quản lý nhưng không xâm hại đến quyền tiếp cận thông tin một cách công khai, minh bạch của các đối tượng quản lý. Vì thế mới sinh ra việc chế định danh mục các tài liệu có độ "mật", "tối mật", "tuyệt mật" do Thủ tướng Chính phủ, thủ trưởng bộ, ngành và Bộ trưởng Bộ Công an ban hành, mà nếu ai vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Không chỉ ở nhiều nước có trình độ phát triển cao, chính quyền quy định cả thời hạn và cơ chế "giải mật", cho phép công bố cả những điều tuyệt mật, mang tính nhạy cảm để bàn dân thiên hạ biết, mà ngay ở nước ta, vừa rồi Cục Lưu trữ Quốc gia thuộc Bộ Nội vụ cũng đã tổ chức công bố một số thông tin, tư liệu để người dân hiểu rõ thêm về một sự kiện của một giai đoạn lịch sử... Vậy mà trong phiên toà do Toà án nhân dân TPHCM đang xét xử vụ án điện kế điện tử, trong phần thẩm vấn của luật sư, đã bất ngờ phát hiện bản kết luận giám định của Hội đồng Giám định tư pháp theo vụ việc do Bộ Công thương thành lập, đã được đóng dấu "mật".
Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ, theo quy định tại các Điều 60 (người giám định), Điều 73 (kết luận giám định), từ Điều 155 đến 157 (về trưng cầu, tiến hành và nội dung kết luận giám định) của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Pháp lệnh Giám định tư pháp không có một câu chữ nào cho phép hội đồng giám định hay giám định viên tự ý đóng dấu "mật" lên bản kết luận giám định cả. Pháp lệnh Giám định tư pháp cũng chỉ quy định khi tiến hành giám định, nghĩa vụ của giám định viên là giữ bí mật về kết quả giám định, thông tin và tài liệu giám định mà thôi... Câu hỏi được đặt ra tại phiên toà là: "Vậy hội đồng giám định định "bí mật" nội dung kết luận giám định này với ai?".
Lại nhớ đã xảy ra một cuộc tranh cãi trong vụ án về điện thoại di động mà thân chủ của tôi bị quy buộc tội danh "buôn lậu" cách đây đã hơn 3 năm, khi luật sư phản đối thẩm phán thụ lý vụ án tự ý đóng dấu "mật" lên quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, được ghi ở dưới là gửi cho những người tham gia tố tụng, nhưng thực tế bị can và luật sư không hề nhận được quyết định này. Lúc đã phản đối việc tự ý đóng dấu "mật" trong quyết định nói trên là không phù hợp với danh mục bí mật Nhà nước độ "mật" của ngành toà án theo Quyết định số 30/2004 ngày 8.1.2004 của Bộ trưởng Bộ Công an. Mặt khác, "quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung" theo thẩm quyền của thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà được quy định tại điểm (b) khoản 3 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự là một trong những quyết định trong hoạt động tố tụng bình thường, không phải là tài liệu "mật".
Thêm mới đây, báo chí đưa tin về kết quả nghiên cứu một đề tài khoa học của Thanh tra Chính phủ, phát hiện ra  nhiều bản kết luận thanh tra trong ngành mình lại được đóng dấu "mật", việc này hạn chế hiệu quả công tác thanh tra, chống tham nhũng. Việc đóng dấu "mật" lên quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, kết luận giám định hay kết luận kiểm tra, thanh tra nêu trên cho thấy sự thiếu minh bạch và công khai trong hoạt động của những người tiến hành, tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự và trong hoạt động thanh kiểm tra trong quản lý hành chính nhà nước...
Vẫn biết hoạt động tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật, giữ yên lành cho đời sống người dân, nhưng vì nó đụng chạm đến thân phận của nhiều người liên quan đến vụ án, mà nếu oan sai có thể ảnh hưởng đến cả hoà khí của đất nước, nên việc thận trọng trong đánh giá, cung cấp thông tin, tài liệu là cần thiết. Tuy nhiên, việc để cho những "vùng cấm" tồn tại và được mở rộng như thế là những điều mà lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan bổ trợ tư pháp cần suy nghĩ, xem xét lại. Bởi lẽ, tinh thần xuyên suốt của Bộ luật Tố tụng hình sự nước ta là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, xét xử công khai (trừ trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ).
Ngược lại, điều mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần đảm bảo chính là "quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân" như được quy định tại Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Báo cũng có bài Hành nghề luật sư: Vẫn như trong cơ chế xin - cho”. Bài báo phản ánh: Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 (có hiệu lực vào ngày 1/7/2004) đã bổ sung, sửa chữa những hạn chế của BLTTHS năm 1988. So với trước, lần sửa đổi này BLTTHS  đã có những điều khoản quy định thể hiện đậm nét bản chất của một nhà nước pháp quyền, đặc biệt đối với hoạt động luật sư. Tuy nhiên quá trình vận dụng do thiếu văn bản hướng dẫn hoặc luật quy định không rõ nên luật sư (LS) vẫn ở vị thế pháp lý chưa tương xứng như  mong đợi của Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về "cải cách tư pháp".
Điều 56, 57, 58 Bộ Luật TTHS năm 2003 định nghĩa và quy định "Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa", cho phép LS tham gia tố tụng từ ngay giai đoạn khởi tố bị can. Trong trường hợp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp - Điều 81" và "Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã - Điều 82" thì LS được phép tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giữ (ngoại trừ đối với loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia).
Điều khoản này là một bước tiến so với trước và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm một vụ án hình sự được giải quyết khách quan đúng pháp luật, tránh những thiếu sót, sai lầm của người tiến hành tố tụng ngay từ giai đoạn đầu tiên, đồng thời người dân khi bị tình nghi phạm tội cũng sẽ được bảo đảm quyền lợi của mình hơn trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên trên thực tế sau gần 5 năm thực hiện, những điều khoản tiến bộ nói trên của BLTTHS không có nhiều cơ hội để áp dụng, vì nội dung còn quá chung chung và thiếu chế tài.
Ví dụ khoản 4, Điều 56 quy định các cơ quan liên quan đến tố tụng phải cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa trong thời gian từ 24 tiếng đến 3 ngày (tuỳ trường hợp); nếu từ chối phải nêu rõ lý do. Thế nhưng cho đến thời điểm này, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có thông tư nào giải thích, hướng dẫn cụ thể cho thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, vì vậy mỗi địa phương hành xử theo một kiểu.
Có nơi yêu cầu chỉ cần đơn mời LS của bị can, bị cáo hoặc người thân thích, đại diện (bị can, bị cáo), kèm theo giấy giới thiệu của Văn phòng LS là đủ, nhưng có địa phương bắt buộc LS phải trình thẻ hành nghề, chứng chỉ hành nghề do Bộ Tư pháp cấp, giấy phép hoạt động văn phòng LS, hợp đồng giữa LS và Văn phòng LS và cá biệt có nơi còn đòi cả lý lịch tư pháp...
Trong khi để có các loại giấy tờ trên (như lý lịch tư pháp) thì phải mất từ 1-2 tháng để thực hiện. Đó là chưa kể việc người bào chữa phải đi lại rất nhiều lần vì điều tra viên không phải lúc nào cũng ở cơ quan. Có thể hình dung việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho LS hiện nay không khác cơ chế xin - cho là mấy. Khó khăn thường gặp nhất là giai đoạn điều tra. Không chỉ có nhiêu khê trong việc đòi hỏi thủ tục lúc nhặt, lúc thưa, mà ngay chính quy trình cấp giấy chứng nhận cũng là một yếu tố làm nản lòng người bào chữa.
Do thiếu những quy định cụ thể, nên mỗi cấp, mỗi địa phương đều khác nhau. Có nơi văn phòng cơ quan điều tra nhận trực tiếp rồi chuyển cho điều tra viên, tuần tự lên thủ trưởng cơ quan điều tra; nhưng có nơi bắt buộc phải chuyển theo đường công văn... Có thể nói sự thành hay bại của LS trong giai đoạn này tuỳ thuộc vào "tâm trạng" của người tiếp nhận hồ sơ " thích hay không thích" chứ không ràng buộc bởi bất kỳ quy định chặt chẽ nào của pháp luật.
Trong điều kiện mở rộng tranh tụng như tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo là đặc biệt quan trọng. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng cần tạo hết điều kiện thuận lợi để LS tham gia tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
4. Báo Hà Nội mới có bài Công chứng tư còn non kém trong xử lý nghiệp vụ. Bài báo phản ánh: Đây là nội dung trọng tâm được nhấn mạnh tại hội thảo bàn về hiệu quả hoạt động của các văn phòng công chứng (VPCC) tại Hà Nội do Sở Tư pháp thành phố chủ trì, tổ chức ngày 28-5. Đại diện của Bộ Tư pháp và các công chứng viên của toàn bộ 39 VPCC (phòng công chứng tư) trên địa bàn thành phố đã tham dự, đóng góp ý kiến.
Theo Ban tổ chức, thực thi Luật Công chứng, Hà Nội đã cấp giấy phép hoạt động cho 39 VPCC với 46 công chứng viên (CCV), trong đó có 4 VPCC hoạt động theo hình thức công ty hợp danh và 35 VPCC hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Hoạt động của các VPCC đã giúp giảm thiểu sự quá tải của các phòng công chứng nhà nước trước đây. Tuy nhiên, sau gần 1 năm hành nghề, hoạt động của các VPCC này đã bộc lộ nhiều bất cập. Trong đó đáng kể là sự non kém về nghiệp vụ và kinh nghiệm của không ít CCV dẫn đến tình trạng công chứng ẩu, ký xác thực công chứng mà không đọc kỹ văn bản. Kết quả là có bản công chứng bị cơ quan chức năng trả lại, không chấp thuận.
5. Báo Nhân dân có bài Thi hành dứt điểm các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Bài báo phản ánh: Công tác thi hành án tuy đạt được một số kết quả nhất định, song vẫn còn nhiều vướng mắc. Nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật chậm được đưa ra thi hành, dẫn đến việc quyền lợi chính đáng của những người liên quan không được bảo đảm.
Bạn đọc Hồ Minh Ðạt (Ðồng Nai): Theo quy định, mọi bản án của cơ quan xét xử sau khi có hiệu lực pháp luật đều phải được đưa ra thi hành đầy đủ, kịp thời. Cơ quan thi hành án các địa phương đã thực hiện nhiều biện pháp đẩy nhanh tiến độ thi hành các bản án, nhưng trên thực tế, số lượng bản án còn tồn đọng nhiều. Không ít trường hợp bị kéo dài đến khi đưa ra thi hành thì người được hưởng quyền lợi đã qua đời. Công tác phối hợp giữa chính quyền, đoàn thể địa phương và các cơ quan, tổ chức nơi người chấp hành án sinh sống, làm việc với cơ quan chuyên trách thi hành án thiếu chặt chẽ. Việc kiểm soát thu nhập cá nhân còn nhiều vướng mắc, gây khó khăn cho chấp hành viên khi ra quyết định đôn đốc, cưỡng chế thu hồi tài sản của người phải thi hành án. Nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, nhiều đương sự tìm cách tẩu tán tài sản.
Bạn đọc Lê Thanh Vân (Hà Tĩnh): Tháng 4-2000, do mâu thuẫn giữa hai gia đình, Dương Văn Phương, trú tại xã Cẩm Mỹ (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) đã dùng dao gây thương tích nặng cho bà Ðặng Thị Chúc ở cùng thôn. Ngày 13-2-2003, Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao ban hành bản án tuyên phạt Dương Văn Phương tám năm tù giam và buộc bồi thường cho bà Chúc 13,4 triệu đồng. Về hình phạt tù, Phương đã hoàn thành nghĩa vụ cải tạo và được trở về với gia đình. Nhưng còn khoản tiền bồi thường dân sự, kể từ khi bản án có hiệu lực đến nay, bị án Phương mới trả cho bà Chúc được 4,5 triệu đồng. Trong khi đó theo phản ánh của người dân, gia đình Phương mới xây nhà, mua sắm tài sản hàng trăm triệu đồng.
Bạn đọc Nguyễn Quang Thọ (Nam Ðịnh): Ngày 8-11-2006, Tòa án Nhân dân tỉnh Nam Ðịnh xét xử vụ án Phạm Thị Loan ở xóm 2, xã Trực Khang (Trực Ninh, Nam Ðịnh) do gây thương tích cho chị Ðồng Thị Tơ. Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Loan hai năm tù và buộc bồi thường cho người bị hại năm triệu đồng. Ðến nay, bị cáo  Loan chưa chấp hành hình phạt tù và cũng chưa bồi thường đủ tiền cho chị Ðồng Thị Tơ.
6. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Sóc Trăng: Trưởng thi hành án dân sự “trả treo” với UBND tỉnh. Bài báo phản ánh: Trong khi Đảng, Nhà nước cùng nhân dân đang thực hiện học tập theo gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì trong xã hội xảy ra nhiều trường hợp mặc dù đã có ý kiến chỉ đạo của cấp trên, nhưng cấp dưới lại không thi hành khiến cho người dân khiếu nại, khiếu kiện kéo dài. Trường hợp Thi hành án (THA) TP. Sóc Trăng không chấp hành chỉ đạo của UBND tỉnh, điều đó cho thấy rằng “tính quan liêu, tính cá nhân” còn tiềm ẩn rất lớn trong nhiều cán bộ, công chức của địa phương.
Cho đến thời điểm tháng 5-2009, là khoảng thời gian gần 10 năm để THA TP. Sóc Trăng “ngâm” hồ sơ của ông Lê Hoàng Tấn (ngụ 90a Điện Biên Phủ, khóm 3, phường 6, TP. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng). Theo trình bày của ông Tấn, vào năm 1995 do quan hệ làm ăn nên bà Trương Thị Ngó mắc nợ bà Trương Thị Lệ (vợ ông Tấn) với số tiền vốn lẫn lãi là 192,5 triệu đồng nhưng bà Ngó không chịu trả, bà Lệ đã khởi kiện ra tòa. Tại bản án số 35, ngày 26-4-1999, Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Sóc Trăng quyết định: buộc bà Trương Thị Ngó và gia đình có trách nhiệm trả cho bà Lệ số tiền 192,5 triệu đồng. Khi bản án có hiệu lực, Đội THA thị xã Sóc Trăng có các quyết định thi hành án số: 77, ngày 25-5-1999; số 34, ngày 21-12-1999; số 153, ngày 20-3-2003 đồng thời tiến hành kê biên, định giá căn nhà số 90 đường Điện Biên Phủ, phường 6, thị xã Sóc Trăng do bà Ngó đang quản lý sử dụng. Trong quá trình kê biên tài sản đã nảy sinh tranh chấp giữa ông Trương Thiết Châu (là anh của bà Ngó) với bà Ngó. Ngày 24-8-2004, TAND tỉnh Sóc Trăng ra quyết định đình chỉ vụ án vì thời hiệu khởi kiện của ông Trương Thiết Châu đã hết. Sau đó ông Trương Thiết Châu kháng cáo, ngày 23-11-2004 Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM quyết định bác đơn kháng cáo của ông Châu, giữ nguyên quyết định ngày 24-8-2004 của TAND tỉnh Sóc Trăng.
Liên quan đến nguồn gốc căn nhà số 90 đường Điện Biên Phủ là do bà Khưu Thị Láng (mẹ ruột của bà Ngó) đứng tên sở hữu. Năm 1989, bà Láng ủy quyền cho bà Ngó đứng tên sở hữu và năm 1991 bà Láng chết nên căn nhà trên thuộc sở hữu của bà Ngó. Căn cứ vào điều 242 Bộ luật dân sự cùng giấy ủy quyền lập ngày 27-1-1989 cũng như giấy xác nhận ngày 15-2-1989 và 2-3-1989 đã được UBND phường 6, thị xã Sóc Trăng xác nhận bà Láng đã ủy quyền cho bà Ngó được sở hữu căn nhà và quyền sử dụng đất hợp pháp tại số nhà 90 đường Điện Biên Phủ. Tại khoản 5, điều 41 của Pháp lệnh thi hành án dân sự có quy định: “Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp thì chấp hành viên vẫn có quyền kê biên và giải thích cho đương sự về quyền khởi kiện theo thủ tục dân sự. Hết thời hạn ba tháng kể từ ngày kê biên mà không có người khởi kiện thì tài sản bị kê biên được xử lý để thi hành án”.
Trước những việc làm tắc trách của cơ quan THA, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng có các văn bản số 05, ngày 28-2-2003; số 02, ngày 13-1-2005 yêu cầu THA sớm thi hành bản án trên. Tiếp đó, ngày 13-11-2006, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng có văn bản số 1461/PC-VP chỉ đạo Sở Tư pháp chủ trì giải quyết dứt điểm vụ việc thi hành án giữa bà Trương Thị Lệ và bà Trương Thị Ngó, văn bản ghi rõ “giao Giám đốc Sở Tư pháp chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh sớm giải quyết vụ việc trên theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh”. Thế nhưng, ngày 26-3-2009, ông Phạm Văn Nguyên - Trưởng THA dân sự TP. Sóc Trăng - có văn bản 174 gửi cho lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng về việc trả lời khiếu nại của bà Trương Thị Lệ, nội dung ghi rõ “bà Trương Thị Lệ cho rằng cơ quan thẩm quyền cấp trên có ý kiến chỉ đạo đưa ra phát mãi căn nhà số 90 Điện Biên Phủ của bà Trương Thị Ngó là chưa trung thực vì tính đến nay chưa có sự chỉ đạo nào của cơ quan có thẩm quyền về việc xử lý căn nhà số 90 để thi hành án”.
Như vậy, mặc dù cấp trên đã chỉ đạo nhưng THA đã “chây ì” trong giải quyết vụ việc, cố tình làm trái những quy định của pháp luật, gây mất lòng tin trong nhân dân khi sự việc đã quá rõ ràng. Một bản án được thi hành cho đương sự theo đúng trình tự, thủ tục quy định hiện hành luôn được người dân đồng tình ủng hộ, thế nhưng... Qua bài viết này, đề nghị lãnh đạo tỉnh Sóc Trăng sớm có những động thái tích cực giải quyết dứt điểm vụ việc kéo dài cả chục năm qua mà lẽ ra không đáng có.
7. Trang web Đài tiếng nói Việt Nam có bài Thi hành án có “vô tư”?. Bài báo phản ánh: Năm 2008, chúng tôi đăng loạt bài điều tra: “Một vụ án có vấn đề”, phản ánh những mâu thuẫn của cơ quan tố tụng trong quá trình xét xử vụ án kinh doanh thương mại giữa Công ty CIRI và Cty Vạn Niên. 8 tháng sau, ngày 22/4/2009, Tòa Kinh tế TAND Tối cao đã xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định phúc thẩm của TAND TP. Hà Nội và giao hồ sơ vụ án cho TAND TP. Hà Nội xét xử phúc thẩm lại. Sai lầm trong xét xử đang được sửa sai, mức độ thế nào còn chờ phán quyết của phiên tòa phúc thẩm sắp tới. Tuy nhiên, trong vụ án bạc tỷ này, còn đó những dấu hiệu bất thường từ phía cơ quan thi hành án.
Như đã phản ánh, ngày 10/11/2006, Cty CIRI ký Hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất trúng đấu giá có diện tích 7.236m2 tại Khu đô thị mới quận Cầu Giấy (Hà Nội) cho Cty Vạn Niên, với giá 89.002.800.000 đồng. Hợp đồng ghi rõ: CIRI cam kết sẽ chuyển nhượng cho Vạn Niên quyền sử dụng lô đất ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày CIRI được cấp GCNQSDĐ, 2 bên sẽ tiến hành ký Hợp đồng chuyển nhượng theo đúng qui định của pháp luật…
Tuy nhiên, ngày 20/11/2007, Vạn Niên tự ý khởi kiện CIRI vi phạm hợp đồng cam kết, trong khi gần 3 tháng sau, ngày 18/2/2008, CIRI mới nhận được GCNQSDĐ. Vậy mà TAND quận Đống Đa vẫn thụ lý và xét xử vượt cả yêu cầu của Vạn Niên. Đơn khởi kiện của Vạn Niên chỉ đề nghị “Tòa buộc CIRI phải thực hiện đúng theo Hợp đồng cam kết…”, nhưng phán quyết của TAND quận Đống Đa tại bản án sơ thẩm lại “bước qua” cả qui định “Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện yêu cầu”, mà tuyên rằng: “Buộc CIRI phải bàn giao đất cùng GCNQSDĐ cho Vạn Niên; Vạn Niên được sử dụng toàn bộ diện tích 7.220,9m2 đất”. Về nội dung phán xử này, Quyết định giám đốc thẩm của Tòa Kinh tế TAND Tối cao ghi rõ: “không đúng pháp luật, vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự và thẩm quyền của Tòa án; không đúng với nội dung cam kết trong hợp đồng”.
Không chấp nhận bản án sơ thẩm, Cty CIRI làm đơn kháng cáo, nhưng cuối cùng TAND TP. Hà Nội đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, đẩy CIRI vào tình thế bất lợi: Phải thi hành bản án sơ thẩm “xử vượt yêu cầu khởi kiện” kể trên. Và từ đây xuất hiện một sức ép quyết liệt đến bất thường từ phía cơ quan thi hành án đối với CIRI.
Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm TAND TP. Hà Nội ra ngày 19/5/2008, thì 8 ngày sau, Thi hành án dân sự (THADS) quận Đống Đa đã có Quyết định THA, rồi từ đó, tiếp tục ra hàng loạt văn bản THA một cách nhanh chóng để giao bằng được 7.220,9m2 đất có trị giá hơn 89 tỉ đồng cho Cty Vạn Niên: Ngày 27/5, ra Quyết định THA số 26/KT/QĐ-THA, đồng thời ra luôn Quyết định THA chủ động số 27/KT/QĐ-THA; Ngày 16/6, ra Thông báo THA số 139/THA; Ngày 2/7, ra Thông báo cưỡng chế số 26/TBCC, đồng thời ra luôn Quyết định cưỡng chế số 16/QĐ-THA; Ngày 3/7, ra Quyết định THA bổ sung số 34/QĐ-THA…; cứ thế, cho đến ngày 18/8: Tổ chức bàn giao mốc giới cho Vạn Niên vào lúc 8h30.
Đáng chú ý là trong “dòng chảy” văn bản THA kể trên, nhận thấy nội dung bản án sơ thẩm có vấn đề, việc đẩy nhanh quá trình THA trong trường hợp này là chưa cần thiết, cần được xem xét lại để tránh những thiệt hại không đáng có cho các bên, đảm bảo tính khách quan của quá trình giải quyết vụ án, đồng thời xét thấy đối tượng kháng cáo ở đây là bản án sơ thẩm của TAND quận Đống Đa, ngày 7/7, Chánh án TAND TP. Hà Nội đã ký Công văn 107 đề nghị hoãn THA trong thời hạn 3 tháng.
Đáp lại, với tốc độ nhanh đến không ngờ: Chỉ 3 ngày sau, Vụ 10 VKSND Tối cao đã có ngay văn bản trả lời khiếu nại của Cty Vạn Niên;  và 4 ngày sau (11/7), Cục THA có văn bản trả lời THADS Hà Nội. Tất cả đều cùng một nội dung: Thẩm quyền đề nghị hoãn THA trong vụ này không thuộc Chánh án TAND TP. Hà Nội.
Trong khi đó, trên khu đất mà Tòa buộc CIRI phải giao cho Vạn Niên lại đang tồn tại một căn nhà thuộc sở hữu của CIRI, hình thành trước thời điểm Vạn Niên khởi kiện. Theo hướng dẫn nghiệp vụ về THADS trên trang thông tin của Bộ Tư pháp, mục 12.1: “Nếu việc xây dựng… được thực hiện trước khi có bản án thì cơ quan THA yêu cầu Tòa án ra bản án giải thích rõ nội dung bản án hoặc đề nghị Tòa có thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục Giám đốc thẩm, tái thẩm”. Tuy nhiên, cơ quan THA đã không ra văn bản về việc rất cần được hướng dẫn này. Vì thế, không thể không đặt câu hỏi: Phải chăng vì việc ra văn bản này có lợi cho CIRI và bất lợi cho Vạn Niên nên THA “bỏ qua”?
Đáng chú ý là ngoài trường hợp này, còn rất nhiều diễn biến khác cho thấy sự đối xử không công bằng từ phía cơ quan chức năng đối với CIRI. Xin nêu thêm 2 trường hợp: §ể có bằng chứng về việc CIRI chưa nhận được GCNQSDĐ khi Vạn Niên khởi kiện,  CIRI phải 3 lần gửi công văn và phải chờ đợi hơn 2 tháng thì Sở TN&MT Hà Nội mới có công văn xác nhận ngày cấp GCNQSDĐ cho CIRI - một việc tưởng rất dễ dàng, lại trở nên quá khó với CIRI? Để có được Quyết định giải quyết khiếu nại số 09/QĐGQKN-THA của THADS TP. Hà Nội, CIRI cũng phải chờ đợi tới 3 tháng, mặc dù theo qui định tại Điều 60 Pháp lệnh THA dân sự, thời hạn trả lời không được quá 15 ngày?
Cứ cho rằng, việc ra văn bản đáp lại một cách nhanh chóng công văn đề nghị hoãn THA của Chánh án TAND TP. Hà Nội với lý do “đề nghị hoãn THA vụ án đã có Quyết định đình chỉ xét xử của cấp phúc thẩm không thuộc thẩm quyền của Chánh án TAND TP. Hà Nội” để tiếp tục thi hành bản án là một việc làm tích cực và đúng pháp luật trong công vụ của cơ quan THA. Nhưng sẽ lý giải thế nào cho sự “tích cực và đúng pháp luật” của cơ quan THA khi Chánh án TAND Tối cao đã ra kháng nghị mà cơ quan này vẫn “kiên trì” quyết định THA? Chuyện “kiên trì” này diễn ra như sau.
Ngày 18/8/2008, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng, Phó Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chính thức có ý kiến đề nghị Chánh án TAND Tối cao xem xét lại vụ án này. Và ngày 29/12/2008, Chánh án TAND Tối cao đã ra Kháng nghị với nội dung: Đề nghị Tòa Kinh tế TAND Tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm  của TAND TP. Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho TAND TP. Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật. Kháng nghị cũng ghi rõ: Tạm đình chỉ thi hành Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 13 và 18/3/2008 của TAND quận Đống Đa đến khi có Quyết định giám đốc thẩm.
Xin được nhắc lại rằng: Kháng nghị trên đây là của Chánh án TAND Tối cao và được ban hành ngày 29/12/2008. Tuy nhiên, hơn nửa tháng sau, vào ngày 16/1/2009, tại văn bản số 120/QĐGQKN-THA, Cục trưởng Cục THA Dân sự vẫn ra quyết định giải quyết khiếu nại của Cty CIRI với nội dung: Giữ nguyên Quyết định số 09/QĐGQKN-THA ngày 6/11/2008 của Trưởng THA Dân sự TP. Hà Nội có nội dung: “Ịêu cầu Trưởng THA Dân sự quận Đống Đa chỉ đạo chấp hành viên tiếp tục tổ chức thi hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 10/2008/QĐ-PT ngày 19/5/2008 của TAND TP. Hà Nội và Bản án sơ thẩm số 03/2008/KDTM-ST ngày 13 và 18/3/2008 của TAND quận §ống §a theo đúng trình tự, thủ tục THA”. Chỉ đến khi Tòa Kinh tế TAND Tối cao ra bản án giám đốc thẩm (ngày 22/4/2009) hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và tổ chức xét xử phúc thẩm lại, thì 16 ngày sau (ngày 8/5/2009), Trưởng THADS quận Đống Đa mới ra quyết định đình chỉ THA đối với vụ án bạc tỉ này.
Một thực tế đáng lưu tâm khác, đến thời điểm 31/10/2008, tại quận Đống Đa đang tồn đọng trên 1.900 vụ, việc cần THA. Liệu có bao nhiêu vụ việc trong số đó được THA quận Đống Đa đẩy nhanh tốc độ thi hành công vụ như vụ án bạc tỉ này? Có bao nhiêu vụ trong số đó được công luận lên tiếng, Chánh án TAND TP. Hà Nội đề nghị hoãn THA, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng có ý kiến xem xét lại, Chánh án TAND Tối cao ra kháng nghị mà cơ quan THA vẫn quyết tâm THA như vụ này?
Thực tế đó càng đòi hỏi phải làm rõ những dấu hiệu không bình thường trong "vụ án bạc tỷ", của cơ quan THA.
8. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Theo pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào đó pháp lệnh mới dành quyền cho chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ có quyền xử lý người vi phạm trong phạm vi quy định.
Vậy khi CSGT mặc thường phục thì làm sao người dân biết được đó là người đang thi hành công vụ? Chẳng phải vô cớ mà nhiều ngành đã quy định về sắc phục của cán bộ thuộc ngành. Sắc phục của ngành tạo thuận lợi cho chính hoạt động của ngành, giúp người dân dễ dàng phân biệt người đang thực hiện nhiệm vụ được phân công với người bình thường để có nghĩa vụ chấp hành, hợp tác. Nói thế để thấy rằng việc để CSGT mặc thường phục tham gia xử lý người vi phạm giao thông bằng việc “trực tiếp ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi vi phạm, yêu cầu người vi phạm về trụ sở công an để giải quyết” dễ làm phát sinh nhiều bất ổn.
1. Nếu vì ngại kẻ gian lợi dụng tình trạng “tranh tối tranh sáng” nêu trên để cướp tài sản, người dân không dừng xe và tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm thì điều gì xảy ra? Trong trường hợp này có thể cho rằng đương sự đã không chấp hành mệnh lệnh của người có thẩm quyền để phạt nặng hơn hay không và nếu có thì đâu là căn cứ?
2. Nếu người dân đồng ý dừng xe thì quy trình xử lý tiếp theo sẽ như thế nào để đảm bảo việc xử lý vi phạm đúng pháp luật? Trả lời báo Pháp Luật TP.HCM ngày 30-5, đại tá Vũ Đỗ Anh Dũng (cục phó Cục CSGT đường bộ - đường sắt Bộ Công an) cho biết CSGT mặc thường phục chỉ được phát hiện vi phạm rồi phối hợp với lực lượng CSGT công khai kiểm tra và xử lý. Điều này có nghĩa là CSGT mặc thường phục không có quyền lập biên bản vi phạm hành chính và tất nhiên là không được quyền ra quyết định xử phạt, mà phải cố gắng “neo” người vi phạm để chờ đồng đội đến xử lý. Nếu vậy làm sao đảm bảo được sự kịp thời - một nguyên tắc của việc xử lý vi phạm hành chính? Do việc ngăn chặn, đình chỉ với việc xử phạt đều là các công đoạn liên tục của việc xử lý nên nếu việc xử phạt được thực hiện không đúng quy định, người dân phải khiếu nại CSGT mặc thường phục hay người xử phạt?
Trường hợp người ra lệnh dừng xe không phải là cảnh sát thật mà là kẻ gian, nhưng vì không biết mà người dân răm rắp thực hiện và chính vì thế đã gặp phải các sự cố về tài sản, sức khỏe, tính mạng thì sao? Trường hợp này người bị thiệt hại có thể yêu cầu lực lượng CSGT phải liên đới chịu trách nhiệm không?
Trên thực tế, có không ít người chỉ “chịu khó” điều khiển xe đúng luật khi thấy bóng CSGT. Chính vì thế việc tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cần phải được làm thường xuyên bên cạnh việc đẩy mạnh các biện pháp xử phạt. Thế nhưng việc xử lý người vi phạm luôn phải đảm bảo được tính công khai, minh bạch, công bằng và nhất là phải đúng pháp luật. Tiếc rằng khi giải thích về việc ra đời của lực lượng CSGT mặc thường phục trên báo Pháp Luật TP.HCM, đại tá Đỗ Anh Dũng chưa đưa ra được những lý do thuyết phục.
Cụ thể, ông cho rằng có nhiều vụ việc các đối tượng vi phạm đã chống trả hoặc bỏ chạy khi bị kiểm tra, hoặc có những trường hợp sử dụng biển số giả để hoạt động tội phạm nên cần phải kết hợp cả hai hình thức công khai với hóa trang (mặc thường phục). Những lý do này, theo tôi, có vẻ như chẳng ăn nhập gì với sự xuất hiện của CSGT mặc thường phục và e rằng chỉ làm rối thêm sự việc bởi tính mù mờ của nó.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 01/6/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm