Trong buổi sáng ngày 13/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I. Thông tin về những sự kiện nổi bật của đất nước:
1. Báo Đất Việt phản ánh: Ủy ban Quốc gia về ASEAN 2010 họp phiên đầu tiên. Ngày 8/7, tại Hà Nội, Ủy ban Quốc gia (UBQG) về ASEAN 2010 đã họp phiên đầu tiên, thống nhất các công tác cần khẩn trương triển khai từ nay đến cuối năm 2009, sẵn sàng cho Việt Nam đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN vào đầu năm 2010.
Theo quy định của Hiến chương ASEAN và quy chế luân phiên trong ASEAN, Việt Nam sẽ đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN từ ngày 1/1/2010 đến hết tháng 12/2010. Trong thời gian này, Việt Nam sẽ chủ trì và đăng cai tổ chức nhiều hội nghị quan trọng của ASEAN và liên quan. Đó là hai Hội nghị Cấp cao ASEAN, các Hội nghị Cấp cao giữa ASEAN với các bên đối thoại (ASEAN + 1, ASEAN + 3, cấp cao Đông Á), gần 10 cuộc Hội nghị cấp Bộ trưởng của 4 Hội đồng ASEAN (Hội đồng Điều phối và 3 Hội đồng Cộng đồng về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội) và nhiều Hội nghị cấp Thứ trưởng hoặc tương đương.
UBQG xác định trọng tâm trong nhiệm kỳ làm Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ thể hiện rõ vai trò chủ động trong thúc đẩy liên kết khu vực, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Đồng thời phát huy vai trò tích cực của ASEAN đối với hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Ủy ban Quốc gia (UBQG) về chuẩn bị và thực hiện vai trò Chủ tịch ASEAN 2010 của Việt Nam được thành lập ngày 16/6/2009 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm làm Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch là Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng và Bộ trưởng Bộ Lao động Thương Binh Xã Hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Báo cũng có bài: “Tổng Bí thư tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc”. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tiếp thân mật Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc do ông Lý Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trung Quốc làm trưởng đoàn thăm và làm việc tại Việt Nam vào chiều qua (12/7/2009).
Tại buổi tiếp, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đánh giá cao và chúc mừng những thành tựu to lớn mà nhân dân Trung Quốc đã đạt được. Tổng bí thư cảm ơn sự giúp đỡ to lớn mà Đảng, nhân dân Trung Quốc đã và đang dành cho Việt Nam; đồng thời đánh giá cao sự hợp tác, giúp đỡ và trao đổi kinh nghiệm trong công tác đào tạo cán bộ và công tác xây dựng Đảng giữa các ban ngành hữu quan của hai bên. Trong cuộc tiếp đoàn, Tổng bí thư khẳng định, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một, luôn coi trọng và sẽ làm hết sức mình để gìn giữ và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai Đảng hai nước và nhân dân hai nước.
II. Những thông tin liên quan đến công tác tư pháp:
1. Báo Công an nhân dân phản ánh: Liên quan đến vụ "gom sổ đỏ": Dấu hiệu bất thường từ công chứng viên. Theo bài báo, Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân trong việc công chứng ủy quyền, các đối tượng Nguyễn Thu Hợp và Phạm Tuấn Anh đã soạn thảo bản công chứng mẫu với một số điều khoản nhằm "bẫy" chủ sở hữu, từ đó sử dụng "sổ đỏ" của họ mang đi thế chấp hoặc bán cho người khác lấy tiền đút túi. Trong vụ này còn có dấu hiệu bất thường của công chứng viên trong quá trình thực hiện công chứng một loạt hợp đồng ủy quyền.
Ủy quyền "sổ đỏ" vay vốn, bị bán mất nhà
Tháng 7/2008, vợ chồng ông Trần Văn Mạnh và bà Nguyễn Thị Nương ở 108 B16 tập thể Công ty May 10, thị trấn Sài Đồng, Gia Lâm tá hỏa khi bỗng nhiên bị bà Nguyễn Thị Hỷ ở tổ 19 Ngọc Lâm, Long Biên đến đòi nhà. Bà Hỷ đưa ra một bản hợp đồng chuyển nhượng ngôi nhà của vợ chồng ông Mạnh, bà Nương được ký giữa chị Phạm Thị Vân Anh (con gái bà Hỷ) với Nguyễn Thu Hợp ở số 2 dốc Tam Đa với giá 1,1 tỷ đồng. Đến lúc này, bà Nương mới ngã ngửa vì Nguyễn Thu Hợp là người đã nhận "sổ đỏ" của vợ chồng bà để làm thủ tục vay vốn ngân hàng.
Sự việc bắt đầu từ tháng 4/2008, do có nhu cầu vay 350 triệu đồng đầu tư trang trại, qua người quen, bà Nương đã đến gặp Nguyễn Thị Hồng Hạnh - Giám đốc Công ty Tư vấn môi giới dịch vụ vay vốn ngân hàng tại phố Nguyễn Trường Tộ nhờ vay vốn ngân hàng. Hạnh đồng ý và thỏa thuận bà Nương trích hoa hồng tương đương 5% số vốn được vay.
Theo hướng dẫn, sáng 21/5/2008, bà Nương đến nhà Hạnh tại phố Ngọc Hà để ký hợp đồng và gặp Hợp cùng một người đàn ông đợi sẵn, sau đó họ đưa bà Nương đến Phòng công chứng số 5 làm thủ tục ủy quyền.
Tại đây, Hợp bảo bà Nương đợi để Hợp đi giao dịch với công chứng viên. Lúc này đã là giờ nghỉ trưa, Hợp đưa cho bà Nương bản hợp đồng ủy quyền công chứng nhưng không cho đọc nội dung với lý do không có thời gian, cần phải làm nhanh không công chứng viên đi về.
Tại CQĐT, bà Nương cho biết thực tế không biết thủ tục công chứng ra sao nên cũng không yêu cầu Hợp đưa lại 1 bản ủy quyền công chứng và đã bỏ trống phần nội dung yêu cầu ủy quyền. Đáng chú ý, trong vụ làm hợp đồng ủy quyền này, do chồng bà Nương đi công tác vắng, Hợp đã thuê anh Nguyễn Toàn, trú tại tập thể Trung Tự "đóng thế" là chồng bà Nương để ký vào hợp đồng ủy quyền công chứng.
Biết Phòng công chứng ngoài việc cho các bên tham gia ký ủy quyền còn cho điểm chỉ vào bản hợp đồng nên Hợp đã photocopy mặt trước CMND của ông Trần Văn Mạnh (chồng bà Nương) và mặt sau CMND của anh Toàn ghép thành CMND của ông Mạnh để đưa vào hồ sơ công chứng. Với việc "giúp đỡ" này, Toàn được trả công 1 triệu đồng. Tuy nhiên, đến tháng 6/2008, không thấy Hợp đưa tiền, bà Nương cùng chồng đến hỏi, Hợp nói đang làm thủ tục, hứa vài ngày sau sẽ đưa đủ 350 triệu. Tuy nhiên đến hẹn, Hợp không đưa tiền và cũng không trả lại "sổ đỏ". Sau khi biết rõ sự việc, bà Hỷ và con gái vội đến gặp Hợp đòi lại tiền mua nhà nhưng Hợp tìm cách khất lần...
Ông Lê Văn Minh ở ngách 180/84 Nguyễn Lương Bằng; chị Phạm Thị Thanh Hà ở Bắc Cầu 2, phường Ngọc Thụy, Long Biên; chị Nguyễn Thu Hằng ở Yên Sở, Hoàng Mai, Hà Nội, sau khi được Tuấn Anh và Hợp đưa đi làm thủ tục công chứng ủy quyền để vay vốn ngân hàng, đã sử dụng hợp đồng ủy quyền đó và "sổ đỏ" của họ để chuyển nhượng cho ông Đào Duy Hưởng ở tổ 44 Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy lấy 3,9 tỷ đồng. Như vậy, tổng số tiền mà Hợp và Tuấn Anh đã chiếm đoạt thông qua việc bán 4 ngôi nhà của 4 người nhờ vay vốn ngân hàng trên là 5 tỷ đồng.
Những dấu hiệu bất thường
Tìm hiểu các bản hợp đồng ủy quyền trên cho thấy những người bị hại đã bị Nguyễn Thu Hợp và Phạm Tuấn Anh "bẫy" ở những điều khoản được ghi trong hợp đồng. Cụ thể, tại khoản 2 của Điều 1 - Phạm vi ủy quyền có nêu: "Bằng hợp đồng này, bên A ủy quyền cho bên B, để bên B được thay mặt bên A dùng toàn bộ tài sản nêu trên đem chuyển nhượng, thế chấp hoặc thế chấp cho bên thứ ba theo quy định của pháp luật, để làm thủ tục vay vốn của ngân hàng và các cơ quan tổ chức tín dụng". Rõ ràng, trong điều khoản này, các đối tượng đã cố ý "cài" thêm chữ "chuyển nhượng" với ý đồ riêng. Những người bị hại cho biết, thủ đoạn của các đối tượng là hẹn đi công chứng vào buổi trưa, nại ra các lý do thu xếp gặp công chứng viên rất khó để ép chủ sổ đỏ ký thật nhanh vào bản ủy quyền mà họ chưa kịp đọc kỹ. Mặt khác, khi đến phòng công chứng, Nguyễn Thu Hợp và Phạm Tuấn Anh trực tiếp gặp công chứng viên để "làm việc". Khi ký hợp đồng ủy quyền, công chứng viên không giải thích rõ ràng về nội dung ủy quyền và không hướng dẫn cho họ hiểu biết về thủ tục ký công chứng ủy quyền mà việc hướng dẫn này lại do Tuấn Anh và Hợp thực hiện. Đặc biệt, khi cho viết nội dung yêu cầu công chứng, công chứng viên đã không hướng dẫn chủ sở hữu viết rõ nội dung yêu cầu mà chỉ viết chung chung là yêu cầu công chứng hợp đồng ủy quyền.
Qua xem xét các bản ủy quyền mà cơ quan điều tra đang thu giữ, điều bất thường là những bản ủy quyền này được lập phần lớn tại Phòng công chứng số 5, do công chứng viên Hoàng Văn Sự ký. Trong thời gian 2007, 2008, công chứng viên này đã ký tới 12 hợp đồng của các chủ sở hữu ủy quyền cho Hợp có nội dung giống nhau, chỉ thay đổi tên, địa chỉ của chủ sở hữu. Có trường hợp chủ sở hữu viết yêu cầu công chứng là ủy quyền vay vốn ngân hàng nhưng trong hợp đồng lại bao gồm nội dung chuyển nhượng, thế chấp vay tiền. Nghiêm trọng hơn, như trường hợp của bà Nương, công chứng viên Hoàng Văn Sự đã đồng ý cho Hợp sử dụng CMND photo dẫn đến việc Hợp dùng CMND giả và thuê người đóng giả chồng bà Nương để ký hợp đồng.
Cơ quan Công an cũng đang tiếp tục xác minh làm rõ 16 "sổ đỏ" mà Nguyễn Thu Hợp và Phạm Tuấn Anh đã sử dụng để thế chấp vay trên 14,6 tỷ đồng của các cá nhân nhưng không đưa cho chủ sở hữu và 38 "sổ đỏ" khác chưa xác định được 2 đối tượng này đã sử dụng thế nào. Qua tường trình của những người bị hại cho thấy để "gặp" được 2 đối tượng này, người dân có nhu cầu vay vốn ngân hàng đã được một số đối tượng khác dẫn dắt, hình thành nên đường dây "tín dụng đen" chuyên nhận "sổ đỏ" để thế chấp vay tiền. Được biết hiện Nguyễn Thu Hợp đang có thai nên cơ quan điều tra không áp dụng biện pháp tạm giam mà ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Còn Phạm Tuấn Anh đã bỏ trốn, cơ quan điều tra yêu cầu sớm đầu thú để được hưởng khoan hồng.
2. Báo điện tử Tin 247 phản ánh: Một bản án có hiệu lực không được thi hành. Một bản án dân sự đã có hiệu lực sau 2 lần xét xử, bị đơn liên tục gửi đơn khiếu nại nhưng bị cơ quan tư pháp các cấp bác bỏ. Thế nhưng, sau hơn 1 năm, bản án vẫn không được thi hành.
Bà Chu Thị Lân, 81 tuổi ở số nhà 30, Hàng Mã cùng với con cháu đã có đơn “xin cứu giúp khẩn cấp” gửi đến VietNamNet về việc sau nhiều lần đi “hầu tòa” đã đòi được nhà. Tuy nhiên, đã hơn 1 năm trôi qua, bản án vẫn không được thực thi. Nay gia đình bà có thể lại phải tiếp tục "hầu tòa" từ cấp sở thẩm để đòi lại nhà.
Thuê nhà rồi muốn sở hữu luôn (?)
Nguyên gốc ngôi nhà số 30 Hàng Mã (Quận Hoàn Kiếm) được xác nhận tại Công văn (CV) số 2771 của Sở TNMT & Nhà đất Hà Nội: “thuộc bằng khoán điền thổ số 1005, khu Đồng Xuân, nằm trên thửa đất số 376, bản đồ số 10 chữ A năm 1942 đứng tên ông Chu Tuấn Đức và bà Phạm Thị Ân” (bố mẹ của bà Chu Thị Lân).
Năm 1953, ông Đức cho một người thuê tầng 1 để mở hàng in, sau đó cửa hàng in này sát nhập với xưởng in Hoàn Cầu. Đến năm 1962, xưởng in Hoàn Cầu nhập lại với xưởng in Kim Sơn thành Liên xưởng in Kim Sơn (sau này là Công ty in Thống Nhất).
Thời gian đó, giữa gia đình cụ Đức, cụ Phạm Hải Kình và Liên xưởng in Kim Sơn đã có thỏa thuận bằng văn bản là xưởng in sẽ dùng nhà cụ Kình đang ở tại số 10, Ngõ Huyện (thuê của nhà nước) để mở rộng sản xuất, cụ Kình sẽ đến ở căn buồng ngoài tầng dưới ở nhà 30 - Hàng Mã. Hàng tháng, cụ Kình phải có trách nhiệm trả tiền thuê nhà cho Đức.
Tháng 6/1962, gia đình cụ Kình chính thức chuyển lên thuê 24m2 ở số nhà 30 Hàng Mã của cụ Chu Tuấn Đức để ở. Đến đầu năm 1982 thì công ty in này không trả tiền thuê nhà cho cụ Đức nữa, lý do là vì ông Kình không chịu thanh toán tiền cho công ty (trước đó giữa 3 bên đã có thỏa thuận năm 1962 về nhà ở và hoán đổi thanh toán cho nhau).
Gia đình cụ Kình và con cháu của ông sống trong nhà 30 Hàng Mã cho đến tận bây giờ.
Với lý do đòi lại nhà của cha ông để lại cùng với việc cụ Phạm Hải Kình và con cháu ông không thanh toán tiền thuê nhà trong 27 năm (từ 1982 đến 2009), thừa kế của cụ Phạm Xuân Đức (bà Chu Thị Lân cùng con cháu) đã quyết định khởi kiện để đòi lại nhà.
Hai bản án có hiệu lực không được thi hành
Tháng 10/2007, TAND quận Hoàn Kiếm đã tiến hành xét xử vụ án “đòi lại nhà cho thuê”.Nguyên đơn là những người thừa kế của ông Chu Tuấn Đức là có bà Chu Thị Lân cùng với con cháu. Bị đơn là những con cháu của ông Phạm Văn Kình hiện đang ở chung trong số nhà 30 Hàng Mã gồm có ông Phạm Văn Hùng, bà Phạm Thị Yến.
Sau khi xem xét hồ sơ vụ án, các căn từ Sở TNMT & Nhà đất Hà Nội và những văn bản liên quan trong quá khứ, TAND quận Hoàn Kiếm đã có kết luận: “Số nhà 30 Hàng Mã thuộc sở hữu của 2 cụ Chu Tuấn Đức và Phạm Thị Ân; Tòa chấp nhận đơn đòi nhà của các thừa kế cụ Đức và Ân”.
Tòa cũng buộc Công ty in Thống Nhất cùng gia đình ông Hùng, bà Yên phải trả lại phần đang sử dụng tại buồng mặt đường ở 30 Hàng Mã và toàn bộ phần phụ đang sử dụng tại nhà trên cho các thừa kế cụ Đức và Ân. Vụ án tiếp tục được xử ở cấp phúc thẩm thành phố vào 1/2008. Tòa dân sự TP Hà Nội vẫn giữ nguyên án như sơ thẩm đã tuyên. Dù vậy, do phía gia đình bị đơn là con cháu của cụ Phạm Xuân Kình liên tục viết đơn gửi các cơ quan chức năng đòi xem lại bản án nên bản án vẫn không được thực thi.
Ngày 37/3/2008, Viện KSND tối cao có yêu cầu hoãn thi hành án vụ án dân sự “đòi lại nhà cho thuê” ở 30 Hàng Mã trong vòng 90 ngày “để có thời gian xem xét hồ sơ vụ kiện theo thủ tục giám đốc thẩm".
Hết thời hạn 90 ngày, những người thừa kế của cụ Phạm Văn Kình không đưa ra được căn cứ chứng minh cho việc sở hữu ngôi nhà ở 30 Hàng Mã của họ. Ngày 3/7/2008, Thi hành án quận Hoàn Kiếm lại thực hiện việc thi hành bản án như phiên tòa phúc thẩm đã tuyên.
Trong thời gian có quyết định thi hành án lần 2, những người thừa kế của cụ Kình là ông Phạm Văn Hùng, Phạm Thị Yến lại tiếp tục làm đơn gửi đến Viện KSND tối cao, Văn phòng Chính phủ (VPCP) để khiếu nại. Để xem xét lại vụ án một lần nữa cho khách quan, ngày 31/10/2008, UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo Sở Tư pháp cùng các cơ quan chức năng xem xét để gải quyết khiếu nại của con cháu cụ Kình.
Kết quả xác minh lần này của các cơ quan chức năng của TP Hà Nội cũng cho kết luận: “Bản án dân sự phúc thẩm đang có hiệu lực pháp luật và có đủ điều kiện để thi hành”. Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp cũng đã bác bỏ những khiếu nại của ông Hùng và bà Yến.
Phải xét xử lại từ cấp sơ thẩm (?!)
Sau 2 bản án, nhiều quyết định thi hành án, các cơ quan chức năng tư pháp các cấp đều công nhận sự đúng đắn của bản án và yêu cầu thực thi theo đúng pháp luật nhưng việc thi hành án vẫn tiếp tục không thực thi được.
Ngày 6/3/2009, khi bản án chuẩn bị được thi hành thì các cơ quan thực thi án Hà Nội nhận được CV số 1432 của VPCP “đề nghị Chánh án TAND tối cao chỉ đạo xem xét, xử lý khiếu nại tố cáo của gia đình bà Phạm Thị Yến đối với bản án phúc thẩm ngày 22/1/2008 của TAND TP Hà Nội”. Ngay sau đó, Chánh án TAND tối cao đã có kháng nghị, yêu cầu hoãn thi hành án đối với vụ kiện đòi nhà cho thuê tại 30 Hàng Mã, yêu cầu xét xử lại, hủy 2 bản án trước đó.
“Giao hồ sơ vụ án cho TAND quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật” - Quyết định kháng nghị nói rõ.
Sau sự việc này, bà Lân và người nhà lại tiếp tục mang đơn và hồ sơ gửi các cơ quan chức năng và báo chí, phản ánh việc gia đình bà không đồng tình với kháng nghị của TAND tối cao.Chị Chu Cẩm Thúy - người được ủy quyền cho bà Chu Thị Lân cho biết: “Những căn cứ mà kháng nghị của TAND tối cao đưa ra để hoãn việc thi hành án là không có căn cứ. Ngôi nhà này là của tư nhân mà cụ thể là của cụ Chu Tuấn Đức, có hồ sơ gốc, không phải là công ty hợp danh”. “Tôi không hiểu vì sao một bản án như vậy lại không được thực hiện và có thể có sự can thiệp của ai đó(?). Không biết sẽ bị can thiệp đến bao giờ và không biết đến bao giờ gia đình tôi mới lấy lại được nhà của mình” - chị Thúy buồn rầu nói.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: “Không dễ xử lý hình sự sai phạm chứng khoán”. Luật không rõ ràng sẽ dẫn đến hai khả năng: bỏ lọt người, lọt tội do không đủ căn cứ chứng minh phạm tội hoặc hình sự hóa các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán.
Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ Luật Hình sự sẽ có hiệu lực từ ngày 1-1-2010, trong đó bổ sung 3 tội danh trong lĩnh vực chứng khoán. Đó là tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán và thao túng giá chứng khoán.
Phạt tù, cấm tham gia thị trường
Trong thực tế, xử phạt về vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán gần đây tăng đột biến. Đã có thời điểm thị trường tăng nóng, chỉ trong hai ngày, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (CKNN) đã ban hành 10 quyết định xử phạt đối với 10 trường hợp. Tính riêng 6 tháng đầu năm nay, Ủy ban CKNN đã xử phạt vi phạm hành chính đối với 26 tổ chức tham gia thị trường (tổ chức phát hành, niêm yết, công ty chứng khoán) và 14 cá nhân. Tính riêng trong tháng 6, đã có 15 tổ chức, cá nhân bị xử phạt với mức phạt tiền từ 10 triệu đến 70 triệu đồng. Vi phạm phổ biến là phát hành chứng khoán, chào bán ra công chúng không đăng ký, báo cáo với Ủy ban CKNN. Các hành vi khác như thao túng, gian lận giá... có số lượng vi phạm ít hơn nhưng lại có tác động rất xấu đến thị trường. Theo ghi nhận của giới chuyên gia, vi phạm trong giao dịch chứng khoán đã ở trong tình trạng lờn thuốc vì mức độ xử phạt quá nhẹ.
Trưởng Ban Pháp chế Ủy ban CKNN, ông Hoàng Đức Long, nhận xét việc bổ sung các hành vi vi phạm nói trên trong lĩnh vực chứng khoán vào Bộ Luật Hình sự sẽ có tác dụng ngăn chặn các vi phạm trong thị trường chứng khoán. Bởi vì trước đây, mức xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 36/CP cao nhất là 70 triệu đồng. Còn khi áp dụng Bộ Luật Hình sự, các vi phạm liên quan đến tạo cung - cầu giả, thao túng giá, sử dụng thông tin nội gián có thể bị khởi tố hình sự. Theo đó, tổ chức, cá nhân vi phạm có thể bị phạt tù từ 1 đến 2 năm và bị cấm tham gia thị trường trong 5 năm tiếp theo.
Xác định rõ tính chất, thẩm quyền
Mới đây, liên bộ Tài chính – Công an đã có Thông tư liên tịch số 46/2009 hướng dẫn phối hợp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán. Trong đó quy định trong quá trình thanh tra hoặc xử lý vi phạm pháp luật, nếu phát hiện tổ chức, cá nhân có dấu hiệu tội phạm, Ủy ban CKNN phải chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra có thẩm quyền đề nghị khởi tố. Đồng thời nêu rõ: Cơ quan có thẩm quyền phải xác định rõ tính chất vụ việc là dân sự, kinh tế, hành chính hay hình sự để xác định đúng thẩm quyền, áp dụng đúng quy định của pháp luật, tránh gây thiệt hại cho nhà đầu tư tham gia thị trường.
Tuy nhiên, theo một chuyên gia trong lĩnh vực chứng khoán, các điều khoản liên quan đến tội danh chứng khoán trong Bộ Luật Hình sự còn khá chung chung, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Chưa kể đến các hành vi rất khó chứng minh như làm giá, thao túng thị trường (trường hợp của ông Trương Đình Khởi bị xử phạt tháng 5-2008, Ủy ban CKNN đã phải cử các chuyên viên theo dõi liên tục 4 tuần), đối với vi phạm phổ biến nhất là liên quan đến công bố thông tin cũng khó áp dụng. Vì luật chỉ ghi là “cố ý công bố thông tin sai lệch”, còn bằng chứng như thế nào thì không nói rõ nên có thể có các cách hiểu không thống nhất.
Theo một số chuyên gia, luật không chi tiết, rõ ràng sẽ dẫn đến hai khả năng: bỏ lọt người, lọt tội do không đủ căn cứ chứng minh phạm tội hoặc hình sự hóa các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Trong trường hợp thứ nhất, luật khó được áp dụng trong cuộc sống và vì thế sẽ không có tác dụng răn đe, ngăn ngừa vi phạm. Còn trong trường hợp thứ hai, ranh giới giữa vi phạm hành chính và hình sự rất mong manh làm nản lòng nhà đầu tư khiến tâm lý thị trường không yên.
4. Báo Đất Việt phản ánh: “Giám đốc Sở Tư pháp giả chữ ký của gần 30 người”. Gần đây, các cơ quan chức năng tỉnh Bình Thuận phát hiện một vài cán bộ có chức, quyền ở tỉnh này đã giả chữ ký nhằm trục lợi.
Đáng nói, dẫn đầu trong số này lại là cán bộ lãnh đạo ngành tư pháp từ thành phố Phan Thiết đến Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận.
Nhận hàng tỷ đồng tiền đền bù “nhờ” chữ ký giả.
Báo Đất Việt từng phản ảnh các cơ quan chức năng tỉnh Bình Thuận vừa có kết luận ban đầu về việc ba cán bộ của thành phố Phan Thiết là Phó phòng Tư pháp, Phó chánh thanh tra và cán bộ “một cửa” Văn phòng UBND thành phố Phan Thiết giả chữ ký để trục lợi.
Theo kết luận này, biết tuyến đường du lịch 706B nối phường Phú Hài với phường Mũi Né (thành phố Phan Thiết) sẽ được thi công vào năm 2007, bà Nguyễn Phương Thảo, cán bộ phụ trách bộ phận “một cửa” thuộc Văn phòng UBND TP Phan Thiết cùng với bà Lê Thị Phương Anh, Phó phòng Tư pháp thành phố Phan Thiết (bà Phương Anh là vợ ông Trần Văn Xê, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận), mua 58.937 m2 đất vào năm 2005 ở xã Thiện Nghiệp, nơi có đường 706B đi qua.
Đất không hợp pháp, nhưng để được đền bù giá cao, bà Thảo đã giả chữ ký của chồng là ông Lê Xuân Thọ, cùng bà Phương Anh làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Khi hồ sơ đề nghị cấp sổ đỏ chuyển lên TP Phan Thiết, bà Thảo, phụ trách “một cửa”, tiếp nhận hồ sơ. Sau đó, bà Thảo tiếp tục thông đồng với bà Phương Anh và chồng mình làm giấy mua bán đất giả, rồi giả chữ ký của người bán đất, ghi lùi thời điểm mua đất đến hai năm để được cấp sổ đỏ cho diện tích đất nói trên.
Tháng 6/2008, ông Thọ, bà Phương Anh nhận của Nhà nước gần 2,2 tỷ đồng tiền đền bù 42.056 m2 đất, trong tổng diện tích đất trên để thi công đường 706B. Cũng trong năm 2005, bà Thảo đã giả chữ ký của ông Thọ, và bà Mai Thị Thu Cúc, Phó chánh Thanh tra thành phố Phan Thiết, giả chữ ký của hai người dân trong giấy chuyển nhượng gần 6.000 m2 đất ở phường Hàm Tiến. Sau đó, bà Thảo, bà Cúc giả chữ ký và tên của cả người mua lẫn người bán đất để xin TP Phan Thiết cấp sổ đỏ. Số đất trên đang chuẩn bị nhận tiền đền bù thì bị các cơ quan chức năng phát hiện.
Ngoài ra, còn có ba giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khác mà TP Phan Thiết đã cấp cho ông Lê Xuân Thọ, với tổng diện tích gần 35.000 m2, đều ở các phường có đường 706B đi qua.
Số đất trên cũng do bà Nguyễn Phương Thảo làm hồ sơ giả, rồi giả chữ ký của ông Lê Xuân Thọ làm đơn xin thành phố Phan Thiết cấp sổ đỏ. Không dừng lại ở đó, bà Thảo còn lợi dụng vị trí công tác “thuận lợi” của mình, ký giả nhiều hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người thân.
Giám đốc Sở Tư pháp giả chữ ký của gần 30 người
Là Giám đốc Sở Tư pháp, từng là ủy viên Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng tỉnh Bình Thuận, nhưng ông Trần Văn Xê lại làm rất nhiều chuyện trái pháp luật, vi phạm đạo đức cán bộ, công chức. Đó là việc ông giả chữ ký của gần 30 người, ký giả 17 loại giấy tờ, hồ sơ, khiến dư luận hết sức bất bình.
Trong hai năm 2005, 2006, ông Trần Văn Xê mua gom 27,66 ha đất ở xã Hàm Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Đất này trước đây Nhà nước giao cho một số hộ dân trồng mía cung ứng nguyên liệu cho Nhà máy đường Hàm Thuận Bắc, nên không được cấp sổ đỏ.
Để hợp thức hóa, ông Xê làm 12 giấy sang nhượng đất, rồi giả chữ ký của 12 người. Sau đó, ông lại giả chữ ký của bốn người nhận sang nhượng, trong đó có ba người là họ hàng với mình, còn một người ở tận TP HCM, là bà Lê Tấn Thị Việt Thanh, Giám đốc Công ty TNHH Bảo Thanh. Sau khi làm giấy tờ giả và giả chữ ký, ông Xê ghi lùi thời gian chuyển nhượng đất để lách Luật Đất đai.
Đến năm 2007, ông Xê được huyện Hàm Thuận Bắc cấp 5 sổ đỏ cho 27,66 ha đất nói trên. Có sổ đỏ, ông Xê làm tiếp 3 giấy chuyển nhượng, mà người bán là ba người họ hàng ông đã giả chữ ký xin sổ đỏ trước đó, để bán 17,66 ha đất cho bà Việt Thanh. Điều đáng chú ý là chữ ký bán đất của ba người trên và chữ ký mua đất của bà Việt Thanh, đều do ông giả mạo! Ngoài ra, ông Xê còn giả chữ ký người khác để mua bán đất đai, nhà cửa khác ở Tthành phố Phan Thiết.
Chưa dừng lại ở đó, ông Xê còn làm hồ sơ giả để thành lập Công ty Thanh Thảo. Năm 2005, ông Xê mở cây xăng Thanh Thảo ở xã Hàm Chính - Hàm Thuận Bắc. Chủ cây xăng là ông Trần Văn Bê, anh trai ông Xê. Mọi thủ tục, quyền hành, vốn liếng cũng như ký tất cả các chứng từ, hóa đơn, hợp đồng mua xăng… đều do ông Xê làm và giả chữ ký của ông Bê, còn ông Bê chỉ là một nông dân… trồng thanh long.
Tiếp đó, tháng 8/2006, ông Xê thành lập Công ty TNHH Thanh Thảo với sự góp vốn của ông Huỳnh Lê Hữu và bà Lê Tấn Thị Việt Thanh. Tuy nhiên, bà Thanh và ông Hữu đều xác định họ không liên quan gì đến công ty này.
Đến năm 2007, ông Xê xin huyện Hàm Thuận Bắc cấp cho cho Công ty Thanh Thảo 48 ha đất để đầu tư dự án chăn nuôi gia súc và mua bán thanh long. Dự án không được chấp thuận nên ông tiếp tục giả chữ ký của bà Thanh, ông Hữu giải thể Công ty Thanh Thảo!
Không chỉ giả chữ ký để mua bán đất, lập doanh nghiệp, ông Xê còn giả chữ ký của nhiều người khác để thế chấp tài sản, bảo lãnh vay vốn… Những hồ sơ bảo lãnh này được cấp dưới của ông chứng thực khống, mà người bị ông giả chữ ký, khi phát hiện chỉ biết…kêu trời.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 13/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ./.