Điểm tin báo chí ngày 19 tháng 8 năm 2009

19/08/2009
Trong buổi sáng ngày 19/8/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
Trong buổi sáng ngày 19/8/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang web Diễn đàn doanh nghiệp phản ánh: Thời gian gần đây, Cty cổ phần Tràng Tiền được khá nhiều báo chí nhắc đến không phải vì sản phẩm kem nổi tiếng mà vì những mâu thuẫn xung quanh sự việc người lao động đòi được trả “lương hiệu quả kinh doanh bằng 50% lợi nhuận sau thuế”. Theo các chuyên gia pháp lý, đây là sự đòi hỏi hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Trước hết, cần phân biệt giữa tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương và chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế là chỉ tiêu được tính vào cuối năm bằng cách lấy tổng doanh thu cộng các khoản thu nhập khác trừ tổng chi phí sản xuất, kinh doanh hợp pháp, hợp lệ và thuế TNDN phải nộp.
Vì vậy, nếu xác định “lương hiệu quả kinh doanh bằng tỷ lệ % lợi nhuận sau thuế” là xác định một khoản phải chi ngay trên cơ sở một chỉ tiêu chưa biết hoặc mới chỉ là ước tính. Bên cạnh đó, sau khi đã bù đắp các khoản chi phí, trong đó có chi phí tiền lương và thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước, trong các DN, lợi nhuận sau thuế là của chủ sở hữu. Với các DNNN, đó là của Nhà nước, với các Cty cổ phần, đó là của các cổ đông – những người là chủ sở hữu của Cty. Quy định đó là hợp lý vì khi DN có lãi thì chủ sở hữu được hưởng phần lợi nhuận sau thuế, ngược lại, nếu DN kinh doanh thua lỗ, thì chủ sở hữu sẽ bị mất vốn góp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế được thực hiện theo quy định tại Điều lệ Cty. Khoản 12, Điều 22 Luật DN năm 2005 quy định một trong những Nội dung của Điều lệ Cty là: “12. Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh”. Điều lệ Cty do các cổ đông thông qua, không có quy định nào bắt buộc phải lấy ý kiến của người lao động vào văn bản này.
Nếu thừa nhận việc người lao động được trả “lương hiệu quả kinh doanh bằng cách trích từ lợi nhuận sau thuế” thì khi Cty kinh doanh bị lỗ vì lý do khách quan, người lao động cũng phải góp tiền để bù lỗ cho Cty. Điều đó không được quy định ở bất kỳ văn bản luật nào và ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Căn cứ Luật Lao động, Luật DN, Luật thuế thu nhập DN hiện hành, tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất lương mà DN trả cho người lao động theo đúng quy định của pháp luật là một trong những khoản chi phí phục vụ cho sản xuất, kinh doanh của DN. DN phải xây dựng quy chế lương và đăng ký với Sở LĐ – TB và Xã hội nơi Cty đóng trụ sở thì các khoản lương và phụ cấp DN chi trả cho người lao động mới được thừa nhận tính vào chi phí được trừ khi xác định thuế thu nhập DN.
Lợi nhuận sau thuế của Cty cổ phần là của các cổ đông. Bởi lẽ, theo quy định của Luật DN VN và thông lệ quốc tế, “Cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã góp vào DN”. Điều đó có nghĩa là, nếu Cty hoạt động kinh doanh có lãi, các cổ đông được chia cổ tức, ngược lại, nếu Cty hoạt động kinh doanh bị lỗ, hoặc bị phá sản, thì cổ đông sẽ bị mất (một phần hoặc toàn bộ) số vốn góp. Hơn nữa, kể cả khi có lãi, song do nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng thương hiệu... các cổ đông có thể quyết định sử dụng toàn bộ lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư. Điều đó luôn luôn được khuyến khích nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, việc Cổ đông và Hội đồng Quản trị Cty quyết định trích tỷ lệ 50% (hoặc bất kỳ một tỷ lệ nào khác) từ lợi nhuận sau thuế để chi trả lương hiệu quả kinh doanh, là không đúng về nội dung kinh tế của tiền lương. Đòi hỏi của người lao động về “lương hiệu quả kinh doanh bằng 50% lợi nhuận sau thuế” về bản chất là đòi chia lãi với chủ sở hữu. Đó là đòi hỏi vượt quá các quyền của người lao động và có lẽ là “chuyện lạ, có thật” chỉ xảy ra ở Cty cổ phần Tràng Tiền.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Ngày 18.8, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cùng đoàn công tác Chính phủ đã thị sát công trường xây dựng nhà máy Alumin thuộc Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Tân Rai (H.Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng).
Tại đây, Thủ tướng lắng nghe đại diện Tập đoàn Than - Khoáng sản VN (TKV) báo cáo tiến độ triển khai dự án, phương án bảo vệ môi trường và công tác đền bù giải phóng mặt bằng trong quá trình thực hiện dự án. Thủ tướng khẳng định, Dự án Tổ hợp bauxite-nhôm Tân Rai là một dự án trọng điểm của quốc gia, cần quản lý và hoạt động tốt, phù hợp với sự phát triển bền vững của đất nước. Thủ tướng đánh giá cao nỗ lực của chủ đầu tư TKV, đồng thời hoan nghênh Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lâm Đồng, H.Bảo Lâm đã thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, tái định canh, định cư.
Chiều 18.8, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự lễ bàn giao 26 căn nhà ở (78 triệu đồng/căn) cho đồng bào dân tộc thiểu số tại khu tái định cư của dự án này.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: ngày 18-8, ông Nguyễn Mạnh Hiển, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường cho biết: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10-8 bộ đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Việc ban hành sẽ do Thủ tướng quyết định. Tiếp đó bộ cũng đã soạn thảo thông tư hướng dẫn, sẽ triển khai ngay sau khi nghị định có hiệu lực.
Đối với trường hợp hồ sơ nhà đất đang bị ngưng trệ hiện nay, thứ trưởng Nguyễn Mạnh Hiển khẳng định: Bộ đã nhận được ý kiến của TPHCM về hướng giải quyết đối với việc cấp chủ quyền khi chưa có giấy chủ quyền mới. Hiện tại Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên - Môi trường phối hợp với Bộ Tư pháp để tìm hướng giải quyết, cơ bản là tháo gỡ những ách tắc, bảo đảm quyền lợi của người dân nhưng không trái luật. Hiện tại bộ đang nắm lại số lượng hồ sơ cụ thể cần giải quyết của thành phố, nhìn chung ách tắc ở khâu cấp chủ quyền.
Ông Nguyễn Mạnh Hiển cũng cho biết, vào chiều 20-8 bộ sẽ tổ chức họp báo để giải đáp thắc mắc xung quanh nội dung này. Như vậy, ách tắc trong việc cấp chủ quyền vẫn chưa có giải pháp giải quyết.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vietnamnet có bài "Một năm sau mở rộng Hà Nội: Lóng ngóng vào việc mới, cán bộ vừa làm vừa run". Bài báo phản ánh: Sáp nhập về Hà Nội, mọi giấy tờ và thủ tục đòi hỏi phải chặt chẽ, quy củ hơn. Song, vì thiếu chuyên môn và kinh nghiệm nên nhiều cán bộ ở cấp thôn, xã vừa làm vừa… run, bởi không biết việc mình đang xử lý là đúng hay sai.
Ông Nguyễn Đình Thành, cán bộ tư pháp xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tự hào kể lại thành tích thuộc loại hy hữu của mình rằng, năm ngoái ông đã phát hiện ra một giấy ủy quyền sử dụng đất giả được đem đến xã làm công chứng. Nếu giấy ủy quyền sử dụng đất ấy được công chứng thành công, người ta có thể trục lợi được hàng tỷ đồng. Sáp nhập về Hà Nội, mọi giấy tờ và thủ tục đòi hỏi phải chặt chẽ, quy củ hơn. Song, vì thiếu chuyên môn và kinh nghiệm nên nhiều cán bộ ở cấp thôn, xã vừa làm vừa… run, bởi không biết việc mình đang xử lý là đúng hay sai.
Anh Nguyễn Đức Thịnh, cán bộ tư pháp xã An Khánh đã chọn giải pháp an toàn hơn, đó là chỉ công chứng cho những giấy tờ hay những văn bằng phổ thông. Còn với những hợp đồng kinh tế, những giấy ủy quyền hay hợp đồng có giá trị kinh tế lớn, anh Thịnh đều từ chối và tìm cách giới thiệu lên cơ quan cao hơn để tránh những trách nhiệm to lớn có thể phải gánh chịu sau này.
Anh Bùi Văn Duy, cán bộ tư pháp xã Đông Xuân, huyện Quốc Oai, vừa hướng dẫn người dân đến công chứng vừa chỉ tay vào chiếc máy phô tô đang chạy nóng ran ngay bên cạnh, rồi bảo: “Từ ngày xã sáp nhập về Hà Nội, chúng tôi lại phải kiêm thêm nhiều công việc không tên, từ phô tô các bản thảo cho đến việc công chứng các văn bằng chứng chỉ… tất cả đều đến tay chúng tôi”. Bận rộn là thế, nhưng ngay đến độ chính xác của những việc rất bình thường như công chứng các văn bằng chứng chỉ, anh Duy cũng không dám chắc mình đã làm đúng. “Việc công chứng các văn bằng chứng chỉ bình thường chúng tôi đã khó xác định đâu là thật - giả, nhưng từ khi về Hà Nội, chúng tôi vẫn chưa được đào tạo qua một lớp huấn luyện nghiệp vụ nào về công chứng nên độ chính xác cũng không cao, trong khi lượng người đến xã lại rất đông”, anh Duy thành thật.
"Phải khẳng định rằng, phần lớn cán bộ nông thôn trước khi sáp nhập về Hà Nội đều trưởng thành từ các hoạt động phong trào, trình độ còn hạn chế và làm việc theo kinh nghiệm" - đó là khẳng định của ông Long Thanh Bé, Phó Chủ tịch xã Song Phương (huyện Hoài Đức).
Theo ông Long Thanh Bé, sau khi sáp nhập về Hà Nội, cách làm việc, hệ thống sổ sách và công tác quản lý đòi hỏi chặt chẽ hơn rất nhiều. Để làm được điều đó, cán bộ địa phương liên tục được tham dự các lớp tập huấn để nâng cao trình độ và nhận thức. Song, để đạt đến sự chuyên nghiệp trong công việc thì còn lâu cán bộ cơ sở mới đáp ứng được.Rồi ông lấy ví dụ: tất cả các bộ phận chủ chốt của xã Song Phương đến giờ không ai biết đến máy vi tính, trừ ông. Vì vậy, nhiều công việc của lãnh đạo vẫn phải đổ lên đầu nhân viên văn phòng, mà nhân viên văn phòng thì nhiều việc quá rồi, làm sao họ tải hết được.
Có cùng quan điểm với ông Bé, ông Trịnh Như Hà, Phó Chủ tịch phường Dương Nội cho rằng: Do địa phương chuyển đổi quá nhanh, hôm trước là nông thôn hôm sau thành đô thị, hôm trước là nông nghiệp, hôm sau đã không còn ruộng nương nữa. Vì vậy, những tình huống mới luôn nảy sinh. Trong khi cán bộ không có kinh nghiệm xử lý những tình huống mới này, những công việc cũ rất dễ bị dồn ứ từ ngày này sang ngày khác.
Trở thành một bộ phận của Hà Nội, cán bộ địa phương yêu cầu phải được chuyên môn hóa rất cao. Thế nhưng, tại nhiều địa phương mới sáp nhập, cán bộ vẫn làm việc theo cơ chế… cũ. Chẳng thế mà khi có mặt tại trụ sở UBND xã Vân Canh, mặc dù đã có hẹn trước với ông Chủ tịch xã, nhưng chúng tôi đã phải chờ suốt từ 2 giờ cho đến tận 3 rưỡi chiều vẫn không thấy ông Chủ tịch và cả Phó Chủ tịch đâu. Hỏi chị nhân viên văn phòng xem chủ tịch có lịch họp gì đột xuất không, chị phụ trách văn phòng cũng không biết, bởi trong sổ không thấy có ghi lịch. Rồi chị bảo, tốt nhất cứ chờ thêm ít phút nữa. Đến khi không thể chờ thêm nữa, tôi xin số gọi điện cho ông Chủ tịch xã Trần Xuân Vượng, thì được trả lời đang đi họp. Có việc gì, khách cứ chờ ông Phó Chủ tịch, bởi ông Phó Chủ tịch không đi họp, chắc cũng chỉ... quanh quẩn đâu đó gần trụ sở xã thôi!
Quá thất vọng trước cách làm việc đầy ngẫu hứng của cán bộ xã, chúng tôi đành phải ra về. Tại trụ sở UBND, vẫn còn rất nhiều bà con nông dân địa phương kiên nhẫn đứng ngồi chờ để được hỏi cán bộ về những đơn từ, thủ tục giải quyết cho xong giấy tờ của mình.
Bà Nguyễn Thị Thắng, một người dân địa phương cho biết: hồ sơ khiếu nại về đất, bà đã gửi xã hơn một tháng nhưng chưa được trả lời. Vì vậy, mấy hôm nay, ngày nào bà cũng lên xã chờ cán bộ để được hướng dẫn giải quyết. Nhưng cán bộ cần gặp lúc thì bận tiếp khách quá không trả lời được, lúc khác lại đi vắng, không có ở trụ sở.
Có mặt tại xã Song Phương lúc 4 giờ chiều, cảnh người dân mệt mỏi xếp hàng cũng tương tự như tại UBND xã Vân Canh. Đã cuối giờ nhưng nhiều học sinh vẫn ngồi đợi, hy vọng kịp đến lượt để công chứng văn bằng, chứng chỉ. Hàng chục bà con nông dân vẫn ngồi như xếp hàng chờ được cán bộ xã tư vấn về những thủ tục liên quan đến đất đền bù và thủ tục về chuyển nhượng đất đai mà nhiều người còn đang vướng mắc. Nhìn gương mặt người dân nào cũng rất căng thẳng, bởi, giờ làm việc hành chính của cán bộ đã sắp hết. Vì vậy, có thể ngày hôm sau, họ sẽ lại tiếp tục phải lên trụ sở ủy ban để ngồi chờ.
2. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Bán sản phẩm độc hại phải coi như tội ác Bài báo phản ánh: Hôm qua (18.8), cục Quản lý cạnh tranh, bộ Công thương tiếp tục tổ chức một hội thảo lấy ý kiến cho dự thảo luật Bảo vệ người tiêu dùng (NTD). Báo Sài Gòn Tiếp Thị đã phỏng vấn tiến sĩ Lê Hồng Hạnh, viện trưởng viện Khoa học pháp lý, bộ Tư pháp, người có những ý kiến góp ý đáng chú ý nhất tại hội thảo này.
Gần đây các vụ việc xâm phạm đến lợi ích, sức khoẻ (NTD) ngày càng nhiều với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Nhưng vì sao hầu như chưa có vụ nào mà NTD có thể trực tiếp đứng ra khởi kiện doanh nghiệp (DN), thưa ông?
Vụ việc nước tương 3-MCPD chẳng hạn, khó vì không thể chứng minh được người bị thiệt hại, lợi ích người đó bị xâm hại. Nhưng người ta chứng minh được sản phẩm đó có chứa chất gây nguy hại cho NTD thì DN, tổ chức có sản phẩm cũng phải có trách nhiệm với sản phẩm của mình. Do đó, dự án luật Bảo vệ NTD phải nêu rõ được trách nhiệm của nhà sản xuất, người bán hàng hoá và trách nhiệm đó phải được giám sát.
Ở Mỹ chẳng hạn, cứ đưa sản phẩm ra thị trường thì toà án đương nhiên coi là anh đã khẳng định sản phẩm đó đủ tiêu chuẩn và không độc đối với NTD. Còn nếu người ta chứng minh là nó độc thì DN đã phải có trách nhiệm bồi thường NTD cho dù chưa cần chứng minh thiệt hại.
Đã có những ý kiến góp ý là dự thảo luật Bảo vệ NTD hiện nay là còn quá dàn trải nhưng lại thiếu cụ thể. Ông nhận thấy dự luật này có nên giới hạn trong phạm vi nào không?
Tôi cho rằng, dự luật nên tập trung vào những sản phẩm hữu hình là tốt nhất là vì những dịch vụ khác là chưa cần thiết lắm. Xét vào khía cạnh nào đó là DN cũng là NTD, họ cũng có thể mua nhầm sản phẩm kém chất lượng, v.v. Nhưng cơ chế bảo vệ DN là khác bởi vì DN có tư cách pháp nhân, họ có thể khởi kiện. Còn NTD thì điều đó là khó, một mình họ không thể khởi kiện, cũng không thể chứng minh được. Ở đây, luật Bảo vệ NTD rất cần tới những hành động liên kết lại với nhau. Vì với NTD thì tiền làm sao nhiều bằng DN được. Ví dụ, tôi là NTD, khi quyền lợi của tôi bị xâm phạm, tôi có thể thuê luật sư để đi kiện. Nhưng DN có nhiều tiền hơn, họ có thể thuê luật sư giỏi hơn, họ có những cách làm cho lấp liếm đi sai trái của họ. Nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật còn chưa đầy đủ thì việc bảo vệ quyền lợi NTD càng khó khăn hơn.
Một điều tôi muốn nhóm soạn thảo dự luật làm rõ hơn là quy định rõ về nội dung, phạm vi của quảng cáo sản phẩm. Hệ thống quảng cáo ở ta rõ ràng là thiếu kiểm soát, quảng cáo vô tội vạ. Ai đời, có những cơ sở khám chữa bệnh của người Trung Quốc quảng cáo chữa được 40 bệnh nan y. Cái này ai kiểm tra và chịu trách nhiệm? Có khi họ còn bán những loại thuốc có hại cho sức khoẻ. Theo tôi biết là ở nước ngoài, họ không cho quảng cáo dạng như sản phẩm của tôi là chất lượng nhất, tốt nhất… như quảng cáo ở ta.
Đã qua nhiều lần sửa đổi, nhưng dự thảo luật Bảo vệ NTD quy định về chế tài, xử phạt với những hành vi vi phạm quyền lợi NTD còn rất yếu? Tại sao ta không thể làm mạnh như một số nước, như Malaysia, có thể phạt tù những doanh nghiệp, cơ sở có những vi phạm nghiêm trọng và tái phạm nhiều lần, gây nguy hại đến sức khoẻ, lợi ích NTD?
Trách nhiệm bảo vệ quyền lợi NTD còn được quy định ở trong cả một chế định khác, tức là trách nhiệm nghiêm ngặt. Với chế định đó, luật pháp yêu cầu bất kỳ trường hợp nào nếu như sản phẩm có lỗi ngay khi sản xuất và lỗi đó có thể ảnh hưởng đến tính mạng NTD, hoặc sản phẩm đó quá nguy hiểm mà người sản xuất không tiên liệu được thì họ cũng phải chịu trách nhiệm. Ví dụ anh sản xuất một cái cưa, nếu mà an toàn thì đường đi của máy cưa phải được bọc lại, hoặc nếu chỗ nào lưỡi cưa hở ra thì có phương tiện bảo vệ. Đó là trách nhiệm của người sản xuất là phải đảm bảo an toàn cho sản phẩm đối với NTD.
Chế tài còn thiếu thì cần phải quy định các chế tài cụ thể đủ nặng, như kiểu thanh gươm treo trên đầu để lúc đó DN hoạt động vì NTD sẽ tốt hơn. Còn bây giờ thì mực ăn mà mang về tẩy hoá chất giống như hàng mới thì không thể chấp nhận được. Xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD thì phải coi đó là tội ác mới bảo vệ được quyền lợi của NTD. Tôi ủng hộ việc lập và công khai danh sách “đen” về các doanh nghiệp vi phạm nhiều lần. Biện pháp này cũng rất hiệu quả để bảo vệ NTD.
Mặc dù hiện nay, nhiều tỉnh, thành phố đã có các hội, hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. Nhưng hoạt động của các hội, hiệp hội đó được đánh giá chung là rất yếu ớt. Theo ông, trong dự thảo luật Bảo vệ NTD thì cần có chính sách, cơ chế gì để tạo điều kiện cho các hiệp hội này hoạt động hiệu quả?
Hiện nay, niềm tin của công chúng với hội này là chưa có vì tiếng nói của họ là chưa lớn. Do vậy cần phải tạo cho họ tiếng nói, tạo cho họ cơ chế trong giải quyết tranh chấp giữa NTD và các doanh nghiệp, các tổ chức, đặc biệt là cần phải mở rộng nhiều hơn nữa số lượng, cũng như phạm vi của hội này. Thứ hai, về vấn đề kinh phí, trách nhiệm một DN phải bồi thường thiệt hại mà họ gây ra, để cá biệt hoá thiệt hại rất là khó. Ví dụ một loại thực phẩm chức năng nào đó, chứng minh sức khoẻ của NTD bị tổn hại ở mức nào mà để bồi thường là rất khó. Nên chúng ta có cơ chế phân chia bồi thường thiệt hại của DN như thế nào để hội bảo vệ có động lực tài chính phát triển. Nếu không tính đến cơ chế phân chia như thế thì hội bảo vệ NTD rất khó khăn trong việc hoạt động có hiệu quả.
3. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế - Tiền bỏ ra sẽ uổng phí, nếu... Bài báo phản ánh: Một trong nhiều chủ đề được đề cập trong cuộc tọa đàm do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 18-8, về đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2009 đến năm 2020 là vai trò “tạo cú hích” của Nhà nước trong điều kiện chiếc túi ngân sách chưa thật đầy...
Sau nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung, dự thảo đề án được bà Đỗ Hoàng Yến, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) trình bày ngày 18-8 xác định rõ, việc phát triển đội ngũ luật sư có đủ các tiêu chí đáp ứng yêu cầu hội nhập sẽ giúp cho Chính phủ và các doanh nghiệp trong tư vấn thực hiện các giao dịch quốc tế và tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế, hạn chế rủi ro trong quan hệ với đối tác nước ngoài, phát triển thị trường dịch vụ pháp lý lành mạnh.
Theo bà Yến, hiện nay, cả nước chỉ có khoảng 20 luật sư “đạt tầm quốc tế và khu vực” trong lĩnh vực này, có chứng chỉ hành nghề luật sư của các quốc gia có nền tư pháp phát triển. “Luật sư ở Việt Nam đã hiếm - 17.000 dân mới có một luật sư, luật sư có trình độ chuyên sâu về kinh doanh, thương mại quốc tế lại càng hiếm hơn”, bà nói.
Dự thảo mới nhất của đề án đề ra mục tiêu, đến năm 2020, số luật sư được đào tạo sâu về thương mại, đầu tư là 1.500 người (khoảng 7,5% tổng số luật sư cả nước, gấp trên 6 lần hiện nay), trong đó số luật sư đạt tiêu chuẩn quốc tế là 150 người (gấp hơn 7 lần hiện nay). Năm 2020, có ít nhất 30 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu về kinh doanh, thương mại, đầu tư có yếu tố nước ngoài (gấp 3 lần hiện nay).
Một điểm mới đáng lưu ý là đến thời điểm đó (2020), mỗi tập đoàn, tổng công ty (TĐ, TCT) Nhà nước phải sử dụng thường xuyên từ 2 đến 5 luật sư đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế. Để đạt được mục tiêu trên, Ban Soạn thảo đề án dự kiến thời gian đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng được tuyển chọn khoảng 30 tháng tại Trung tâm Thí điểm đào tạo luật sư hội nhập (có sự phối hợp với đối tác nước ngoài), với chi phí từ 5.000 - 7.000 USD/người/khóa. Nhà nước sẽ hỗ trợ 40% kinh phí đào tạo. Đối với những luật sư đã tự đi đào tạo đạt chuẩn, sẽ có chính sách thu hút về làm việc bằng cách hỗ trợ trở lại một phần kinh phí đã bỏ ra.
Phát biểu tại cuộc tọa đàm, ông Lê Thành Long, Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp) cho rằng, để đề án thực sự khả thi, cần xác định rõ vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư, tránh “chất thêm gánh nặng lên đôi vai gầy ngân sách”. Tuy nhiên, ông Long cũng không đồng ý với quan điểm coi việc phát triển đội ngũ luật sư theo đề án này chỉ là nhằm phục vụ yêu cầu của bộ máy chính quyền và các TĐ, TCT Nhà nước, bởi đặc thù của nghề luật sư là một nghề nghiệp tự do, phục vụ cho toàn xã hội; có va chạm, tiếp xúc với thực tế, các luật sư mới có thể tích lũy được kinh nghiệm và “khôn lớn”. Ông Long đề nghị cân nhắc thêm tiêu chí số vụ kiện đầu tư kinh doanh thương mại quốc tế mà luật sư Việt Nam (qua đào tạo) tự giải quyết được, không cần thuê luật sư nước ngoài và coi đây như một biểu hiện rõ nét về hiệu quả của việc thực hiện đề án.
Chia sẻ quan điểm này, LS Đỗ Ngọc Thịnh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị đề án nêu cụ thể những đối tượng sẽ được đào tạo, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng; từ đó chỉ ra nội dung, phương pháp thực hiện đào tạo cũng như mức độ hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng này. Ông lưu ý, để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư, điều tối quan trọng là môi trường làm việc tốt và đa dạng, vì vậy cần chú trọng việc cử luật sư ra nước ngoài tập sự.
Bên cạnh đó, khả năng sử dụng tiếng Anh (chuyên sâu về pháp lý) được coi là một yêu cầu tiên quyết đối với luật sư hội nhập, vậy thì khoảng thời gian đào tạo 30 tháng như dự kiến liệu có đáp ứng được yêu cầu này? Vì thế, công tác đào tạo tiếng Anh pháp lý phải được tiến hành cho những ứng viên có khả năng ngay từ năm đào tạo đầu tiên trong trường đại học.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 19/8/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm