Trong buổi sáng ngày 25/5/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Hôm qua (24-5), tin từ Công an tỉnh Bình Thuận cho biết vừa có công văn gửi đến Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga về việc ủy thác xung quanh vấn đề bồi thường dân sự trong vụ tai nạn giao thông thảm khốc trên đèo Đại Ninh.
Theo đó, Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga sẽ gặp gỡ những người bị thương và thân nhân những người bị thiệt mạng để ghi nhận mức đòi bồi thường thiệt hại trong vụ án. Dự kiến sau khi Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga thực hiện xong phần ủy thác bồi thường dân sự, vụ án sẽ có kết luận điều tra.
Như tin đã đưa, đêm 13-3, xe 86H-2329 do tài xế Nguyễn Thế Lâm chở đoàn du khách Nga tham quan Đà Lạt và trở về Phan Thiết theo đường đèo Đại Ninh đã lao xuống vực sâu gần 200 m. Vụ tai nạn khiến 10 người chết, trong đó có chín du khách Nga và 15 người Nga khác bị thương. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Thuận đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thế Lâm. Bị can Lâm hiện vẫn được cơ quan điều tra tạo điều kiện để điều trị các vết thương sau vụ tai nạn.
2. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Ngày 25-5, tại Trung tâm hội nghị quốc gia sẽ khai mạc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM) lần thứ 9 (FMM 9) với sự tham dự của các nhà ngoại giao hàng đầu của các thành viên ASEM. Hội nghị sẽ diễn ra trong hai ngày 25 và 26-5 với chủ đề “Tăng cường quan hệ đối tác Á-Âu nhằm ứng phó với khủng hoảng kinh tế-tài chính và các thách thức toàn cầu”.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Sở Xây dựng Hà Nội vừa trình Bộ Xây dựng hồ sơ 8 sàn giao dịch bất động sản (SGD BĐS) có đủ điều kiện hoạt động, gồm SGD BĐS Hưng Thịnh, Mường Thanh, VILACO, TSQ Việt Nam, Việt Hàn, BĐS Điện lực dầu khí, SGD BĐS Việt Nam và Khu đô thị Nam Thăng Long.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trước khi tiến hành hoạt động, SGD BĐS phải gửi hồ sơ về sở xây dựng địa phương để báo cáo lên Bộ Xây dựng thống nhất quản lý và đưa lên mạng các SGD BĐS Việt Nam. Giao dịch BĐS phải qua sàn là một hình thức mới ở nước ta, tạo cơ sở để người dân dễ dàng tìm thông tin mua BĐS, góp phần để thị trường minh bạch, phát triển đúng hướng, tránh đầu cơ.
Báo cũng phản ánh: Tin từ Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao cho biết, hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ nhất sẽ được tổ chức từ ngày 19 đến 24-11-2009 tại Hà Nội với chủ đề: "Vì một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước".
Dự kiến sẽ có hơn 1.000 đại biểu kiều bào tiêu biểu trên khắp thế giới tham dự hội nghị. Đây là một sự kiện quan trọng trong công tác vận động cộng đồng nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, huy động sự tham gia của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Qua đợt khảo sát của cán bộ Sở Tư pháp TP.HCM tại huyện Củ Chi mới vỡ lẽ lâu nay người dân thị trấn Củ Chi phải vất vả hơn người dân các xã trong huyện khi giao dịch về nhà đất. Ông Trần Văn V. (thị trấn Củ Chi) kể: “Vừa rồi, tôi có ra UBND thị trấn chứng hợp đồng mua bán nhà nhưng cán bộ thị trấn không nhận hồ sơ mà chỉ tôi đến phòng công chứng ở quận Tân Bình. Trong khi đó, cũng giao dịch như tôi mà người dân các xã xung quanh chỉ cần ra UBND xã chứng là xong”.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh, Trưởng phòng Tư pháp huyện Củ Chi, cho biết thị trấn Củ Chi có khoảng 10.000 dân, số lượng giao dịch về nhà ở rất lớn. Tuy nhiên, người dân thị trấn phải đến Phòng Công chứng số 4 ở quận Tân Bình để chứng giao dịch về nhà ở.
Nguyên nhân của sự việc trên là do Quyết định 94 năm 2007 của UBND TP.HCM quy định đối với hợp đồng, giao dịch về nhà ở, nhà ở và quyền sử dụng đất ở tọa lạc tại xã, cá nhân, tổ chức được lựa chọn giữa công chứng hoặc chứng thực tại UBND xã nơi có nhà ở. Đối với hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (không phải là nhà ở) của hộ gia đình, cá nhân trong nước thì được lựa chọn giữa công chứng hoặc chứng thực tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất, tài sản gắn liền với đất. Được biết, không riêng người dân thị trấn Củ Chi mà tại thị trấn Hóc Môn, người dân cũng phải đi công chứng xa mỗi khi muốn giao dịch về nhà ở.
2. Báo Thanh niên có bài Nhiều ý kiến khác nhau về Luật Lý lịch tư pháp. Bài báo phản ánh: Có cần thiết phải có Luật Lý lịch tư pháp hay chưa, và nếu có thì Bộ Tư pháp hay Bộ Công an quản lý lý lịch tư pháp của công dân, đó là các vấn đề được thảo luận trong phiên họp hôm qua của QH xung quanh dự thảo Luật Lý lịch tư pháp. Đã có 26 ý kiến phát biểu tại hội trường, trong đó 17 ý kiến căn bản đồng ý với dự án luật, 9 ý kiến chưa đồng ý.
Theo đại biểu Nguyễn Thanh Toàn (Thừa Thiên-Huế) thì chưa cần thiết phải ban hành luật này vì phạm vi điều chỉnh của luật quá hẹp và chỉ tập trung vào một việc duy nhất là cấp giấy chứng nhận đã có tiền án hay chưa. “Ta chỉ chặt một đoạn rất nhỏ, tức là dựa vào cái phần xấu nhất của con người là tiền án mà tòa án đã tuyên để làm căn cứ xây dựng một bộ luật, như vậy đã thỏa đáng chưa? Nếu làm thế này, QH có thể sẽ phải làm rất nhiều luật, ví dụ như khai sinh, khai tử, kết hôn, cấp chứng minh nhân dân, cấp hộ chiếu cũng phải làm mỗi thứ một luật. Mà chứng minh nhân dân còn quan trọng hơn cả lý lịch tư pháp”. Cũng theo ông Toàn, việc để Bộ Tư pháp quản lý và cấp phiếu lý lịch tư pháp cũng không hợp lý và nếu có thông qua luật này thì nên để UBND cấp phiếu lý lịch tư pháp là hợp lý. Cơ quan này sẽ yêu cầu công an, tòa án cung cấp thông tin để lập phiếu.
Đại biểu Phạm Thị Loan (Hà Nội) cũng đặt vấn đề có nên ban hành luật này hay không. Theo bà Loan, đây chỉ là một công việc nhỏ của Bộ Tư pháp, tòa án, viện kiểm sát và ngành công an. Bà Loan cho rằng, chỉ nên ban hành một nghị định của Chính phủ, hoặc cần thiết hơn nữa thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra một pháp lệnh chứ không nhất thiết phải ban hành hẳn một bộ luật. Về mô hình cơ quan quản lý lý lịch tư pháp, đại biểu Loan đề nghị giao cho Bộ Công an hoặc tòa án để tránh sự cồng kềnh.
Dưới góc độ công nghệ, đại biểu Trần Thị Quốc Khánh (Hà Nội) đặt vấn đề, cần phải đề cao hơn nữa vai trò của tin học trong luật để đảm bảo một bộ máy tinh gọn, giảm thiểu thủ tục hành chính.
Đại biểu Nguyễn Hồng Sơn (Quảng Ngãi) đề nghị đưa cả tiền sự vào phạm vi quản lý lý lịch. Theo đại biểu Sơn, tiền sự trong lĩnh vực hình sự là vấn đề quan trọng, thể hiện nhân thân của một con người vì trong một số trường hợp, một người có thể có nhiều tiền sự mà không thể truy cứu trách nhiệm hình sự. Ông Sơn cũng cho rằng nên giao việc cấp lý lịch tư pháp cho ngành công an thì hợp lý hơn vì “công an hiện nay đang quản lý rất nhiều giấy tờ liên quan đến người dân, bao gồm chứng minh thư, hộ chiếu, hộ khẩu và làm rất tốt”.
Đặc biệt, đại biểu Phạm Quốc Anh (Đồng Nai) bày tỏ sự bức xúc khi có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc có nên có Luật Lý lịch tư pháp hay không, ông Phạm Quốc Anh nói: “Tôi cho rằng chúng ta phải rút kinh nghiệm. Tôi hết sức ngạc nhiên khi vẫn còn một số đại biểu nói rằng việc ban hành Luật Lý lịch tư pháp có cần thiết hay không. Tôi được biết chỉ có 23 đoàn đồng ý sẽ bàn về luật này nhưng hôm nay QH vẫn bàn. Theo tôi, Thường vụ QH và Ban soạn thảo các dự án luật nên rút kinh nghiệm. Tôi kiến nghị từ nay nếu dự án luật nào đưa ra trình lần đầu mà không được trên 50% đoàn đại biểu hay tổng số đại biểu đồng ý thì tạm ngừng lại để không mất thời gian của QH”.
Trao đổi với Thanh Niên, thiếu tướng Trần Bá Thiều, Giám đốc công an TP Hải Phòng, đại biểu TP Hải Phòng cho biết: “Chúng tôi đang quản lý con người từ khi mới sinh ra đến lúc mất đi một cách rất bài bản và khoa học, trong khi dự thảo Luật Lý lịch tư pháp chỉ nói đến một phần rất nhỏ về nhân thân của công dân mà ngành công an đang quản lý. Thực tế thì hiện nay chúng tôi vẫn quản lý lý lịch tư pháp. Khi nào cần, thì ngành tư pháp mới sang chúng tôi. Nếu vì dân, theo tôi, QH nên có một luật có tên kiểu như là Lý lịch công dân, đây cũng thực sự là vấn đề cấp bách để quản lý xã hội, và nếu có thể ứng dụng khoa học công nghệ thì đặc biệt thuận lợi. Lý lịch tư pháp là một phần trong đó, khi nào cần thì trích ở đó ra”.
3. Báo Nhân dân có bài “Hơn bảy năm chờ thi hành án”. Bài báo phản ánh: Theo Bản án phúc thẩm số 73/DSPT, ngày 25, 26-4-2002 của Tòa án Nhân dân TP Hà Nội xét xử việc chia thừa kế nhà số 200 và 202, phố Trương Ðịnh, phường Tương Mai (Hoàng Mai, Hà Nội). Giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Thành và bà Phạm Thị Thu với bị đơn là ông Phạm Duy Hậu và bà Phạm Thị Thanh đã quyết định: Ông Hậu phải thanh toán cho bà Thành, bà Thu và các thừa kế tổng số tiền là 118.455.450 đồng; bà Thanh phải thanh toán cho bà Thành, bà Thu và các thừa kế tổng số tiền là 90.848.936 đồng. Nhưng sau đó, gia đình ông Hậu và bà Thanh không tự giác chấp hành, vì vậy ngày 20-2-2004, Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai ra Quyết định số 65/DSPT buộc ông Hậu và bà Thanh phải thanh toán cho bà Thành, bà Thu và các thừa kế với tổng số tiền là 209.304.386 đồng. Quyết định nêu rõ: "Chấp hành viên có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định này".
Tuy nhiên, kể từ khi ban hành quyết định đến nay đã hơn năm năm, Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai vẫn chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm vụ việc, cho nên bên được thi hành án vẫn chưa nhận được tiền. Rất nhiều lần, gia đình bà Thành, bà Thu đến làm việc với Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai đề nghị được thi hành án, nhưng không có kết quả. Ông Ðào Xuân Phương, Phó trưởng Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai cho biết: "Bất cứ vụ án nào, nếu bên phải thi hành án không tự giác thực hiện thì Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai sẽ có trách nhiệm tiến hành kê biên tài sản và ngay sau đó sẽ cưỡng chế đối với những tổ chức, cá nhân có điều kiện thi hành án".
Một số nguyên đơn trong vụ thi hành án cho biết, ông Ðào Xuân Phương chỉ nói vậy thôi, chứ còn rất nhiều vụ việc, cán bộ Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai chỉ "đánh trống, bỏ dùi", cho nên hơn bảy năm qua Bản án phúc thẩm số 73/DSPT vẫn chưa được thực hiện. Chính từ việc chậm trễ của Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai làm cho gia đình bà Thành, bà Thu phải mất nhiều thời gian và công sức tìm đến các cơ quan chức năng đòi quyền lợi chính đáng của bản thân và gia đình mình.
4. Báo Diễn đàn doanh nghiệp có bài Cần nhưng chưa tin. Bài báo phản ánh: Đó là nhận định có phần hơi chua chát của giới luật sư tại Đại hội đại biểu lần thứ Liên đoàn Luật sư Việt Nam về mối quan hệ giữa doanh nghiệp với luật sư. Điều này khiến cả doanh nghiệp lẫn luật sư thiệt đơn thiệt kép. Trong gần 7 năm (2001-2008), số lượng luật sư của nước ta đã tăng 250%, hiện đạt gần 5.000 người. Tuy thế, tỷ lệ luật sư trên dân số của Việt Nam vẫn còn rất thấp (1/20.700 so với Singapore là 1/1.000, Mỹ là 1/250).
Nhưng chất lượng của đội ngũ này là điều đáng nói hơn. Theo kết quả khảo sát năm 2008, chỉ có 1,2% số luật sư có thể sử dụng tiếng Anh thành thạo trong hoạt động chuyên môn, tham gia thương lượng, đàm phán và tranh tụng trực tiếp bằng tiếng Anh. Số luật sư hành nghề chuyên về lĩnh vực thương mại chỉ chiếm 7,9%, trong đó chủ yếu mới là tư vấn các vấn đề về công ty. Mới chỉ có khoảng 10 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài. Về chất lượng dịch vụ của luật sư, 30% doanh nghiệp được hỏi đánh giá tốt; 66,3% đánh giá trung bình và 3,7% đánh giá kém.
Một số luật sư được hỏi ý kiến tỏ ra nghi ngờ độ chính xác của kết quả khảo sát nói trên, song cũng công nhận rằng, chất lượng của đội ngũ luật sư Việt Nam đúng là chưa như mong muốn.
Lý giải điều này, luật sư Hà Thị Thanh - Chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh Hưng Yên cho rằng, bên cạnh một số bất hợp lý trong chương trình đào tạo; khâu tập sự hành nghề và “truyền nghề” cho các luật sư trẻ sau đào tạo ở nhà trường hiện chưa được chú ý đúng mức. Để trở thành một luật sư với đầy đủ tiêu chí “luật sư thời hội nhập” thì sau khi nhận bằng cử nhân luật, luật sư đó còn phải có khoảng thời gian ít nhất là 5 năm làm việc cho các hãng luật nước ngoài hoặc các hãng luật lớn của Việt Nam. Luật sư Trần Sơn, Thành viên Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội, cho biết thêm, ở một số nước (như CHLB Đức), Chính phủ có chính sách hỗ trợ mỗi luật sư tập sự từ 800 đến 1.000 euro/tháng; trong khi các luật sư tập sự Việt Nam không được hưởng hỗ trợ gì, hầu hết phải đóng thêm tiền để được “học việc” tại các văn phòng luật.
Vẫn theo kết quả khảo sát nói trên, có gần một nửa số doanh nghiệp đã từng thuê luật sư, song mức độ thuê luật sư của các doanh nghiệp lại rất thấp. Nhu cầu của doanh nghiệp khi thuê luật sư chủ yếu vẫn là tư vấn về các vấn đề pháp luật; giải quyết tranh chấp; chỉ có 13,13% thuê luật sư ngay từ khâu thương lượng, đàm phán, ký kết hợp đồng, trong khi cách hành xử khôn ngoan của các tập đoàn đa quốc gia là phòng ngừa tối đa những rắc rối trước khi nó xảy ra! “Doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý. 90% khách hàng là doanh nghiệp tìm đến luật sư để giải quyết vụ việc, chỉ có khoảng 10% là duy trì quan hệ thường xuyên với luật sư”, luật sư Trần Sơn bình luận.
Do thói quen còn tồn tại từ thời bao cấp (các vấn đề phát sinh sẽ do cấp trên hoặc các cơ quan chủ quản giải quyết), nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bỏ qua các dịch vụ pháp lý. Những doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình cá thể, hoặc gia đình thì lại giải quyết theo “lệ làng”, hoặc chạy vạy, nhờ cậy uy tín cá nhân - giải quyết tranh chấp bằng pháp luật là phương án cuối cùng được chọn.
Tuy nhiên, luật sư Bạch Thanh Bình (Văn phòng Luật sư Phạm và liên danh) nhận định, đà hội nhập sẽ buộc các doanh nghiệp phải chú ý và sử dụng nhiều hơn các dịch vụ pháp lý nhằm bảo đảm lợi ích của mình. Trước những thiệt hại to lớn trong một số vụ kiện, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế (như việc ông Bửu Huy, Phó Giám đốc Công ty Xuất Nhập Khẩu hải sản An Giang bị bắt tại Bỉ hay mới đây là việc nhãn hiệu “Bia 333” của Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn bị mất trắng ở nước ngoài… nhận thức của doanh nghiệp đã “chuyển”, dù chưa thực sự mạnh.
Dự báo, đến năm 2010 thì số doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư tăng lên mức 67,5% (tăng 1,43 lần so với năm 2008), năm 2015 tỷ lệ này sẽ là 85%; năm 2020 là 94%. Tương ứng với nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư, tuyệt đại đa số doanh nghiệp được hỏi chấp nhận gia tăng chi phí này. Tuy chỉ chiếm dưới 3% doanh thu của doanh nghiệp trong giai đoạn từ nay đến năm 2010; nhưng giai đoạn 2010, chi phí cho dịch vụ pháp lý sẽ lên tới 5% và giai đoạn 2015-2020 thì có thể tới 10% doanh thu.
Xét cho cùng, các công ty luật hay văn phòng luật sư đều là doanh nghiệp với “hàng hóa” là chất xám. Để nhận được dịch vụ với chất lượng mong muốn, doanh nghiệp chắc chắn cũng sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí xứng đáng. Tại những văn phòng luật lớn, phí tư vấn của luật sư được tính theo giờ, một số trường hợp phức tạp có thể lên tới 300 USD/giờ tư vấn. “Tính phí tư vấn theo giờ là một cách làm văn minh, song nhiều doanh nghiệp có thể thấy “choáng” - luật sư Trần Sơn công nhận. “Tuy nhiên, sau khi làm con tính nhỏ, mất vài chục triệu đồng, tức vài ngàn USD để có được một bản hợp đồng đúng luật và kín kẽ, đảm bảo chắc chắn cho khoản thu ít nhất là 200.000 USD/năm trong 30 năm, một khách hàng của tôi đã vui vẻ chấp nhận ngay, không mặc cả”, ông nói.
Theo dự báo, nếu duy trì tốc độ phát triển của doanh nghiệp như hiện nay, giả định GDP của Việt Nam tăng 7,5 - 8%/năm và nhận thức của doanh nghiệp đối với vị trí, vai trò luật sư tiếp tục được cải thiện thì tỷ lệ phát triển luật sư duy trì ở mức 110% -120%. Nếu tính một cách khá cơ học thì đến năm 2010, số lượng luật sư cần có khoảng trên 6.000, đến năm 2015 là trên 10.000 và 2020 là trên 16.000 luật sư, trong đó số luật sư chuyên tư vấn cho doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sẽ đạt khoảng 50% - 60% tổng số luật sư.
Thị trường dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp rõ ràng là rộng mở và nếu biết tận dụng, thì cả doanh nghiệp lẫn luật sư đều có thể “vẹn cả đôi đường”.
5. Báo Người lao động có bài Hụt hẫng nhân lực ngành luật của PGS-TS Hoàng Thế Liên (Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp). Bài báo phản ánh: Sinh viên ra trường thiếu kiến thức chuyên sâu, yếu về kỹ năng hành nghề, ngoại ngữ, khả năng phân tích chính sách...
Ở mức độ khái quát nhất, có thể nói rằng, so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế thì nước ta đang đứng trước một sự hụt hẫng lớn về đội ngũ cán bộ pháp luật, về chất lượng cán bộ, đó là một thách thức không dễ vượt qua trong một sớm một chiều. Nước ta đang có nhu cầu rất lớn về cán bộ pháp luật. Chỉ tính riêng các chức danh tư pháp, từ nay đến năm 2020, cần phát triển hệ thống cơ sở đào tạo luật để có đủ sức đào tạo ước tính 13.000 luật sư, 2.300 thẩm phán, 2.000 công chứng viên, 3.000 chấp hành viên, 300 thẩm tra viên thi hành án dân sự và thừa phát lại... (hiện cả nước có khoảng 6.000 luật sư, 5.000 thẩm phán, 4.000 điều tra viên, 400 công chứng viên). Đó là chưa kể nhu cầu cán bộ pháp luật ở các bộ, ngành...
So với nhu cầu lớn về cán bộ pháp luật thì năng lực đào tạo pháp luật hiện có chưa thấm vào đâu. Quy mô của mạng lưới đào tạo luật chỉ đạt từ 3.500 đến 4.000 cử nhân luật hệ chính quy mỗi năm. Trong khi đó, việc đào tạo cử nhân luật tại chức được mở khá dễ dãi, làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng của đội ngũ cán bộ pháp luật.
Thời gian qua, do phải đáp ứng yêu cầu trước mắt về nguồn nhân lực cho xã hội, cũng như hạn chế về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, tài liệu học tập, phương pháp đào tạo... nên chất lượng đào tạo luật còn nhiều hạn chế. Sinh viên ra trường trưởng thành chậm, còn thiếu kiến thức chuyên sâu, yếu về kỹ năng hành nghề, ngoại ngữ, khả năng phân tích chính sách, phát hiện và xử lý những vấn đề pháp lý phức tạp nảy sinh trong thực tiễn. Nói một cách khái quát là cán bộ pháp luật của nước ta còn khá non về tính chuyên nghiệp trong nghề luật.
Đồng thời, như chúng ta đã biết, kiến thức pháp luật liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học xã hội cần được tiếp cận và giải quyết trong mối quan hệ với luật học (như kinh tế học pháp luật, xã hội học pháp luật). Ngược lại, vấn đề pháp lý chỉ có thể nhìn nhận và lý giải trong mối quan hệ với các lĩnh vực khoa học xã hội khác. Trong đào tạo luật của nước ta thời gian qua chưa giải quyết vấn đề này. Nhìn vào chương trình của các cơ sở đào tạo, sau phần đại cương là một loạt môn học thuần túy pháp luật, hầu như không có môn học nào mang tính chất liên ngành. Vì vậy, cử nhân tốt nghiệp hay rơi vào tình trạng pháp lý thuần túy khi phải giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc đặt ra, nhiều khi trở nên lạc lõng.
Ở một số nước, họ đã nhận ra những hạn chế của đào tạo thuần túy pháp luật. Vì vậy, nội dung chương trình đào tạo khá linh hoạt, đa dạng và có tính liên thông trong ngành học. Chẳng hạn, ở Singapore, Khoa Luật Trường ĐH Tổng hợp quốc gia liên kết với Trường Kinh doanh thực hiện chương trình đào tạo liên thông 5 năm hai bằng cử nhân luật và cử nhân kinh tế. Ở Mỹ, điều kiện để vào học luật là phải tốt nghiệp một ĐH khác. Nhiều nước cho rằng mô hình đào tạo luật của Mỹ rất phù hợp với việc hành nghề luật mang tính chuyên sâu trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 25/5/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.