Điểm tin báo chí sáng ngày 04 tháng 8 năm 2009

04/08/2009
Trong buổi sáng ngày 04/8/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Khoa học và đời sống phản ánh: Lúc 11h30 ngày 1/8/2009, tàu đánh cá QNg - 95031 TS do ông Nguyễn Tấn Lự (52 tuổi) ở xã Bình Châu, H.Bình Sơn (Quảng Ngãi) làm thuyền trưởng cùng 12 thuyền viên đã bị Hải quân Trung Quốc bắt giữ đưa về đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) khi đang trên đường chạy tránh bão ở vùng biển này. Thông tin trên được Ban Chỉ huy phòng, chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Ngãi cho biết chiều 3/8/2009.
Theo Thanh Niên (4/8/2009), ông Phạm Huy Hoàng - Phó giám đốc Sở NN-PTNT Quảng Ngãi cho biết, khi mới bị bắt, phía Trung Quốc cho thuyền trưởng liên lạc về gia đình (thông qua máy Icom) nhưng đến tối cùng ngày hoàn toàn không liên lạc được. Trước đó, ngày 16/6/2009, 12 ngư dân huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi cũng đã bị Hải quân Trung Quốc bắt giữ đưa về đảo Phú Lâm khi đang hành nghề lưới câu gần khu vực quần đảo Hoàng Sa. Hiện các ngư dân này vẫn chưa được thả do phía Trung Quốc đòi tiền chuộc.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Thủ tướng vừa có ý kiến về đề án tái cơ cấu ngành điện. Thủ tướng chỉ đạo cụ thể về ba nhóm vấn đề: Các dự án nguồn điện, giá điện và việc tái cơ cấu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Theo đó, sẽ tách EVN thành năm tổng công ty điện lực gồm: Tổng Công ty Điện lực miền Bắc, miền Trung, miền Nam, Hà Nội, TP.HCM, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. EVN xây dựng, trình Thủ tướng đề án thành lập các tổng công ty điện lực này trong quý III năm nay.
Về giá điện, ngành điện lực cần xây dựng cơ chế điều chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường. Cơ chế này chỉ thực hiện bù giá cho các hộ ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các hộ nghèo và một số đối tượng đặc biệt khác. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công thương rà soát việc thực hiện các dự án nguồn điện. Sẽ giao ngay các dự án mà các chủ đầu tư không có khả năng triển khai cho chủ đầu tư khác. Với các dự án mới, ưu tiên các chủ đầu tư là EVN, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Đất việt có bài "Không hiến đất, không được đăng ký kết hôn". Bài báo phản ánh: Vì bận làm ăn xa, anh Nguyễn Hoàng Minh (Hậu Giang) dù đã cưới vợ nhưng chưa đăng ký kết hôn. Cuối tháng 6, anh Minh đến Ủy ban nhân dân xã Vị Tân làm thủ tục đăng ký kết hôn thì bị xã từ chối với lý do: gia đình không chịu hiến đất làm đường...
Anh Minh thương trú ở ấp 5, xã Vị Tân, thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Đầu năm 2009, xã Vị Tân thực hiện mở rộng tuyến đường kênh Tắc Huyện Phương từ 2 m lên 4 m, dài khoảng 1,5 km. Việc làm đường này theo kiểu, người dân hiến đất, nhà nước đầu tư toàn bộ kinh phí. Công trình này được 38/42 hộ dân thống nhất giao mặt bằng, còn 4 hộ không đồng ý hiến đất mà yêu cầu được bồi hoàn, trong đó có hộ của ông Nguyễn Văn Sỹ và bà Bùi Thị Lan (cha và mẹ của anh Nguyễn Hoàng Minh). Bà Lan cho biết: “Trước đây, khi làm con lộ 2 m, chúng tôi đã hiến đất. Nay mở rộng lộ lên 4 m nhà nước phải bồi thường vì chúng tôi mất đất quá nhiều, khoảng 150 m2”. Sau nhiều lần động viên, thuyết phục không được, thường trực Ủy ban nhân dân xã Vị Tân thống nhất dùng biện pháp hành chính đối với 4 hộ không chịu giao mặt bằng.
Anh Nguyễn Hoàng Minh kể: “Lúc đầu, cán bộ tư pháp xã cũng hướng dẫn vợ chồng tôi làm thủ tục đăng ký kết hôn. Nhưng rồi, anh cán bộ này được lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã kêu vào phòng làm việc. Một lúc sau quay ra, anh từ chối làm thủ tục đăng ký kết hôn cho tôi với lý do cha tôi không chịu hiến đất làm đường giao thông nông thôn”. Không chỉ thế, cháu Nguyễn Huyền Trang, con của anh Nguyễn Hoàng Phong (em anh Minh), sinh từ tháng 3/2009 đến nay cũng chưa nhập được hộ khẩu vào gia đình. Chị Trần Thị Tiến, mẹ cháu Trang, cho biết: “Hôm đó, anh Minh mang theo giấy khai sinh và hộ khẩu của gia đình định vừa làm đăng ký kết hôn, vừa làm hộ khẩu cho bé Trang nhưng cán bộ tư pháp xã không chịu chứng giấy tờ. Đến nay, bé Trang vẫn chưa có tên trong hộ khẩu”.
Trao đổi với Đất Việt, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Vị Tân Lê Văn Vũ giải thích lý do không làm đăng ký kết hôn cho anh Minh vì “không chấp hành chủ trương, chính sách của Nhà nước” (?!). Vợ chồng anh Minh đang làm công nhân và ở trọ tại TP HCM. Anh Minh cho biết do không có giấy đăng ký kết hôn nên vợ chồng anh phấp phỏm lo chủ nhà trọ làm khó dễ và bị phạt hành chính.
2. Trang web Giađinh.net có bài Dự thảo Luật thuế nhà, đất mới: Những lỗ hổng “voi chui lọt”. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Theo các chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực bất động sản, Dự thảo Luật Thuế nhà đất mới có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, điều người dân trông đợi nhiều nhất từ Luật Thuế nhà, đất mới là chống nạn đầu cơ thì vẫn chưa làm được.
Thứ nhất là, việc mua trao tay qua rất nhiều người và sau cùng mới đến người sử dụng. Để tránh tình trạng mua trao tay, Luật đã quy định giao dịch công khai trên sàn. Tuy nhiên, hình thức hoạt động này không hiệu quả. Phần lớn các giao dịch bất động sản vẫn không qua sàn. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có chế tài quy định cụ thể. Quy định mọi giao dịch bất động sản bắt buộc phải qua sàn nhưng chưa quy định là không giao dịch qua sàn thì sẽ bị xử lý như thế nào? Chính kẽ hở lớn này đã dung túng cho giới đầu cơ và khiến người dân vẫn phải mua nhà với mức giá cao.
Thứ hai là, muốn chống được đầu cơ phải tách rõ từng trường hợp có nhưng không dùng, hoặc sử dụng diện tích quá lãng phí. Theo quy định với đất ở, phần diện tích trong hạn mức thuế suất là 0,03%; vượt hạn mức nhưng không quá 3 lần hạn mức chịu thuế suất 0,06% đây là mức chịu thuế suất hợp lý trong điều kiện kinh tế hiện nay. Nhưng quy định vượt trên 3 lần hạn mức 0,09% là thấp. Vì đây là đối tượng đầu cơ nên mức luỹ tiến này không đủ sức răn đe. Dự thảo Luật đã có ý thức chống đầu cơ nhưng hiệu quả vẫn thấp. Với đối tượng có nhà nhưng đóng cửa để đấy phải áp dụng mức cao hơn so với người có nhiều nhà nhưng cho thuê. Vì trên thực tế, có không ít người sở hữu 5-7 nhà ở, đất ở nhưng đóng cửa để đấy hoặc không sử dụng đến, trong khi nhiều người khác lại không có nhà để ở. Đó là một trong những nguyên nhân khiến giá đất tăng cao. Vậy nên mức luỹ tiến thứ hai nên cao hơn bình thường. Theo nguyên tắc đã áp dụng cách tính thuế luỹ tiến thì phải luỹ tiến theo cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng.
Bà Nguyễn Lan Hương, Giám đốc Cty TNHH nhà đất Khải Minh cho rằng: “Luật Thuế nhà, đất mới số đông người dân sẽ được hưởng lợi nhưng người giàu lợi nhiều hơn. Người có đất sẽ lách thuế bằng cách xây dựng nhiều nhà với diện tích nhỏ và trị giá chỉ là 599 triệu đồng rồi lần lượt cho người thân đứng tên sở hữu. Điều này, rất dễ nảy sinh tiêu cực khi thẩm định giá trị bất động sản. Hoặc nhiều người sở hữu vài căn, thậm chí cả chục cái nhà có giá dưới 600 triệu đồng/căn thì cũng không bị áp thuế”. Luật thuế này áp dụng cho toàn dân sở hữu nhà từ 600 triệu đồng/căn trở lên, chứ không phải tập trung vào đối tượng kinh doanh. Do vậy, nếu nhằm ngăn chặn đầu cơ nhà đất thì luật thuế này hoàn toàn không có tác dụng.
3. Báo Nhân dân phản ánh: Chiều 3-8, Giám đốc Sở Nội vụ Bình Thuận đã công bố hai quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận liên quan đến ông Trần Văn Xê, Giám đốc Sở Tư pháp Bình Thuận.
Ngày 22-7-2009, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận đã có Quyết định số 1977 thi hành kỷ luật ông Trần Văn Xê, Giám đốc Sở Tư pháp Bình Thuận, bằng hình thức cảnh cáo. Sai phạm của ông Trần Văn Xê là đã tham gia, thành lập, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH; giả mạo chữ ký của nhiều người làm hồ sơ thành lập doanh nghiệp, hồ sơ mua bán đất, bảo lãnh vay vốn ngân hàng; quản lý tài chính, tài sản công của đơn vị chưa chặt chẽ. Thời hạn ông Xê chấp hành kỷ luật là 12 tháng.
Ngày 29-7, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận đã ra Quyết định số 24 để ông Trần Văn Xê thôi giữ chức vụ Giám đốc Sở Tư pháp Bình Thuận từ ngày 1-8-2009, chờ bố trí công tác khác.
Trước đó, ngày 11-6-2009, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Thuận cũng đã có quyết định thi hành kỷ luật về Ðảng bằng hình thức cảnh cáo đối với ông Trần Văn Xê.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Từ thư bạn đọc: Mua nhầm đất đấu giá. Bài báo phản ánh: Cuối năm 2007, biết thông tin Thi hành án dân sự huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương rao bán đấu giá miếng đất 245 m2 tại xã Bình An, huyện Dĩ An với giá cao, bà C. (quận 7, TP.HCM) đã đăng ký đấu giá.
Miếng đất trên vốn thuộc quyền sử dụng của một bị đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Do quá hạn mà người này vẫn không trả hết nợ nên cơ quan thi hành án huyện đã ra quyết định cưỡng chế kê biên đất. Theo kết quả định giá tháng 7-2007, đất trị giá gần 265 triệu đồng. Tuy nhiên, trong các biên bản cưỡng chế kê biên, định giá tài sản, cơ quan này đều không ghi rõ loại đất. Sau đó, Thi hành án huyện đã ủy quyền cho Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Bình Dương bán đấu giá miếng đất và cũng không ghi rõ đó là đất nông nghiệp hay đất ở.
Kết quả, bà C. đã mua được đất trên với giá 270 triệu đồng. “Giá này cao xấp xỉ giá đất ở” - bà C. nhận xét. Cạnh đó, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá và biên bản bàn giao giữa trung tâm với bà cũng không ghi loại đất, chỉ nêu diện tích, vị trí... càng khiến bà C. tin rằng mình đã mua được miếng đất ở. Một thời gian sau, bà C. chuẩn bị vật liệu để xây tạm căn nhà. Bất ngờ, chính quyền địa phương đã ngăn cản không cho bà xây dựng, viện lẽ đó là đất nông nghiệp. Bán tín bán nghi, bà C. nộp hồ sơ xin cấp giấy chủ quyền và bà đã nhận được thông báo nộp lệ phí trước bạ cho diện tích đất... trồng cây lâu năm. Đến năm 2008, bà C. đã được huyện cấp giấy đỏ với loại đất nông nghiệp. “Nếu biết đó là đất nông nghiệp thì tôi đã không mua...”. Không hài lòng, bà C. đã khiếu nại.
Ngày 29-6, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Bình Dương đã có văn bản cho biết: “Căn cứ vào bảng giá đất năm 2007 của tỉnh, miếng đất bà C. mua được tính theo giá đất ở. Việc UBND huyện cấp giấy theo loại đất trồng cây lâu năm chưa phù hợp với giá trị quyền sử dụng đất mà bà C. mua tại trung tâm”. Nhưng hôm sau, UBND huyện Dĩ An lại có văn bản khẳng định việc cấp giấy đỏ nêu trên là hoàn toàn chính xác. Theo huyện, trong hợp đồng chuyển nhượng tài sản bán đấu giá không thể hiện mục đích sử dụng của khu đất. Ngoài ra, theo biên bản cưỡng chế, kê biên thì miếng đất không có tài sản là nhà ở. Trong giấy đỏ cũ của chủ đất cũng thể hiện đó là đất nông nghiệp. Nội dung trả lời khác nhau của hai cơ quan này khiến bà C. hoang mang: “Thực sự thì số đất trên là đất ở hay đất nông nghiệp?”.
Trao đổi với phóng viên chiều 31-7, ông Hồ Quý Sơn, Trưởng Thi hành án dân sự huyện Dĩ An, cho biết: “Số đất mà bà C. trúng đấu giá kỳ thực là đất nông nghiệp. Trung tâm đã phản ánh không chính xác khiến đương sự hiểu lầm. Chúng tôi sẽ làm việc lại với trung tâm để có sự thống nhất”. Cũng theo ông Sơn, để không còn những trường hợp bé cái nhầm như của bà C., ông đã chỉ đạo các cán bộ khi kê biên, định giá tài sản là đất đai đều phải ghi rõ loại đất.
5. Báo Người lao động có bài DỰ THẢO BỘ LUẬT LAO ĐỘNG SỬA ĐỔI: Nhiều quy định “thụt lùi”. Bài báo phản ánh: “Dự thảo có nhiều điểm tiến bộ nhưng cũng có nhiều điểm “thụt lùi” làm giảm quyền lợi của người lao động (NLĐ) so với quy định hiện hành”. Luật gia Võ Văn Đời, Giám đốc Trung tâm Tư vấn Pháp luật LĐLĐ TPHCM, nhận xét về dự thảo lần thứ nhất Bộ Luật Lao động (BLLĐ) sửa đổi.
Theo quy định hiện hành, người sử dụng lao động (NSDLĐ) có thể thỏa thuận với NLĐ để làm thêm không quá 4 giờ/ngày; 12 giờ/tuần; 200 giờ/năm. Trường hợp đặc biệt, phải xin phép cơ quan quản lý lao động nhưng cũng không được quá 300 giờ/năm. Quy định là thế, nhưng thực tế, rất ít NSDLĐ thỏa thuận thực sự với NLĐ mà thường xuyên tổ chức tăng ca quá quy định. Việc tăng ca triền miên cũng là nguyên nhân chính gây nên nhiều vụ tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể.
Thế nhưng, điều 111, dự thảo BLLĐ sửa đổi lại quy định: “NSDLĐ và NLĐ có thể thỏa thuận làm thêm không quá 4 giờ/ngày, 20 giờ/tuần, tổng cộng thời gian làm thêm một năm không quá 300 giờ. Trong những trường hợp đặc biệt, các cơ sở sản xuất hoặc gia công hàng xuất khẩu như dệt, may, da giày, chế biến thủy sản phải giải quyết công việc cấp bách không thể trì hoãn do yêu cầu cấp thiết của sản xuất hoặc do tính thời vụ của sản xuất hoặc do yếu tố khách quan không dự liệu được thì NSDLĐ có quyền thỏa thuận với NLĐ để huy động làm thêm giờ quá quy định...”. Với quy định trên, thời giờ làm thêm của NLĐ đã mặc nhiên bị nâng lên. Đặc biệt, quy định này không khống chế mức trần của số giờ làm thêm và lý do để NSDLĐ tổ chức tăng ca cũng khá mơ hồ. Bà Mai Thị Bích Vân, Chủ tịch CĐ Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn, nhận xét: “Với quy định này, NLĐ sẽ bị vắt kiệt sức và nguy cơ tranh chấp lao động dẫn đến ngừng việc tập thể sẽ ngày càng gia tăng”.
Điểm b, khoản 1, điều 26 của dự thảo BLLĐ sửa đổi quy định: “HĐLĐ xác định thời hạn là HĐLĐ mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng trở lên”. So với quy định hiện hành, điều khoản này không khống chế mức trần của HĐLĐ xác định thời hạn (quy định hiện hành tối đa là 36 tháng). Như vậy, đồng nghĩa, NSDLĐ có thể ký kết HĐLĐ với NLĐ thời hạn... vài chục năm mà vẫn được xem là HĐLĐ xác định thời hạn.
Thêm một điểm hết sức bất lợi cho NLĐ là dự thảo đã loại bỏ quy định sau khi ký kết hai lần HĐLĐ có thời hạn, nếu NLĐ tiếp tục làm việc thì HĐLĐ kế tiếp phải là HĐLĐ không xác định thời hạn. Ông Trần Hồng Sơn, chuyên viên Ban Thi đua – Chính sách LĐLĐ TPHCM, nhận xét: “Đây là bước thụt lùi nghiêm trọng về quyền của NLĐ. Bởi lẽ dự thảo này đã tái lập việc ký HĐLĐ chuỗi, điều mà trước đây đã từng có nhưng sau đó đã bị loại bỏ”.
Một quy định khác tại khoản 2, điều 43 cho phép “doanh nghiệp nhận lao động phái cử có quyền phân công lao động phái cử tạm thời làm công việc phụ trợ hoặc thay thế không quá 10 ngày/năm”. Quy định này làm cho NLĐ bị “một cổ hai tròng” vì chịu sự điều hành của nhiều NSDLĐ, trong khi quyền lợi chỉ có một. Chưa hết, trong trường hợp bị mất việc, NLĐ chỉ hưởng trợ cấp mỗi năm làm việc nửa tháng lương thay vì một tháng lương theo quy định hiện hành.
Theo quy định tại khoản 4, điều 52 dự thảo, NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ “vì lý do kinh tế mà NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ việc làm”. Theo các chuyên gia lao động, đây là lý do hết sức mơ hồ và dễ bị NSDLĐ lợi dụng để cho NLĐ nghỉ việc mà không ai có thể can thiệp bảo vệ. Bởi lẽ, làm sao biết được “lý do kinh tế” cụ thể là gì, sự khắc phục của doanh nghiệp ra sao.
Còn điều 29 về nội dung HĐLĐ lại quy định: “Đối với những công việc liên quan đến bí mật công nghệ, kinh doanh, sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp, NLĐ phải cam kết ghi trong hợp đồng việc bảo đảm giữ bí mật, thời hạn không được tiết lộ bí mật và sử dụng những bí mật, bí quyết đó để sản xuất sản phẩm nhằm cạnh tranh với doanh nghiệp sau khi chấm dứt HĐLĐ, đồng thời phải cam kết bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu vi phạm hợp đồng”. Việc bảo đảm quyền lợi cho NSDLĐ là cần thiết, nhưng dự thảo lại không định nghĩa hay quy định cụ thể thế nào là bí mật, thế nào là tiết lộ bí mật. Hơn nữa, một khi hai bên đã chấm dứt quan hệ lao động thì NSDLĐ lấy quyền gì để kiểm tra, giám sát và xử lý hành vi của NLĐ?
Trên đây là điểm báo sáng ngày 04/8/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm