Điểm tin báo chí sáng ngày 31 tháng 7 năm 2009

31/07/2009
Trong buổi sáng ngày 31/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân phản ánh hoạt động của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ngày 30/7/2009 như sau:

Ngày 30-7, tiếp tục chuyến công tác tại TP Cần Thơ, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục và Ðào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã đến thăm và làm việc với Trung tâm Ðại học Tại chức Cần Thơ.

Phó Thủ tướng yêu cầu thành phố sớm trình Ðề án báo cáo Chính phủ về việc thành lập Trường đại học Kỹ thuật công nghệ Cần Thơ có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Ðào tạo để có sự thống nhất đề ra quy môvà ngành nghề đào tạo. Nhất là vấn đề chuẩn bị đội ngũ nhân lực khi Trường đại học Kỹ thuật công nghệ chính thức được thành lập bởi đội ngũ tiến sĩ, thạc sĩ chưa nhiều. Theo quy định việc thành lập một trường đại học thì trường phải chủ động khoảng 60% nhân lực có trình độ đáp ứng công tác giảng dạy ở bậc đại học. Phó Thủ tướng nhắc nhở, lãnh đạo TP Cần Thơ cần phải quan tâm và tạo điều kiện cả về chính sách, cơ chế để thành lập trường, nếu mở trường phải tạo được uy tín ngay từ đầu, nếu thiếu lực lượng giảng viên thì nên mở ít ngành để đào tạo cho có chất lượng.

Cần Thơ là thành phố trung tâm khu vực ÐBSCL, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh nhưng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế lại chưa theo kịp. Bên cạnh đó, tuy thành phố Cần Thơ hiện đã có Trường đại học Cần Thơ, Ðại học Y dược, Ðại học Tây Ðô nhưng với yêu cầu nguồn nhân lực thì cơ cấu các trường tại đây chưa đồng bộ và đáp ứng yêu cầu đa dạng ngành nghề, đặc biệt là các ngành kỹ thuật phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa của thành phố trung tâm ÐBSCL. Ðề án thành lập Trường đại học Kỹ thuật công nghệ Cần Thơ được xây dựng trên cơ sở chuyển từ Trung tâm Ðại học tại chức, với nguồn kinh phí xây dựng hơn 800 tỷ đồng cho ba nhóm ngành đào tạo 18 chuyên ngành.

* Ngày 30-7, Phó Chủ tịch QH Nguyễn Ðức Kiên dự và phát biểu ý kiến tại buổi gặp mặt các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để tăng cường thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào Quảng Ngãi.

Phát biểu ý kiến tại buổi gặp mặt, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Ðức Kiên biểu dương những nỗ lực của tỉnh trong việc thu hút đầu tư thời gian qua. Ðồng chí nhấn mạnh: Tỉnh cần chủ động lắng nghe, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để tạo mọi điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; đồng thời cần kiến nghị và đề xuất để Nhà nước hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt hiệu quả.

Với những tồn tại và hạn chế mà các nhà đầu tư trong và nước ngoài nêu ra, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Xuân Huế khẳng định: tỉnh sẽ tập trung khắc phục trong thời gian tới nhằm tăng cường mối quan hệ hợp tác, thu hút các nhà đầu tư trong và nước ngoài đầu tư vào Quảng Ngãi, nhằm thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo.

Ðến cuối tháng 6-2009, Quảng Ngãi đã thu hút 249 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 137 nghìn tỷ đồng, trong đó 16 dự án có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) với vốn đăng ký gần 3,4 tỷ USD. Vốn thực hiện của các dự án được cấp giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ước khoảng gần 47.500 tỷ đồng, đạt 34% tổng vốn đăng ký. Thời gian qua, tỉnh đã tích cực cải thiện các cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp và Khu kinh tế Dung Quất. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn và vướng mắc.

Tại buổi gặp mặt, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ là: tỉnh cần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tạo mọi điều kiện để giữ chân các nhà đầu tư; cải thiện những chính sách ưu đãi đầu tư và môi trường đầu tư; tăng cường công tác xúc tiến thu hút đầu tư; cần có cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực kỹ thuật cao...

* Sáng 30-7, tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), Tập đoàn Công ty Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) khởi công Nhà máy nhiệt điện Lý Sơn. Phó Chủ tịch QH Nguyễn Ðức Kiên dự. Ðây là nhà máy nhiệt điện đầu tiên trên đảo được khởi công trong chuỗi dự án phát triển điện trên biển đảo mà Chính phủ giao cho TKV triển khai.

Nhà máy có công suất 2 x 3 MW, sử dụng công nghệ lò hơi tầng sôi tuần hoàn (CFB), tổng mức đầu tư hơn 237,4 tỷ đồng, sử dụng nhiên liệu than cám 4a hoặc 4b, vận chuyển bằng đường biển từ Hòn Gai - Cẩm Phả (Quảng Ninh). Dự kiến, nhà máy sẽ phát điện vào năm 2011, cung cấp hơn ba triệu kW giờ điện thương phẩm mỗi năm. Thời gian tới, TKV sẽ tiếp tục khởi công các nhà máy nhiệt điện ở Phú Quốc (Kiên Giang), Cô Tô (Quảng Ninh)...

* Tại phường Nghĩa Lộ (TP Quảng Ngãi), chiều 30-7, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức lễ khánh thành Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi. Dự lễ có đồng chí Nguyễn Ðức Kiên, Phó Chủ tịch QH và Ðoàn công tác của Ủy ban Thường vụ QH; đại diện các bộ, ngành T.Ư, các tỉnh trong khu vực miền trung và đông đảo cán bộ, nhân dân địa phương...

Bệnh viện được xây dựng trên diện tích năm ha (có tổng diện tích sàn xây dựng gần 36 nghìn m2, công suất thiết kế 500 giường bệnh, với tổng mức đầu tư gần 249 tỷ đồng.

Bệnh viện chính thức đưa vào sử dụng phục vụ việc khám, chữa bệnh cho người dân địa phương.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh:theo báo cáo của 53 tỉnh, thành, sáu tháng đầu năm qua, cả nước có hơn 107 ngàn người mất việc làm, chiếm khoảng 18% số lao động trong các doanh nghiệp có báo cáo.

Đây là thông tin được nêu tại hội nghị trực tuyến “Sơ kết công tác lao động, người có công và xã hội sáu tháng đầu năm” của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH).

Báo cáo của Cục Việc làm cho thấy các tỉnh, TP có số người mất việc cao là TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương, Bắc Ninh, Đồng Nai, Nam Định, Hải Phòng... Đáng mừng là số lao động mất việc đang giảm dần. So với quý I-2009, trong quý II, số lao động mất việc tại TP.HCM giảm 47%, Hà Nội giảm 85%, Bình Dương giảm 82%... Tuy nhiên, mục tiêu tạo 1,7 triệu việc làm mới nhiều khả năng sẽ không hoàn thành vì số việc làm mới phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế.

Tại hội nghị, Cục Việc làm cho biết tình trạng lao động phổ thông của nước ngoài được cấp giấy phép lao động chỉ chiếm gần 44%. Hiện các địa phương vẫn chưa tổng hợp được số lao động phổ thông không đủ điều kiện vào Việt Nam làm việc bằng nhiều con đường và hình thức khác nhau.

Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng giải pháp của các cơ quan quản lý lao động là tuyên truyền và làm việc với các doanh nghiệp, đồng thời yêu cầu Bộ Ngoại giao không gia hạn visa những trường hợp lao động không đủ điều kiện. Bộ LĐ-TB&XH sẽ chịu trách nhiệm chung về vấn đề lao động nhưng cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao để giải quyết vấn đề lao động nước ngoài làm việc không phép.

Báo cũng phản ánh: ngày 30-7-2009, tại Hà Tĩnh đã diễn ra hội thảo “Tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội (VPQH): Thực trạng và phương hướng đổi mới”.

Phát biểu tại hội thảo, TS Nguyễn Sĩ Dũng - Phó Chủ nhiệm VPQH cho rằng mô hình bộ máy giúp việc phải tương ứng với mô hình của QH. Trước đây, QH nước ta theo mô hình XHCN với chức năng chủ yếu là đảm bảo việc thể chế hóa các chính sách của Đảng, còn hiện nay QH theo xu hướng đổi mới. Chúng ta đang thu gọn tổ chức của Đảng, một số ban Đảng đã bị bỏ hoặc sát nhập. Như vậy chức năng thẩm định của QH phải lớn hơn trước kia. Vấn đề đặt ra là mô hình QH thế nào: mô hình đại nghị, mô hình lưỡng tính hay mô hình tổng thống? Mô hình cần phải rõ thì mới thiết kế bộ máy được. Về cơ chế hoạt động, khác với QH nhiều nước hoạt động thường xuyên, QH nước ta hoạt động theo cơ chế hội nghị “xuân thu nhị kỳ” thì chỉ có thể giải quyết được một số việc thôi chứ không thể giải quyết được mọi việc.

Chia sẻ với quan điểm trên, GS Nguyễn Minh Thuyết đề xuất nên tham khảo mô hình của Trung Quốc. QH Trung Quốc có 3.000 đại biểu, cũng hoạt động “xuân thu nhị kỳ” nhưng Ủy ban Thường vụ QH của họ có khoảng 150 ủy viên hoạt động thường xuyên và có thẩm quyền rất lớn.

Vẫn theo ông Sĩ Dũng, khi “nguyên tắc làm việc chưa được xác định rõ ràng, lãnh đạo các ủy ban của QH dễ sa vào quản lý hành chính hoạt động của ủy ban và vụ giúp việc. Các phó chủ nhiệm cũng phụ trách một mảng và ra lệnh cho một nhóm chuyên viên. Chưa phân biệt rõ hoạt động hành chính và chính trị”. Ông Lương Phan Cừ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội, cũng cho rằng hiện nay các đại biểu QH chưa là chính khách thực thụ. “Chúng ta đang biến hoạt động nghị viện thành hoạt động hành chính” - ông nhận xét.

Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy bộ máy giúp việc chủ yếu hỗ trợ cho các ủy ban về quy trình, thủ tục, cách thức tổ chức công việc và các vấn đề kỹ thuật. Trong khi ở ta, chức năng của VPQH chưa được xác định rõ, cứ nói là “tổng hợp, tham mưu, phục vụ” thì không khác gì các văn phòng khác. Ở các nước, các chính sách trong nội bộ QH do một ủy ban bao gồm chủ tịch QH, người đứng đầu các đảng, chủ nhiệm VPQH quyết định (quyết chính trị), tổng thư ký QH triển khai thi hành (quyết hành chính). Ở ta chưa có bộ máy hỗ trợ các hoạt động mang tính chính trị cho lãnh đạo QH (chẳng hạn một số hoạt động trong quan hệ với Đảng, với công chúng. Làm việc theo nguyên tắc phục vụ các mục tiêu chính trị)” - ông Dũng phân tích.

Hiện nay, các vụ chuyên môn chủ yếu giúp việc cho lãnh đạo ủy ban, các đại biểu chuyên trách ở các ủy ban thiếu người giúp việc, các đại biểu không chuyên trách gần như không có người giúp việc. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng về điều kiện làm việc giữa các đại biểu vốn có địa vị pháp lý ngang nhau. Nhân lực có hạn, các vụ của VPQH trong tình trạng quá tải, còn đại biểu thì luôn cảm thấy thiếu “chân tay”. Ông Dũng đề xuất cần tính đến mô hình đại biểu QH thuê các thư ký giúp việc. Ở nhiều nước, việc thuê sinh viên luật làm thư ký giúp việc là khá phổ biến vì chi phí thấp, tạo nguồn cán bộ thạo việc cho VPQH.

GS Thuyết nêu lại vấn đề đội ngũ trợ lý của các nghị sĩ. “Ít nước mà nghị sĩ lại không có trợ lý. Mỗi đại biểu chỉ hiểu một vài lĩnh vực nhưng phải quyết định mọi chuyện nên cứ phải tự mình mò mẫm tìm kiếm thông tin. Indonesia lương đại biểu 4.000 USD, Cambodia lương 2.000 USD là bao gồm các khoản để đại biểu thuê ôtô, thuê người giúp việc” - ông Thuyết cho hay.

Tuy nhiên, ông Cừ lại phân vân: Các nước người ta có văn phòng của nghị sĩ, bộ máy này trợ giúp nghị sĩ thu thập, phân tích thông tin, trợ giúp kỹ năng hoạt động và cả việc PR hình ảnh nghị sĩ hoặc lobby chính sách. Nhưng thử hỏi ở ta, nếu đại biểu có văn phòng riêng thì trong cơ chế hoạt động như hiện nay, chưa chắc đại biểu đã nói hết được suy nghĩ, thực hiện hết được ý tưởng của mình.

Nhiều ý kiến tại hội thảo đề nghị từ những bất cập trong hoạt động bộ máy giúp việc được nêu ra trên đây, QH cần nghiên cứu, xem xét, làm rõ và quy định cụ thể khi sửa đổi Luật Tổ chức QH vào năm 2010.

Báo cũng phản ánh việcUBND TP.HCM vừa ban hành quyết định công bố Bộ thủ tục hành chính chung áp dụng trên địa bàn TP.

Theo đó, bộ thủ tục áp dụng tại phường, xã, thị trấn có 172 thủ tục cho 23 lĩnh vực; bộ thủ tục áp dụng tại UBND quận, huyện có 638 thủ tục thuộc 50 lĩnh vực, bao gồm nhà ở, đất đai (các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất...); xây dựng (gia hạn, cấp phép xây dựng, thay đổi thiết kế, sửa chữa công trình...); lao động, bảo hiểm, việc làm, thành lập doanh nghiệp, hành chính tư pháp, giải quyết khiếu nại, tố cáo...

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang thông tin Vietstock có bài: “"Dòng chảy" của luật đang ... chậm dần”. Theo trang thông tin, sức mạnh quản lý của bộ máy chính quyền nằm ở hệ thống luật pháp của nó hoàn thiện, hay không hoàn thiện, hiệu quả, hay không hiệu quả.

Hoàn thiện là ở chỗ quy định ấy phải đảm bảo thông thoáng cho DN hoạt động. Đồng thời ngăn chặn được những biểu hiện gian lận. Hiệu quả là ở chỗ phải xây dựng, hình thành được nội lực mạnh mẽ cho DN.

Mấy ngày gần đây, giám đốc một DN tại Hải Phòng lo lắng cho lô hàng đầu tiên XK đi nước ngoài. Lý do là vì trong khi đối tác nước ngoài không yêu cầu DN phải đạt một số thành phần trong sản phẩm XK, thì cơ quan quản lý lại yêu cầu phải có bằng được.

Tại hợp đồng XK, đối tác nước ngoài của DN này chỉ yêu cầu sản phẩm dolomit có hàm lượng MgO phải trên 20%, hàm lượng chất còn lại (CaO) không cần quy định. Để XK loại khoáng sản này, DN cần đáp ứng điều kiện quy định tại Thông tư 08/2008/TT-BCT hướng dẫn XK khoáng sản. Phụ lục 2 của thông tư quy định hàm lượng MgO trong quặng dolomit XK phải lớn hơn hoặc bằng 17%, hàm lượng CaO phải lớn hơn hoặc bằng 34%. Khổ nỗi, tại chứng thư giám định, hàm lượng MgO đã... lớn hơn 20%, nhưng hàm lượng CaO trong dolomit XK của DN này lại nhỏ hơn 34%. Và vì thế, cơ quan Hải quan đã từ chối làm thủ tục XK cho DN với lý do là vì hàm lượng CaO không đáp ứng đủ yêu cầu. Tuy nhiên, ở dạng tinh khiết, khoáng sản dolomit (MgCa (CO3) 2) gồm hai thành phần CaCO3 + MgCO3 chiếm trên 98%. Bột dolomit được ứng dụng trong rất nhiều ngành sản xuất như thủy sản, kính, phân bón... và nếu hàm lượng MgO quy đổi trong bột dolomit đạt trên 20% thì đó là bột chất lượng tốt.

Theo thông lệ thương mại quốc tế, đa phần các DN có nhu cầu bột dolomit chỉ cần sử dụng một trong hai chất MgO hoặc CaO mà không quan tâm tới các thành phần còn lại. Từ đây sẽ thấy, quy định “cứng”, yêu cầu cả hai hàm lượng CaO trong bột dolomit XK buộc phải đạt 34% trở lên (tương đương 60,7 % với CaCO3), và hàm lượng MgO phải đạt 17% (tương đương MgCO3 chiếm 35,7%) là không hợp lý, không phù hợp. Có nghĩa, yêu cầu của Thông tư 08/2008/TT-BCT đã đẩy DN vào thế... không thể đáp ứng nổi yêu cầu của quy định. Trong khi đó lại không là yêu cầu bắt buộc trong thương mại quốc tế.

Nhưng cuối cùng DN này vẫn XK được. Những DN vẫn đang XK đã chia sẻ kinh nghiệm: “tác động” với người kiểm định chất lượng, làm sao để cả hai thành phần đều “đủ” là... ổn. Vậy là, hiệu quả của Thông tư 08/2008/TT-BCT lại là ở chỗ buộc DN phải nói dối, thay vì chấp hành đúng với mong muốn của người ban hành.

Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, điều 12 quy định: “Người bán đấu giá tài sản phải niêm yết việc bán đấu giá tài sản ... chậm nhất là bảy ngày đối với động sản... trước ngày mở cuộc bán đấu giá tài sản”. Và: “... phải thông báo công khai ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ba ngày trên phương tiện thông tin đại chúng của trung ương hoặc địa phương về việc bán đấu giá...”. Phải “hiểu” thế nào về hai yêu cầu này ?

Nếu hiểu chính xác, thì người tổ chức đấu giá phải đăng tin trước thời hạn kết thúc nhận hồ sơ tham gia đấu giá tối thiểu là 7 ngày với lần đăng tin đầu tiên. Và lần thứ 2 phải đăng tin vào đúng 3 ngày sau đó. Tức là, thời gian tối thiểu để người có nhu cầu tham gia đấu giá có thể nộp hồ sơ tham gia là 4 ngày trước thời hạn kết thúc nhận hồ sơ đấu giá theo quy định.

Thế nhưng, tìm trên các phương tiện thông tin đại chúng như web site, báo chí... có thể thấy nhan nhản thông tin đấu giá tài sản rất nhiều trường hợp trong đó đã đăng tin cận ngày kết thúc nộp hồ sơ tham gia đấu giá. Vì cận ngày như thế, thì sẽ có không ít DN có nhu cầu lỡ mất cơ hội mua hồ sơ để đăng ký tham gia đấu giá. Và nếu cộng cả những yêu cầu, nhiều khi rất oái oăm của người có tài sản, thì cơ hội tham gia đấu giá của không ít DN gần như bằng không.

Điểm 2, khoản 1, mục A thuộc Danh mục Ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định “Sản xuất thép cao cấp, hợp kim, kim loại đặc biệt, sắt xốp, phôi thép” là được hưởng các ưu đãi về đầu tư quy định trong những điều trước đó của nghị định. Căn cứ vào quy định này và nhiều quy định ưu đãi, khuyến khích thu hút đầu tư khác, đã có rất nhiều dự án sản xuất phôi thép được xây dựng và đi vào hoạt động. Thế nhưng, thời điểm hiện tại đang bộc lộ một thực tế, Nhà nước khuyến khích đầu tư sản xuất phôi thép, nhưng trong khi DN sản xuất phôi trong nước đang bị thiếu ngoại tệ để nhập khẩu thép phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất thì các ngân hàng tìm mọi cách từ chối cấp ngoại tệ cho DN NK thép phế với lý do hoạt động NK thép phế không là đối tượng được ưu tiên bảo đảm, cung ứng ngoại tê (theo Công văn số 4941/NHNN-QLNH về chấn chỉnh hoạt động mua bán ngoại tệ). Trước đây, các DN vẫn có thể tìm nguồn ngoại tệ từ thị trường tự do để chuyển qua ngân hàng thanh toán các khoản mua phế liệu.

Nhưng do sự siết chặt quy định với việc mua bán ngoại tệ mà việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ này gần như không còn, cộng với việc không là đối tượng được ưu tiên bảo đảm, cung cấp ngoại tệ, mà “cửa” tìm ngoại tệ để nhập khẩu thép phế sản xuất phôi của DN gần như không còn.

Văn bản luật đang ngày càng được Nhà nước điều chỉnh, ban hành nhiều hơn để phục vụ hoạt động của DN. Nhưng vấn đề là ở chỗ, hiệu quả của từng văn bản ấy tác động thế nào tới hoạt động của DN thì vẫn chưa được quan sát, tổng kết đúng như yêu cầu với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. “Dòng chảy” của luật, vì thế, đang bị chậm dần bởi những lý do, hiện tượng không bình thường. Vậy thì liệu có sự thay đổi nào để nâng cao hiệu quả ấy không?

2. Báo Đại đoàn kết phản ánh: Bộ Luật Hình sự nước ta đã có những điều khoản quy định và chế tài rất nghiêm khắc đối với tội danh “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Điều 150). Diễn giải một chút, tức là bất cứ một tổ chức hoặc cá nhân nào, có hành vi “xài” đồ bất minh, đồ do vi phạm pháp luật mà có, thì “ắt hẳn” cũng là phạm pháp. Hẳn nhiên là vậy!

Nhưng xem cái dự thảo Nghị định mới về “ Xử phạt vi phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phân bón” mà Bộ ngành chức năng vừa hoàn thành và trình Chính Phủ phê duyệt, có điều khoản xử phạt người nông dân từ 5 - 10 triệu đồng nếu sử dụng phải phân bón giả, kém chất lượng ..., thấy cứ “nghịch nhĩ ” thế nào?

Trừ điều khoản đáng hoan nghênh là: Mức xử phạt hành chính cao nhất đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh buôn bán phân bón giả, kém chất lượng có thể lên tới 100 triệu đồng - thay vì mức phạt 13 - 15 triệu đồng như trước, thì việc “bắt vạ” người nông dân như đã nói ở trên có quá nhiều điều vô lý. Một trong nhiều người đại diện cho việc bảo vệ quyền lợi người nông dân, ông Nguyễn Duy Lượng, Phó chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam bức xúc nói: “ Những người soạn thảo chẳng bao giờ vì người nông dân, không am hiểu người nông dân và chưa đặt mình vào vị trí của người nông dân”. Trong khi đó, ông Phan Huy Thông - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn lại lý giải: “Nghị định ra đời với mục đích siết chặt kiểm soát hơn việc sử dụng phân bón trước nạn phân bón giả đang hoành hành. Mức xử phạt đối với người sử dụng sẽ buộc họ phải kiểm soát nguồn cung cấp”.

 Hàng chục triệu nông dân cũng đang rất bức xúc khi biết thông tin này. Vì trong câu chuyện này, rõ ràng họ là bị hại, thậm chí là những bị hại rất đáng được che chở. Thế mà những người làm luật, chẳng biết do trình độ hay cố tình ác ý lại bắt họ “giơ tay lên” ... nộp phạt. Ai chả biết trình độ của người nông dân trong việc nhận biết cái sự “thật-giả” của các loại sản phẩm phân bón còn nhiều bất cập. Đã có ai trang bị cho người nông dân những kỹ năng kiểm định chất lượng phân bón đâu mà nỡ bắt phạt người ta. Và hơn hết, đồ rằng chẳng có ông nông dân nào lại “rồ dại” đến mức cố ý đi mua phân bón giả về dùng? Hà cớ gì quản lý và kiểm soát không xuể, lại mang người nông dân ra mà “thí mạng” thay? Mở rộng hơn, cứ ai là người tiêu dùng mà sử dụng phải hàng giả, hàng kém chất lượng đều bị xử phạt như người nông dân trong câu chuyện này, chắc chắn sẽ có gần 100% dân số nước ta đều bị phạt!

Qua tìm hiểu ý kiến của chính những nhà sản xuất, kinh doanh phân bón về vấn đề trên, họ đều cho là bất ổn, khó thực thi. Vì rằng, ngay cả các cán bộ chuyên môn kỹ thuật, có trình độ, được đào tạo hẳn hoi, đôi khi còn không “theo kịp thời đại” làm hàng giả nói chung, phân bón giả nói riêng đang ngày càng tinh vi như hiện nay, thì “trăm dâu đổ đầu” ... nông dân quả là quá đáng!

Mặt khác, nhìn sâu rộng vấn đề hơn sẽ thấy, nếu chẳng may người nông dân “trót dại” mua và sử dụng phải phân bón giả, chắc sẽ không ai dại gì mà “vạch áo cho người xem lưng” để rồi chịu nộp phạt. Vô hình trung, dự thảo Nghị định này lại làm khó cho chính cơ quan chức năng vì khó bề “khui ra” được các loại tội phạm đang rắp tâm “báo hại” người nông dân!

Báo cũng có bài: “Từ 2009 - 2010: Cử 2.600 công chức đào tạo nước ngoài”. Theo báo, những đối tượng được đi đào tạo, bồi dưỡng là cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và cán bộ diện quy hoạch từ cấp phó vụ trưởng và tương đương trở lên ở ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương; cấp phó ngành trở lên ở địa phương và cán bộ lãnh đạo của các doanh nghiệp lớn. Cán bộ trẻ mới tốt nghiệp đại học hoặc đã công tác một vài năm có triển vọng làm cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng nằm trong diện được đào tạo, bồi dưỡng.
Nhà nước chi hỗ trợ hàng tháng đối với mỗi cán bộ đi học bậc đại học là 750.000đ, bậc thạc sĩ 900.000đ, bậc tiến sĩ 1.050.000đ...Cán bộ, lưu học sinh hoàn thành chương trình học tập với kết quả xuất sắc trước thời hạn, sẽ được hưởng 50% số tiền sinh hoạt phí của thời gian hoàn thành trước hạn. Cán bộ, lưu học sinh đạt kết quả xuất sắc được cơ sở đào tạo trong và ngoài nước miễn hoặc giảm học phí, sẽ được nhận 100% số tiền được miễn hoặc giảm này.
Dự kiến, giai đoạn 2009 - 2010, mỗi năm cả nước sẽ gửi đi đào tạo 30 nghiên cứu sinh, 300 học viên cao học, 200 thực tập sinh, 400 cán bộ học ngoại ngữ, 400 cán bộ bồi dưỡng ngắn hạn. Kinh phí thực hiện do ngân sách Trung ương bảo đảm, được giao trong tổng dự toán ngân sách Đảng ở trung ương.

Trên đây là điểm báo sáng ngày 31/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ./.

Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ./.



File đính kèm