Trong buổi sáng ngày 25/6/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Phát biểu tại hội nghị Quân chính toàn quân sáu tháng đầu năm 2009 ngày 24-6 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: “Không có sự bảo đảm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thì không thể xây dựng và phát triển đất nước. Việc phát triển kinh tế-xã hội ngày càng hiệu quả là điều kiện cơ bản để đảm bảo quốc phòng an ninh, trật tự xã hội. Hai lĩnh vực này phải luôn song hành và không thể xem nhẹ lĩnh vực nào”.
Thủ tướng cho rằng Quân đội đã làm tốt chức năng tham mưu cho Đảng và nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Về nhiệm vụ sáu tháng cuối năm, Thủ tướng nói rõ: Tiếp tục làm cho toàn quân, toàn dân nhận thức đầy đủ hơn về mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong điều kiện mới.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Ngày 24.6, báo cáo giám sát dịch bệnh của Sở Y tế TP.HCM cho biết, trong ngày phát hiện thêm 9 trường hợp dương tính với cúm A/H1N1 (trong đó có 3 trường hợp đã cho kết quả xét nghiệm lần 2 dương tính và 6 ca kết quả lần đầu dương tính). Như vậy, tính đến hôm qua tổng cộng có 53 bệnh nhân cúm A/H1N1 được điều trị tại TP.HCM. Cùng ngày, giám sát tại sân bay Tân Sơn Nhất, cơ quan chức năng phát hiện 55 hành khách có dấu hiệu nghi nhiễm cúm A/H1N1 và chuyển vào bệnh viện để cách ly, theo dõi.
Trong khi đó, tại cuộc họp Ban chỉ đạo Phòng chống dịch cúm trên người chiều 24.6, Cục Y tế dự phòng và môi trường Bộ Y tế xác nhận trong ngày thêm 7 trường hợp mới dương tính với cúm A/H1N1 (trong đó 2 ca tại Hà Nội), nâng tổng số người mắc bệnh lên 63 ca tại 10 tỉnh thành. Tại cuộc họp, ông Nguyễn Văn Châu, Giám đốc Sở Y tế TP.HCM, cho biết ngành y tế TP đã dự phòng khả năng tiếp nhận lên đến 6.000 người cách ly, điều trị cúm A/H1N1 trong trường hợp dịch lan rộng và ca bệnh diễn biến nặng hơn.
Cùng ngày, ông Hoàng Đức Hạnh, Phó giám đốc Sở Y tế Hà Nội, cho biết 2 trường hợp xét nghiệm dương tính với cúm A/H1N1 mới đều là nữ sinh viên du học từ Úc về sân bay Nội Bài hôm 18.6 và đang ở Q.Cầu Giấy, Hà Nội. Có 13 người tiếp xúc gần với 2 bệnh nhân đã được khuyến cáo cách ly, đeo khẩu trang và theo dõi sức khỏe trong vòng 7 ngày. Hiện tại, sức khỏe của hai bệnh nhân và những người tiếp xúc gần đều ổn định. Tuy nhiên, một trong hai trường hợp nhiễm cúm trên đã từng đi xe buýt khi chưa có biểu hiện bệnh, nhưng không nhớ biển số chuyến xe đã đi, nên khó kiểm soát các trường hợp trên cùng chuyến xe với người nhiễm.
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Các chỉ số cơ bản của nền kinh tế như tăng trưởng GDP, sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu... đều ở mức tương đối dù kinh tế thế giới vẫn chưa qua khỏi khủng hoảng, tiếp tục tác động đến sản xuất và đầu tư trong nước. Đó là bức tranh chung về tình hình kinh tế - xã hội cả nước trong sáu tháng đầu năm, được đưa ra tại cuộc họp giao ban của Bộ Kế hoạch - đầu tư (KH-ĐT) hôm qua 24-6.
GDP sáu tháng đầu năm tăng 3,9%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái (6,5%). Trong đó giá trị sản xuất công nghiệp có dấu hiệu phục hồi, đạt 324,2 ngàn tỉ đồng, tương đương mức tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Tuy giảm mạnh so với mức sáu tháng đầu năm 2008 (16,5%) nhưng sản xuất công nghiệp duy trì ở mức tháng sau tăng cao hơn tháng trước. Dẫn đầu trong sản xuất công nghiệp vẫn là khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 7,6%, sau đó là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 4,5% và cuối cùng là khu vực kinh tế nhà nước tăng 1,5%. Sản phẩm có mức tăng trưởng khá cao trong nhóm hàng công nghiệp là máy điều hòa nhiệt độ (44,7%) và ximăng (24,1%). Theo ông Bùi Hà, vụ trưởng Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân Bộ KH-ĐT, mức tăng này thể hiện sự phục hồi của thị trường xây dựng và bất động sản.
Sáu tháng đầu năm, xuất khẩu đạt 27,6 tỉ USD, giảm 10,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá bình quân hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN đều giảm (giá dầu thô giảm 53%, cao su giảm 44%, cà phê giảm 28,3%, gạo giảm 21,6%...). Theo đại diện của Tổng công ty Cà phê VN, xuất khẩu cà phê tăng về lượng khá cao (27,3%), nhưng do giá giảm mạnh nên tổng kim ngạch giảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may có xu hướng tăng dần, nhưng tính chung sáu tháng vẫn giảm 1,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Hàng giày dép cũng giảm 8,7%.
Ông Bùi Hà cho rằng trong sáu tháng cuối năm phải có nhiều biện pháp tác động, hỗ trợ xuất khẩu hơn nữa mới có thể đạt tăng trưởng dương của cả năm. Chịu tác động của việc sản xuất cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, tổng giá trị nhập khẩu sáu tháng đầu năm giảm 34% so với cùng kỳ năm 2008, thể hiện mạnh ở việc giảm nhập khẩu sắt thép, ôtô nguyên chiếc, hóa chất, máy tính và linh kiện điện tử, phân bón... Tháng sáu là tháng thứ ba liên tiếp VN nhập siêu, sau ba tháng đầu xuất siêu do xuất khẩu vàng tăng đột biến. Tính chung nhập siêu sáu tháng đầu năm là 2,1 tỉ USD, chiếm 7,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Góp vốn vào VPCC tư: Luật chưa dự liệu, khó giải quyết tranh chấp". Bài báo phản ánh: Trên các số báo trước, Pháp Luật TP.HCM phản ánh việc tranh chấp giữa công chứng viên Cáp Văn Chinh - Trưởng Văn phòng Công chứng (VPCC) Đống Đa, Hà Nội và luật sư Hoàng Đàm - người đầu tư tài chính của VPCC. Từ vụ tranh chấp này, vấn đề đặt ra là pháp luật hiện nay quy định thế nào về việc cho hay không cho đầu tư tài chính vào VPCC. Pháp Luật TP.HCM ghi nhận một số ý kiến chuyên gia xung quanh nội dung này.
Công chứng viên Nguyễn Thị Tạc, Trưởng VPCC Nguyễn Thị Tạc (nguyên Trưởng phòng Công chứng số 4, TP.HCM): Luật Công chứng quy định VPCC (thường gọi là VPCC tư - PV) do công chứng viên thành lập có hai loại hình. Thứ nhất, VPCC tư do một công chứng viên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Công chứng viên tổ chức hoạt động, quyết định mọi vấn đề và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của văn phòng. Thứ hai, VPCC tư do hai công chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh. Trong trường hợp này, các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty. Tuy nhiên thực tế, cả nước gần như chưa thấy VPCC tư nào thành lập dưới dạng công ty hợp danh. Nếu là công ty hợp danh thì hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Như vậy, rõ ràng Luật Công chứng đã không quy định loại hình công ty cổ phần cũng như công ty TNHH đối với hoạt động của công chứng. Do đó, việc các bên thỏa thuận với nhau về hình thức ăn chia, góp vốn... là việc của hai bên, pháp luật không thừa nhận. Pháp luật chỉ thừa nhận, cấp phép hoạt động cho công chứng viên (A), đứng đầu VPCC tư (X) và ông (A) phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của VPCC tư (X).
Ở TP.HCM hiện có nhiều VPCC tư hoạt động dưới hình thức “hùn vốn”: một người đầu tư tài chính, một người đủ điều kiện công chứng viên đứng tên để hoạt động. Tuy nhiên, cần lưu ý, mọi thỏa thuận phải đạt được nguyên tắc công chứng viên có đủ thực quyền để định đoạt và quyết định mọi hoạt động chuyên môn của mình và của VPCC. Vì chính công chứng viên mới là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi vấn đề của VPCC. Đây là kinh nghiệm cho các công chứng viên khi hợp tác, góp vốn với ai phải thỏa thuận rõ ngay từ đầu, tránh xảy ra tranh chấp buộc phải đóng cửa VPCC thì rất đáng tiếc.
Công chứng viên Phan Văn Cheo, VPCC Sài Gòn (nguyên Trưởng phòng Công chứng số 1, TP.HCM): Hoạt động của VPCC tư là nhà nước giao cho công chứng viên nhân danh nhà nước thực hiện hoạt động công chứng. Do đó, công chứng viên hoạt động trong khuôn khổ nhất định chứ không chỉ như một doanh nghiệp. Về việc hùn vốn vào VPCC tư, hiện nay luật không quy định nhưng thực tế có rất nhiều VPCC tư hoạt động dưới dạng “góp vốn”, “cổ phần” như trên. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp thì công chứng viên vẫn là người chịu trách nhiệm mọi vấn đề trước pháp luật.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hoài Phương, giảng viên Đại học Luật TP.HCM: VPCC Đống Đa là văn phòng do một công chứng viên thành lập hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân. Về mặt pháp lý không có cá nhân nào có quyền thay mặt công chứng viên để nắm quyền điều hành. Có thể trên thực tế công chứng viên có thỏa thuận với người khác về việc đầu tư tiền bạc cho công chứng viên mở văn phòng nhưng đó là quan hệ dân sự giữa hai bên, hoạt động của VPCC không thể bị chi phối bởi các thỏa thuận đó. Cho dù luật sư đó có giao tiền bạc hay tài sản cho công chứng viên để công chứng viên có đủ điều kiện thành lập VPCC nhưng không cùng đứng tên thành lập thì cũng không có quyền nắm giữ con dấu, không có quyền điều khiển công chứng viên hoạt động theo ý mình. Hành vi gắn camera theo dõi hoạt động của công chứng viên là vi phạm quyền dân sự của công chứng viên.
Tuy nhiên, trong trường hợp này công chứng viên cần bảo vệ quyền lợi cho mình theo phương thức bảo vệ quyền dân sự chứ không thể yêu cầu Sở Tư pháp TP Hà Nội can thiệp bằng biện pháp hành chính đối với luật sư hay hòa giải cho hai bên được. Bởi vì Sở Tư pháp không có chức năng giải quyết tranh chấp dân sự giữa hai cá nhân dù cá nhân đó hoạt động trong lĩnh vực nào.
Báo cũng có bài “Cải chính năm sinh của Việt kiều: Tỉnh đẩy cho huyện là sai quy định”. Bài báo phản ánh: Chị Lê Hồng An sinh tại xã Long An, huyện Tân Châu, An Giang và đang định cư ở Pháp. Giấy khai sinh và các giấy tờ khác của chị như hộ khẩu, lý lịch, hộ chiếu... đều ghi chị sinh năm 1980. Do cần một số giấy tờ để bổ sung hồ sơ nhập quốc tịch Pháp nên chị An đã nhờ cha mình đi trích lục bản sao giấy khai sinh. Bấy giờ, người cha phát hiện bản sao vừa được cấp ghi chị An sinh năm 1984. Để có sự thống nhất, người cha đã nộp đơn đề nghị UBND huyện Tân Châu cải chính năm sinh cho chị An.
Tuy nhiên, Phòng Tư pháp huyện đã từ chối giải quyết yêu cầu nêu trên. Trong công văn trả lời cho người cha ngày 5-7-2007, Phòng Tư pháp huyện cho biết “chưa đủ cơ sở giải quyết cải chính hộ tịch cho chị An vì theo báo cáo của UBND xã, năm sinh của chị An (năm 1984) được ghi theo đúng sổ bộ của xã; việc đăng ký khai sinh của chị An được thực hiện theo đúng quy định”.
Không đồng ý, người cha đã khiếu nại đến Sở Tư pháp tỉnh An Giang. Trong công văn gửi UBND huyện ngày 1-11-2007, sở này có nêu: Sở Tư pháp đã thẩm tra, xác minh thực tế tại địa phương và nhận thấy việc cải chính năm sinh của chị An từ năm 1984 thành năm 1980 là có cơ sở giải quyết. Bởi sau khi sinh chị An vào năm 1980 thì đến năm 1981, người cha có thêm một con gái. Điều này được hàng xóm, thân tộc của chị An và sổ hộ khẩu gia đình ghi nhận. Sở Tư pháp tỉnh đã yêu cầu UBND huyện Tân Châu giải quyết vụ việc vì Sở không còn lưu giữ sổ bộ do đã bàn giao cho cấp huyện và cấp xã từ năm 2006.
Thế nhưng UBND huyện vẫn không tiếp nhận hồ sơ với lý do không có thẩm quyền. Người cha quay trở lại Sở Tư pháp thì nơi đây lại bảo nên về huyện. Phải sau một thời gian chạy tới chạy lui, người cha mới được UBND huyện giải quyết.
Trao đổi với phóng viên qua điện thoại vào chiều 23-6, ông Trương Văn Khan, Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh An Giang, cho biết: “Sở đã chỉ đạo huyện Tân Châu cải chính hộ tịch cho chị An và huyện đã giải quyết”. “Giải quyết như thế liệu có đúng thẩm quyền hay không vì việc cải chính hộ tịch có yếu tố nước ngoài?”. Với câu hỏi này của PV, ông Khan đáp: “Chúng tôi đã phân cấp thẩm quyền rồi, cấp huyện hay cấp tỉnh giải quyết cũng được” (!?).
Ông Nguyễn Quốc Cường - Vụ phó Vụ Hành chính tư pháp (Bộ Tư pháp) khẳng định: Đối với yêu cầu cụ thể của chị An, thẩm quyền cải chính hộ tịch thuộc về Sở Tư pháp chứ không phải UBND huyện. Sở Tư pháp tỉnh An Giang không thể căn cứ vào việc không còn lưu sổ bộ để cho rằng thẩm quyền thuộc về UBND huyện. Khoản 3 Điều 96 Nghị định 158 đã quy định rõ: “Các quy định về thay đổi, cải chính hộ tịch tại mục 7 Chương II của nghị định cũng được áp dụng đối với công dân VN định cư ở nước ngoài mà trước đây đã đăng ký hộ tịch trước cơ quan có thẩm quyền của VN. Sở Tư pháp mà trong địa hạt của tỉnh đó trước đây đương sự đã đăng ký hộ tịch có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch trong những trường hợp này”. Về nguyên tắc, khi đã được phân định thẩm quyền thì cấp tỉnh phải tuyệt đối tuân thủ, không thể đưa xuống huyện. Nếu được thực hiện không đúng thẩm quyền, việc cải chính không có giá trị pháp lý và người dân sẽ phải mất công làm lại.
2. Trang web Diễn đàn doanh nghiệp có bài “Một chữ của người làm luật”. Bài báo phản ánh: Đôi khi, chỉ một từ đưa vào văn bản luật của các nhà làm luật đã tước đi cơ hội kinh doanh chính đáng của các doanh nhân và doanh nghiệp.
Anh bạn nhà báo cao to, đẹp trai và rất phong độ này lại được các nhà doanh nghiệp đặt cho cái biệt danh nghe kinh người - Long “chết yểu”. Mọi biệt danh đều có sự tích. Và Long “chết yểu” cũng vậy. Số là cách đây 5 năm Long có mở một doanh nghiệp và khi công ty của anh bắt đầu ăn nên làm ra thì lại bị chết bất đắc kỳ tử chỉ vì một chữ của người làm luật.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định: “Chứng chỉ hành nghề của giám đốc hoặc những người quản lý khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.” Về người quản lý doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp 1999 quy định: “Người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu, giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, công ty hợp danh, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc và các chức danh khác do điều lệ công ty quy định.” Trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 có chữ “hoặc”, có nghĩa là giám đốc doanh nghiệp không nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề mà chỉ cần có một số người quản lý doanh nghiệp có chứng chỉ hành nghề là được. Số người quản lý doanh nghiệp bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề có thể là một hoặc nhiều người. Giám đốc doanh nghiệp khác hẳn với người quản lý doanh nghiệp. Giám đốc đòi hỏi có óc tổ chức, vạch ra được chiến lược phát triển doanh nghiệp và có đủ mọi điều kiện về tài chính, kinh nghiệm, các mối quan hệ... để thực hiện được chiến lược đó. Còn người quản lý điều hành doanh nghiệp thì phải có chuyên môn, quản lý xí nghiệp dược nhất định phải có bằng dược sĩ cao cấp và đó là chứng chỉ hành nghề.
5 năm trước, Long phát hiện ra một khó khăn của các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ đó là khâu kế toán. Quy mô của công ty và hoạt động kinh doanh của họ chưa đủ lớn để biên chế một kế toán trưởng hoặc một nhân viên kế toán. Điều này làm khổ ngành thuế và cũng làm khổ các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ. Nếu có một công ty nào đó tận dụng kinh nghiệm, tri thức của các kế toán trưởng đã về hưu để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và các hộ kinh doanh gia đình trong lĩnh vực kế toán, tài chính thì vừa lợi cho người kinh doanh lại vừa có lợi cho cơ quan thuế. Từ suy nghĩ đó, Long đã tổ chức một công ty tư vấn tài chính. Công ty của anh tập hợp hàng chục kế toán trưởng đã nghỉ hưu, ai cần giúp đỡ tư vấn về kế toán tài chính thì công ty cử người đến giúp và tính thù lao theo giờ. Thời gian đầu, khách hàng của công ty chủ yếu là các cơ sở kinh doanh mà Long có quen biết. Hai năm sau, công ty của Long bắt đầu có uy tín và khách hàng khá đông. Năm thứ nhất, giám đốc Long phải bỏ tiền túi ra bù lỗ. Năm thứ hai công ty đã cân bằng được thu chi và bắt đầu có lãi. Đúng vào thời điểm này Quốc hội lại sửa Luật Doanh nghiệp mà chỉ sửa có một chữ. Khoản 4 điều 16, Khoản 5 điều 18 và Khoản 5 điều 19, Luật Doanh nghiệp năm 2005 đều có quy định: “Chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.” Như thế là các nhà làm luật đã thay chữ “hoặc” bằng chữ “và”. Với chữ “và” này thì bắt buộc Long phải có bằng kế toán trưởng mà anh thì chỉ có bằng cử nhân báo chí mà thôi. Vì thế anh phải giải tán doanh nghiệp khi công ty bắt đầu ăn nên làm ra. Cho đến bây giờ Long vẫn đau vì chữ “và” trong Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Không một nghiên cứu khoa học nào khẳng định rằng, để làm được giám đốc nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề. Ngoài việc quản lý chuyên môn, giám đốc doanh nghiệp còn phải có năng lực quản lý ở nhiều lĩnh vực khác và phải có uy tín với người lao động, uy tín với các đối tác. Giám đốc doanh nghiệp phải biết huy động cả bộ máy của mình vào hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất, trong đó có cả những người có chứng chỉ hành nghề. Cũng không ai chứng minh được rằng, người đã được cấp chứng chỉ hành nghề thì đương nhiên làm được giám đốc doanh nghiệp. Chứng chỉ hành nghề chỉ là một chứng nhận về hành nghề chuyên môn. Nếu một doanh nghiệp kinh doanh đồng thời nhiều ngành, nghề đòi hỏi phải có chứng chỉ hành nghề thì chẳng nhẽ ông giám đốc cũng bắt buộc phải có tất cả những chứng chỉ liên quan ư? Điều đó không thể có trong thực tiễn. Nhưng chữ “và” ấy lại có trong Bộ luật Doanh nghiệp của nước ta.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 25/6/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.