Trong buổi sáng ngày 23/6/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký Chỉ thị số 854/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Kết luận số 45-KL/TƯ của Bộ Chính trị trong việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước và bổ sung chính sách chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Thủ tướng chỉ thị, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc CP, UBND tỉnh, thành, Hội đồng quản trị các tập đoàn kinh tế, TCT 91 xây dựng đề án điều chỉnh tiến độ thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Bảo đảm đến thời điểm ngày 1-7-2010 tất cả các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện có đều chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. Trong khi chưa sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai, khi quyết định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa phải tính giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp (bao gồm cả lợi thế về vị trí địa lý, giá trị thương hiệu và tiềm năng phát triển).
Thủ tướng cũng chỉ rõ, UBND các tỉnh, thành rà soát lại việc sử dụng đất của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa trên địa bàn, chấn chỉnh ngay các trường hợp vi phạm, thay đổi mục đích sử dụng đất khi không được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền, lấn chiếm đất đai, bỏ hoang, không đưa đất vào sử dụng theo mục đích đã đăng ký.
2. Báo Công an nhân dân phản ánh: Chiều 22/6, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo (BCĐ) Trung ương (TW) Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đã tổ chức Hội nghị giao ban cụm các cơ quan TW về việc triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Cuộc vận động, do đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TW Đảng, Phó trưởng BCĐ TW Cuộc vận động, Trưởng Ban Tuyên giáo TW chủ trì.
Phát biểu tổng kết, đồng chí Tô Huy Rứa kết luận: các đơn vị đã nêu được nhiều cách làm hay, để xuất với BCĐ TW nhiều vấn đề; tinh thần ý thức trách nhiệm ngày càng cao; việc chuẩn bị chu đáo. Cuộc vận động đã được tiến hành sâu rộng, có chất lượng, là cơ sở để nhận thức được nâng lên, không chỉ đảng viên mà cả phạm nhân cũng được học tập có kết quả. Các kiến nghị đưa ra đều xác đáng. Cuộc vận động vừa có tính cấp thiết trước mắt, lại căn bản lâu dài đối với sự nghiệp của nước ta. Cùng với học tập, các cơ quan, đơn vị phải hướng tới việc hành động, làm theo và phát hiện những tấm gương điển hình để nhân rộng. Thời gian tới đây, các đơn vị tiếp tục rút kinh nghiệm, những gì hay thì phát huy, khen thưởng và những gì chưa tốt phải được nhắc nhở.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Hôm qua (22-6), Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM ra quyết định xóa tên ông Lê Công Định khỏi danh sách luật sư của đoàn. Quyết định nêu rõ: Ông Lê Công Định có hành vi vi phạm pháp luật, đã bị khỏi tố và bắt tạm giam; đây là hành vi vi phạm Luật Luật sư, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư... Phó Chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM Nguyễn Văn Trung cho biết Đoàn luật sư TP.HCM sẽ chuyển quyết định này đến ông Định. Được biết, việc xóa tên khỏi danh sách luật sư là hình thức kỷ luật cao nhất của đoàn luật sư đối với luật sư thành viên.
Theo cơ quan điều tra, ông Lê Công Định có hành vi câu kết với các thế lực thù địch chống nhà nước và đã bị khởi tố về tội tuyên truyền chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 88 Bộ luật Hình sự.
2. Báo Tuổi trẻ có bài “Trẻ lai Đài Loan không được làm khai sinh”. Bài báo phản ánh: Cùng là trẻ lai Đài Loan nhưng có em được làm giấy khai sinh, có em không vì chính quyền mỗi nơi xử lý mỗi khác.
Bà N.T.M. sinh năm 1978, trước đây thường trú tại xã M, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Bà lấy chồng Đài Loan, sang định cư ở Đài Loan và đã cắt hộ khẩu ngày 28-6-2005. Ngày 15-5-2006 bà M. được cấp hộ chiếu và mang quốc tịch nước ngoài. Theo bà M., do người chồng Đài Loan thường xuyên nhậu nhẹt không lo làm ăn và cuộc sống ở Đài Loan quá khó khăn nên bà đã trở về VN cùng với con gái tên H.W.H. sinh ngày 29-12-2001 và định không trở lại Đài Loan. Hiện bà M. và con đang ở cùng nhà với cha mẹ ruột. Bà M. đã đăng ký nhập hộ khẩu thường trú và được cấp chứng minh nhân dân (CMND).
Ngày 12-5-2009 bà M. liên hệ Sở Tư pháp Đồng Tháp để yêu cầu cấp khai sinh cho con bà. Bà xuất trình các giấy tờ tùy thân “ngoại” (hộ chiếu của bà với con do nước ngoài cấp) và các giấy tờ “nội” khác (CMND, hộ khẩu) làm cán bộ tiếp nhận hồ sơ của Sở Tư pháp “bối rối” không biết nhận hay không nhận hồ sơ, vì nhận cũng không sao mà từ chối thì cũng đúng.
Thông tư số 01/2008/TT-BTP hướng dẫn nghị định 158 về đăng ký và quản lý hộ tịch có quy định: “...Trường hợp trẻ em sinh ra ở nước ngoài mà chưa được đăng ký khai sinh ở nước ngoài cũng được đăng ký khai sinh khi:
- Trẻ em có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, còn người kia là công dân VN; cha và mẹ có đăng ký kết hôn; trẻ em về nước cư trú. Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em trong trường hợp này được thực hiện tại sở tư pháp tỉnh (thành phố), nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế...”.
Như vậy nếu bà M. vẫn còn quốc tịch VN mà mang con về nước thì hoàn toàn có quyền yêu cầu sở tư pháp cấp khai sinh cho cháu H.W.H.. Ngoài ra, nếu bà M. biết “lách” các quy định của pháp luật, chỉ xuất trình CMND, hộ khẩu thường trú hiện có của bà để chứng minh mình vẫn là công dân VN và giấu hộ chiếu nước ngoài thì sở tư pháp không thể từ chối yêu cầu của bà. Vì không ai có thể nghĩ bà có quốc tịch nước ngoài được vì có hộ khẩu, CMND. Nhưng do khi đến sở tư pháp đăng ký khai sinh cho con, bà M. xuất trình các giấy tờ nội, ngoại cùng một lúc nên cán bộ tiếp nhận hồ sơ không thể đăng ký khai sinh cho con bà được. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp như bà M. nhưng nơi nào biết (chuyện quốc tịch nước ngoài) thì không cho, nơi nào không biết vẫn cho trẻ đăng ký khai sinh.
Tình trạng trẻ em sinh ra ở Đài Loan được mẹ (đã nhập tịch nước ngoài) mang về sinh sống ở VN không còn là chuyện hiếm và đang có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Sở Tư pháp Đồng Tháp báo cáo về Bộ Tư pháp, trong năm 2008 tỉnh Đồng Tháp có 59 trẻ về Đồng Tháp sinh sống do cha mẹ đã ly hôn. Đa số trẻ này không làm khai sinh được ở VN vì cha mẹ đều có quốc tịch nước ngoài.
Tại công văn số 3023/BTP-HCTP ngày 22-9-2008, Bộ Tư pháp đã trả lời Sở Tư pháp Đồng Tháp các trường hợp giống tình cảnh của mẹ con bà M. như sau: “...Pháp luật VN hiện hành chưa có quy định về việc đăng ký khai sinh quá hạn cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài có cha, mẹ là người nước ngoài. Do cha, mẹ cháu là người nước ngoài vì đang mang hộ chiếu của nước ngoài nên không thể đăng ký khai sinh được...”.
Báo cũng có bài “Pháp luật về hộ gia đình còn bỏ ngỏ”. Bài báo phản ánh: Trong cuộc sống có rất nhiều giao dịch, quan hệ tài sản có liên quan đến hộ gia đình(HGĐ). Tuy nhiên, đã trải qua hai Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995 và 2005, quy định về HGĐ vẫn chưa được làm sáng tỏ, gây lúng túng cho cơ quan quản lý cũng như người dân.
Theo điều 106 BLDS quy định “HGĐ mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”.
Quyền tài sản của hộ gia đình, theo điều 107 BLDS quy định: “1. Chủ hộ là đại diện của HGĐ trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. 2. Giao dịch dân sự do người đại diện của HGĐ xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả HGĐ”.
Chủ hộ của HGĐ trong BLDS khác với chủ hộ trong sổ hộ khẩu (SHK) được quy định tại Luật cư trú. Chủ hộ của HGĐ có thể đồng thời hoặc không đồng thời là chủ hộ trong SHK và vì thế chủ hộ trong SHK không thể đương nhiên dùng tư cách chủ hộ của HGĐ để thực hiện các giao dịch dân sự cho cả hộ (trừ trường hợp được cả hộ ủy quyền).
Tuy nhiên trong thực tế, nếu có bất kỳ giao dịch dân sự nào liên quan đến HGĐ thì cơ quan quản lý nhà nước cũng như người dân luôn yêu cầu người đại diện phải là chủ hộ trong SHK. Thực tế trên đã và đang làm các giao dịch dân sự liên quan đến HGĐ bị hiểu và thực hiện lệch lạc so với quy định pháp luật về HGĐ. Điều 108 BLDS quy định: “Tài sản chung của HGĐ gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của HGĐ, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ”. Khoản 2, điều 109 BLDS quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của HGĐ phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý”. Bên cạnh đó, tại khoản 2, điều 110 BLDS quy định: “HGĐ chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình”.
Như thế, việc xác định tư cách thành viên HGĐ là rất quan trọng. Bởi lẽ từ đó xác định được các quyền sở hữu khối tài sản chung và nghĩa vụ liên đới phát sinh nếu có rủi ro trong giao dịch.
Xin nêu một ví dụ: gia đình ông A, có hai người con tên C và D, được UBND huyện..., TP Cần Thơ cấp 1.000m2 đất nông nghiệp cho cả hộ. Vài năm sau D lên TP.HCM học đại học và làm việc luôn. Trong thời gian này hộ ông A đã được người bà con xa tặng cho 1.000m2 đất nông nghiệp ở gần nhà. Đồng thời hộ ông A cũng có nhận chuyển nhượng thêm 1.000m2 đất thổ cư. Sau đó, C yêu cầu phân chia tài sản của hộ, lúc này phải xác định quyền của D như thế nào, có được chia tài sản không, nếu có thì những tài sản nào? Đối với 1.000m2 đất được UBND huyện cấp trong thời kỳ D vẫn đang cùng gia đình sản xuất nông nghiệp thì D vẫn có quyền nhận tài sản phân chia đối với phần đất này. Đối với 2.000m2 đất sau này là tài sản mà cả hộ được nhận tặng cho chung và nhận chuyển nhượng thì D không có quyền được phân chia, do đã không còn là thành viên HGĐ.
Có thể nhận thấy HGĐ có rất nhiều điểm tương đồng so với một doanh nghiệp về nghĩa vụ tài sản. Do đó, phải chăng cần có các biện pháp quản lý HGĐ như đối với một doanh nghiệp, cần có sổ đăng ký thành viên, đăng ký chủ hộ của HGĐ? Quản lý được danh sách, cũng như sự biến động, thay đổi của thành viên HGĐ, sẽ dễ dàng hơn trong việc xác định tư cách thành viên, cũng như giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản chung của hộ.
3. Báo An ninh Thủ đô có bài “Văn phòng công chứng tư ở Hà Nội: nơi quá nhiều, nơi không có”. Bài báo phản ánh: UBND thành phố Hà Nội vừa có quyết định cho phép thành lập thêm 3 Văn phòng công chứng (VPCC). Đó là VPCC Gia Khánh, trụ sở tại số 141 đường Hồ Tùng Mậu, huyện Từ Liêm; VPCC Hà Đông, trụ sở tại số 44 phố Trần Đăng Ninh, quận Hà Đông và VPCC Vạn Xuân, trụ sở tại số 210 phố Trần Quang Khải, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Các VPCC trên đều có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác. Như vậy, hiện tại Hà Nội có 9 phòng công chứng nhà nước và 42 VPCC tư, chủ yếu tập trung ở các quận nội thành như Đống Đa, Hoàn Kiếm, Cầu Giấy...
Trong khi nhiều quận của Hà Nội có đến gần chục VPCC, thì một số huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Ba Vì... lại không có đến một VPCC. Đây là điều bất cập, vì vậy Sở Tư pháp Hà Nội cần có sự điều chỉnh cho hợp lý.
4. Báo Công an nhân dân có bài “Yêu cầu thi hành án huyện Cần Giuộc khắc phục hậu quả”. Bài báo phản ánh: Ngày 19/6, theo tin từ Sở Tư pháp Long An, Thanh tra Bộ Tư pháp yêu cầu cơ quan THA huyện Cần Giuộc nghiêm túc kiểm điểm, khắc phục hậu quả theo kết luận thanh tra của Sở Tư pháp Long An ký ngày 2/3/2009. Thanh tra Bộ Tư pháp chỉ rút hai nội dung cưỡng chế, bán đấu giá tài sản của Trang Thanh Thủy và Trần Văn Bé Hai (xã Đông Thạnh) mà theo kết luận của Sở Tư pháp Long An có sai phạm, nghiên cứu để cho ý kiến xử lý sau.
Theo kết luận thanh tra, có dấu hiệu lạm quyền ở cơ quan THA huyện Cần Giuộc thể hiện qua nhiều trường hợp cơ quan này cố tình làm sai quy định, tùy tiện trả đơn yêu cầu thi hành án khi cho rằng người phải thi hành án không có tài sản, nhưng thực tế không phải như vậy. Đáng chú ý là từ thủ trưởng Ngô Văn Hoàng, thủ phó Lưu Văn Hùng đến CHV Nguyễn Ngọc Khiêm đều "quên" thu các khoản phí theo quy định pháp luật khi đã thi hành xong bản án. Cụ thể, ông Lưu Văn Hùng "quên" thu phí thi hành án lên đến 43,7 triệu và tỷ lệ phần trăm trên 3.552m2 đất thổ, 21.736m2 đất lúa; 18,6 triệu án phí, 2,7 triệu phí cưỡng chế. Trong đó, có hai trưởng hợp ông Hùng "quên" thu với số tiền lớn. Trường hợp thứ nhất là ông Giả Văn Ấm (xã Phước Lại) với số tiền phí thi hành án là 17,4 triệu đồng, cộng với tỷ lệ phần trăm trên diện tích 16.060 m2 đất lúa và số tiền án phí trên 18 triệu đồng. Trường hợp thứ hai là ông Nguyễn Văn Hồng (xã Phước Lại) với số tiền phí thi hành án là 17,4 triệu đồng…
Từ những sai phạm trên, đầu tháng 3/2009, Giám đốc Sở Tư pháp Long An yêu cầu cơ quan THA huyện Cần Giuộc kiểm điểm, xác định tính chất, mức độ sai phạm từng cá nhân, đề xuất hình thức kỷ luật đối với các ông Ngô Văn Hoàng, Lưu Văn Hùng, Nguyễn Ngọc Khiêm. Trong đó có yêu cầu tự mình ra quyết định hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành hủy kết quả bán đấu giá tài sản đối với vụ Trang Thanh Thủy, Trần Văn Thông và Trần Văn Bé Hai. Thế nhưng, cơ quan THA huyện Cần Giuộc đưa ra lý do chờ xin ý kiến cơ quan THA tỉnh Long An nên mới tiến hành kiểm điểm.
Còn cơ quan THA tỉnh thì xin ý kiến Cục THA và Bộ Tư pháp, chờ hồi âm mới chỉ đạo tiến hành kiểm điểm sau. Đầu tháng sáu này, Thanh tra Bộ Tư pháp vào Long An làm việc, cơ bản thống nhất những nội dung nêu trong Bản kết luận thanh tra số 145/KL-STP, yêu cầu cơ quan THA huyện Cần Giuộc phải thực hiện.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 23/6/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.