Trong buổi sáng ngày 28/4/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Dự thảo Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng đang được Bộ VH,TT&DL tổ chức lấy ý kiến đã vấp phải sự phản ứng trái chiều của dư luận. Trước đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 11/2006/NĐ-CP về việc quản lý loại hình dịch vụ nhạy cảm này, tuy nhiên vẫn có những điều chưa khả thi khi áp dụng, dự thảo mới liệu có bước theo vết xe đổ?
Các khoản 9, 10 điều 29, chương VII về hoạt động vũ trường, và khoản 7, 8, điều 35, chương VIII về hoạt động ka-ra-ô-kê của dự thảo quy định: Các điểm kinh doanh ka-ra-ô-kê, vũ trường không được hoạt động quá 12h đêm đến 8h sáng. Riêng các điểm kinh doanh "thuộc khách sạn 5 sao trở lên tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; 4 sao trở lên tại các địa phương khác được hoạt động sau 12h đêm nhưng không được quá 2h sáng" với điều kiện "phải có văn bản thông báo cho sở VH,TT&DL biết trước khi hoạt động ít nhất 10 ngày".Ông N. V. P. - một cán bộ quản lý văn hóa của Hà Nội - cho rằng: Quy định này rõ ràng có sự phân biệt "cá lớn", "cá bé" bởi cả nước có hàng nghìn dịch vụ kinh doanh ka-ra-ô-kê đủ điều kiện hoạt động theo Nghị định 11-CP và hoàn toàn phù hợp với quy hoạch ka-ra-ô-kê, vũ trường do các địa phương phê duyệt. "Nếu quy định này được áp dụng, khách sẽ đổ về các điểm kinh doanh nằm trong khách sạn, thay vì rải đều cho các cơ sở kinh doanh khác ở bên ngoài. Như vậy, những điểm kinh doanh nhỏ không có khách, có thể họ sẽ đóng cửa hoặc sẽ bổ sung một số dịch vụ (không loại trừ tiêu cực) hay cố tình kéo dài thời gian hoạt động để thu hút, cạnh tranh. Điều này xảy ra, chắc chắn công tác quản lý sẽ gặp khó khăn".
Điều kiện cấp giấy phép kinh doanh cho dịch vụ ka-ra-ô-kê, vũ trường tại điều 27 và 33 dự thảo quy định: "Phòng khiêu vũ phải có diện tích từ 80m2 trở lên, cách trường học, bệnh viện, cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, di tích lịch sử, văn hóa, cơ quan hành chính nhà nước từ 200m trở lên, bảo đảm các điều kiện về phòng chống cháy nổ". Điều khoản này không mới nhưng băn khoăn ở chỗ nếu một vũ trường được mở ở tầng Z nào đó trên một tòa nhà, bảo đảm mọi điều kiện về âm thanh, ánh sáng cũng như về an ninh trật tự, song khoảng cách từ tầng Z tới các hộ dân ở tầng kế sát không đủ 200m thì vũ trường này có được phép hoạt động không?Bên cạnh đó, điều 33 khoản 5 dự thảo vẫn giữ nguyên quy định không mấy khả thi, đó là: "Địa điểm hoạt động ka-ra-ô-kê trong khu dân cư phải được sự đồng ý bằng văn bản của các hộ liền kề". Với quy định này, nếu mối quan hệ của hộ kinh doanh với láng giềng "mặn mà hữu hảo" thì không sao, nhưng chẳng may có mâu thuẫn, dù là rất nhỏ họ cũng không đủ điều kiện để thực hiện kinh doanh, dù đó là việc kinh doanh chính đáng và lành mạnh.
2. Báo Giađinh.net phản ánh: Ngày 24/4, Bộ Chính trị Thông báo kết luận về quy hoạch vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bauxite giai đoạn 2007 – 2015. Một trong những nội dung chỉ đạo là: “Quan tâm đúng mức đến đời sống và giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc Tây Nguyên; tạo công ăn việc làm cho nhân dân địa phương; việc sử dụng lao động nước ngoài phải đúng quy định của pháp luật”.
Trước đó, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký Thông báo 12/TB – VPCP thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về một số tình hình đầu tư và người lao động nước ngoài tại Việt Nam. Thủ tướng giao Bộ LĐ,TB&XH chủ trì rà soát, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về lao động nước ngoài tại Việt Nam nhằm hạn chế tình trạng người nước ngoài làm việc không có giấy phép hoặc cố tình vi phạm pháp luật về quản lý lao động, xử lý các vi phạm về pháp luật lao động và báo cáo Thủ tướng trước ngày 31/5.
Hiện nay, đang có hàng ngàn lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Công ty nước ngoài trúng thầu các công trình kinh tế trọng điểm và đưa lao động phổ thông từ nước họ vào làm việc. Quy định về lao động phổ thông không được tự do nhập cảnh vào làm việc tại Việt Nam cần phải được thực thi nghiêm túc, các vi phạm phải được chấn chỉnh. Việc quản lý lao động phải là ưu tiên số một trong quá trình triển khai thực hiện các dự án kinh tế. Chính phủ đề xuất nhiều chính sách ổn định việc làm cho người lao động. Chúng ta tốn rất nhiều tiền để lo việc làm nhưng một khối lượng công việc rất lớn lại lọt vào tay người khác.
Hiện nay một số công trường xây dựng do người nước ngoài trúng thầu, họ quy hoạch khu vực và có lực lượng canh gác như doanh trại, trong đó chỉ có người của họ. Bên trong, họ xây dựng các đường nội bộ và đặt tên đường theo tiếng của nước họ, khắp nơi treo cờ công ty theo chữ viết của họ. Nếu các công trình, dự án của người nước ngoài trúng thầu được triển khai hoạt động như vậy, chỉ cần một vài năm, lao động phổ thông, công dân nước ngoài sẽ đến sinh sống tại Việt Nam sẽ rất đông. Có thể lực lượng nam công nhân người nước ngoài sẽ lấy vợ, sinh con ở Việt Nam, mua nhà ở và sinh sống tại Việt Nam. Họ tập trung thành khu vực để sinh sống theo cộng đồng. Nhiều khu phố, khu dân cư người nước ngoài mọc lên khắp nơi từ đồng bằng đến cao nguyên, từ Cà Mau đến Quảng Ninh, từ miền duyên hải đến miền núi. Khi ấy, các vấn đề an sinh xã hội và nhiều vấn đề hệ trọng khác nảy sinh. Giải quyết hậu quả về lao động nhập cư lúc đó rất nặng nề.
Báo cũng phản ánh: Thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước (Đề án 30), 30/40 sở, ngành, quận, huyện cùng một số cơ quan của Trung ương đóng trên địa bàn TP HCM đã hoàn thành việc kê khai, thống kê các thủ tục hành chính đang áp dụng.
TP HCM cũng vừa công bố Website đăng tải toàn bộ nội dung các văn bản pháp quy do HĐND và UBND ban hành từ năm 1975 đến nay. Thông tin này được cung cấp miễn phí. Bên cạnh đó, TP còn công khai việc giải quyết các hồ sơ trên mọi lĩnh vực của nhân dân trên trang HCM Cityweb. Việc lắp đặt thí điểm hệ thống máy nhắn tin xếp hàng nhằm bớt thời gian đi lại, chờ đợi cho người dân cũng đã được thực hiện tại Chi cục thuế quận Gò Vấp, UBND quận 6 và UBND quận 10. Dự kiến tháng 6/2009, UBND TP sẽ công khai các thủ tục hành chính qua mạng điện tử để người dân biết và sử dụng.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Với thái độ ngoan cố, ngày 23/4/2009, nhân danh là Phát ngôn viên Giáo xứ Thái Hà- dòng chúa cứu thế Hà Nội, Linh mục (LM) Nguyễn Văn Khải đã ra cái gọi là Thông cáo vượt quá giới hạn chức phận của LM, can thiệp sâu vào những vấn đề chính trị, chống phá đất nước.
Vẫn thái độ thách thức, ngay câu mở đầu Thông cáo, LM Nguyễn Văn Khải đã kích động Trước hiện tượng bất công tràn lan trên đất nước; trước sự kiện môi trường sống của đồng bào, đặc biệt của anh chị em dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đang có nguy cơ huỷ hoại do chủ trương khai thác bauxite ở đây; trước sự kiện đất đai của nhiều nơi, trong đó có Giáo xứ Thái Hà đang bị ngang nhiên lấn chiếm. Không những vậy, trong Thông cáo đó, LM Nguyễn Văn Khải kính mời nhưng thực chất là hô hào giáo dân tụ tập đến Nhà thờ Thái Hà cầu nguyện vào lúc 18 giờ 30, ngày 25/4/2009 với 3 nội dung xuyên tạc nêu trên. Không dừng lại ở đó, LM Nguyễn Văn Khải còn kích động cả vấn đề trước sự kiện môi trường sống của đồng bào, đặc biệt của anh chị em dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, đang có nguy cơ huỷ hoại do chủ trương khai thác bauxite ở đây.
4. Báo Thanh niên phản ánh:
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Sáng 26-4, Sở Tư pháp TP.HCM tổ chức vòng sơ khảo hội thi công chứng năm 2009 dành cho công chứng viên, cán bộ nghiệp vụ các phòng công chứng. Mục đích nhằm tạo giao lưu học tập và trao đổi kinh nghiệm.
Ngoài bảy phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp, còn có sự tham gia của hai văn phòng công chứng tư. Nội dung của cuộc thi bao gồm kiến thức pháp luật và nghiệp vụ công chứng. Ban tổ chức sẽ chọn ra bốn đội có điểm thi cao nhất để tiếp tục tranh tài ở vòng chung kết vào ngày 24-5. Cuộc thi có nhiều giải đồng đội, cá nhân và quà cho khán giả trả lời đúng các câu hỏi của ban tổ chức.
2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài “Xử phạt các hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại tòa án”. Bài báo phản ánh: UBND TPHCM vừa có văn bản gửi Bộ Tư pháp góp ý kiến cho Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực tư pháp.
Theo đó, UBND TP đề xuất cần quy định cụ thể hình thức xử phạt đối với nhóm hành vi VPHC trong hoạt động tố tụng của tòa án, bao gồm: người tham gia tố tụng cố tình không nhận, không chấp hành theo giấy triệu tập của tòa án, tự ý bỏ về giữa chừng làm cho việc giải quyết phải hoãn nhiều lần; từ chối không khai báo hoặc khai báo không đúng sự thật; mua chuộc, đe dọa, cưỡng ép để ngăn cản người làm chứng hoặc để họ khai báo gian dối; các cơ quan chuyên môn không cử cán bộ tham gia hội đồng định giá tài sản theo yêu cầu của tòa án; đương sự cản trở hoạt động định giá tài sản… Những hành vi này gây ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của tòa án, nhưng việc xử lý gặp không ít khó khăn do hiện nay các quy định của pháp luật về việc xử lý VPHC đối với các hoạt động tố tụng vẫn chưa cụ thể, rõ ràng và triệt để.
Để nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, UBND TP cũng đề nghị trong dự thảo nghị định cần bổ sung quy định xử phạt đối với các hành vi: tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động công chứng; cho người không đủ điều kiện hành nghề luật sư thực hiện hoạt động hành nghề dưới danh nghĩa tổ chức hành nghề luật sư của mình hoặc tại tổ chức hành nghề luật sư của mình; gây mất trật tự, phá rối, cản trở việc bán đấu giá hoặc cản trở người khác tham gia đấu giá.
3. Trang web Đài tiếng nói Việt Nam có bài “Nhiều vướng mắc nảy sinh sau 2 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội”. Bài báo phản ánh: Số người tham gia tăng, hệ thống văn bản hướng dẫn đã được ban hành đầy đủ, rõ ràng… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong thực hiện, như tình trạng nợ đọng và chậm đóng bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp còn phổ biến.
Sau 2 năm thực hiện Luật bảo hiểm xã hội số người, số đối tượng tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội đều tăng. Nếu năm 2006 cả nước có hơn 6,7 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì năm 2008 đã là trên 8,5 triệu người. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập. Báo cáo thẩm tra của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy, việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc còn chậm. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do việc nắm bắt, quản lý đối tượng chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế phối hợp giữa tổ chức bảo hiểm xã hội và các cơ quan liên quan. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tổ chức triển khai chưa đều khắp tại các tỉnh, thành phố. Tình trạng người lao động ở tỉnh ngoài về thành phố làm việc nhiều, lại thường xuyên thay đổi nơi làm việc nên chỉ quan tâm đến thu nhập trước mắt mà ít chú ý đến các chính sách an sinh xã hội còn rất phổ biến. Điều đó khiến chủ sử dụng lao động, không thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội hoặc đóng theo mức thấp nhất hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động xảy ra khá phổ biến.
Theo ước tính, số người lao động thực tế được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mới chỉ đạt khoảng 70%. Ông Lương Phan Cừ, Phó chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội cho rằng: “Do nhiều người lao động không nắm rõ các quy định của pháp luật nên chủ sử dụng lao động lợi dụng vấn đề này để trốn đóng bảo hiểm xã hội”. Một trong những điểm đáng chú ý là thực trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội hiện nay quá lớn, gây thiệt hại cho Quỹ bảo hiểm xã hội cũng như thiệt thòi cho người lao động. Tính đến hết năm 2008, số nợ đọng bảo hiểm xã hội trên toàn quốc là 2.000 tỷ đồng, tăng gần 270 tỷ đồng so với năm 2007. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ đọng, song nguyên nhân chính là chế tài xử phạt đối với các đơn vị nợ bảo hiểm xã hội chưa đủ mạnh; chưa có biện pháp thu hồi hiệu quả. Trong khi đó, lực lượng thanh tra lao động còn mỏng, bình quân mỗi tỉnh chỉ có 4- 5 cán bộ thanh tra lao động. Do vậy, vậy việc kiểm tra, thanh tra nhằm đôn đốc, giải quyết những vướng mắc về thực hiện các chế độ đối với người lao động gặp nhiều khó khăn.
Trong hai năm qua cả nước mới chỉ thanh, kiểm tra được 6.900 doanh nghiệp. Như thành phố Hà Nội có 72.000 doanh nghiệp và 39 đơn vị trực thuộc Sở Lao động- Thương binh- Xã hội, nhưng trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội từ năm 1999 đến nay, toàn thành phố mới phát hiện và xử phạt được 17 doanh nghiệp với số tiền phạt gần 200 triệu đồng.
Ông Đặng Ngọc Tùng, Chủ tịch Tổng liên đoạn lao động Việt Nam cho rằng: “Lực lượng thanh tra mỏng không kiểm tra, theo dõi được các doanh nghiệp. Cả nước có hơn 300.000 doanh nghiệp, chúng ta mới kiểm tra gần 7.000 doanh nghiệp thì phải… 50 năm nữa mới kiểm tra hết được số doanh nghiệp!”
Khó khăn khách quan đối với việc thực hiện Luật bảo hiểm xã hội là việc ban hành một số văn bản để thực hiện Luật chưa đảm bảo thời gian, một số quy định chưa rõ, thiếu hướng dẫn cụ thể. Đáng lưu ý là chế tài xử lý vi phạm bảo hiểm xã hội có nhiều nhưng trong đó có một nội dung xử lý vi phạm mà Luật Bảo hiểm xã hội đã quy định lại không thực thi được. Đó là, tại khoản 2, Điều 138- Xử lý vi phạm, Luật Bảo hiểm xã hội quy định: Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nhưng trong Bộ Luật Hình sự lại không quy định các tội danh về bảo hiểm xã hội, nên cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp muốn khởi tố cũng không thực hiện được.
Ông Huỳnh Thành Lập, Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh cho rằng: “Các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội còn bất cập. Chúng ta thiếu một số quy định pháp luật để xử lý”. Để thực hiện tốt Luật Bảo hiểm xã hội, nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta phải thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy hơn nữa vài trò của các tổ chức đại diện quyền lợi cho người lao động; tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm xã hội.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 28/4/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.