Trong buổi sáng ngày 15/6/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Tại cuộc họp báo chiều 13-6, thiếu tướng Hoàng Công Tư, phó tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, thủ trưởng cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết, vào lúc 11g cùng ngày, cơ quan an ninh điều tra đã thực hiện lệnh bắt khẩn cấp đối với luật sư Lê Công Định về hành vi “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN” (điều 88 BLHS).
Luật sư Lê Công Định sinh 1968, ngụ P.Tân Phong, Q.7, TP.HCM, làm việc tại Công ty luật TNHH một thành viên Lê Công Định (37 Tôn Đức Thắng, Q.1). Khám xét nơi ở và nơi làm việc của ông Định, cơ quan điều tra thu giữ rất nhiều tài liệu có nội dung tuyên truyền chống phá chính quyền, chống phá nhà nước.
Báo cũng phản ánh: Một chấp hành viên thi hành án mua bán ma túy. Cơ quan điều tra Công an thị xã Sa Đéc (Đồng Tháp) vừa thực hiện lệnh bắt khẩn cấp đối với ông Nguyễn Minh Phụng, chấp hành viên thi hành án dân sự thi hành án thị xã Sa Đéc.
Trước đó ngày 5-6, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Đồng Tháp kết hợp với Công an thị xã Sa Đéc bắt quả tang Trần Hữu Phúc (sinh 1978, ngụ ấp Phú Hòa, xã Tân Phú Đông, thị xã Sa Đéc) đang tàng trữ trái phép chất ma túy (heroin), với tang vật thu giữ là hai gói heroin có trọng lượng 0,2054g. Qua điều tra ban đầu, cơ quan chức năng xác định nguồn heroin do Nguyễn Minh Phụng cung cấp.
2. Trang web Địaốconline.vn phản ánh: Mới đây, Sở Tư pháp TP.HCM đã có báo cáo thẩm định đối với dự thảo chỉ thị do Sở Xây dựng soạn thảo về vấn đề này. Nhiều đề xuất của Sở Xây dựng trong dự thảo được Sở Tư pháp góp ý cần cân nhắc lại.
Theo dự thảo của Sở Xây dựng, sau khi chỉ thị có hiệu lực, cấm hẳn việc mua bán suất tái định cư, nền hoặc căn hộ tái định cư nếu chưa có giấy hồng. Các trường hợp lỡ mua bán trước khi chỉ thị có hiệu lực được hợp thức hóa với điều kiện phải nộp thêm 20% hoặc 100% giá trị suất tái định cư, nền hoặc căn hộ tái định cư. Theo Sở Xây dựng, không thể xem suất tái định cư là quyền về tài sản để cho phép người dân giao dịch. Bán suất tái định cư là hình thức hứa bán trước căn hộ khi chưa hình thành, bán trước đất nền khi chưa được giao. Khi đó căn hộ, đất nền đó vẫn còn thuộc sở hữu, quản lý của nhà nước chứ chưa phải là thuộc sở hữu, sử dụng của tư nhân. Vì thế cần cấm mua bán, chuyển nhượng suất tái định cư.
Tuy nhiên, Sở Tư pháp cho rằng suất tái định cư là quyền tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự. Đó chính là quyền mua căn hộ, nền đất tái định cư. Việc mua bán suất tái định cư chính là việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ của người được tái định cư sang cho người mua, đây là giao dịch dân sự pháp luật không cấm.
Theo Sở Tư pháp, cấm chuyển nhượng suất tái định cư sẽ phát sinh nhiều bất lợi. Người dân vẫn chuyển nhượng vì đó là nhu cầu thực tế. Cấm chuyển nhượng, họ không thể thực hiện thủ tục mua bán hợp pháp, từ đó những người đầu cơ, thu gom có điều kiện lợi dụng ép giá và đẻ ra dịch vụ “chạy” thủ tục để được hợp thức hóa. Việc chuyển nhượng núp dưới hình thức ủy quyền dẫn đến phát sinh nhiều tranh chấp khó giải quyết. Cho giao dịch thì mới bảo vệ được quyền lợi và an toàn pháp lý cho người tái định cư lẫn những người mua suất tái định cư. Vấn đề là “cần có một hành lang pháp lý quy định điều kiện, thủ tục giao dịch để các tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan cấp giấy thực hiện thống nhất” - Sở Tư pháp kiến nghị.
Việc dự thảo đề nghị buộc người mua suất tái định cư phải nộp thêm 20% hoặc 100% giá trị căn hộ cho nhà nước để được hợp thức hóa mua bán, chuyển đổi tên trong hợp đồng, Sở Tư pháp cho rằng không khả thi. Quan điểm của Sở Tư pháp là không nên quy định trách nhiệm vật chất quá lớn đối với người mua suất tái định cư, không thể buộc họ thanh toán hai lần theo giá thị trường cho một suất tái định cư. Việc nhà nước thu thêm tiền của bên mua để sau đó trả lại cho người bán suất tái định cư đối với số tiền họ trả góp mua nhà cũng không hợp lý.
Chưa hết, việc hoàn trả tiền cho người bán suất tái định cư sẽ phát sinh nhiều rắc rối, cơ quan nhà nước phải “ôm” thêm việc. “Việc này có thể làm phát sinh tranh chấp phức tạp giữa người mua, người bán và cả nhà nước” - Sở Tư pháp phân tích. Sở Tư pháp kiến nghị thành phố đề nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM phản biện và lấy thêm ý kiến các cơ quan tố tụng (tòa án, viện kiểm sát) trước khi ban hành chỉ thị trên.
3. Báo Công an nhân dân có bài “Xử lý vật chứng mỗi nơi một kiểu”. Bài báo phản ánh: Một Thông tư liên tịch thì quy định khi ra quyết định truy tố Viện kiểm sát chuyển vật chứng từ kho của Công an sang kho của CQ thi hành án. Còn Bộ Tư pháp lại quy định, CQ thi hành án chỉ nhận vật chứng khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thời gian gần đây, kho tang vật chứng của Công an nhiều tỉnh, thành phố luôn trong tình trạng quá tải. Nguyên nhân là do quy định thiếu thống nhất giữa Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP của liên ngành Viện KSND Tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng, ban hành ngày 7/9/2005 và Thông tư số 06/2007/TT-BTP của Bộ Tư pháp ban hành ngày 5/7/2007. Điểm b, khoản 2, Điều 21 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP quy định: "Trường hợp vật chứng được bảo quản tại kho của cơ quan Công an thì khi ra quyết định truy tố, Viện Kiểm sát ra quyết định chuyển vật chứng từ kho vật chứng của cơ quan Công an sang kho vật chứng của cơ quan thi hành án".
Nhưng tại phần II, khoản 1, điểm 1.1 Thông tư số 06/2007/TT-BTP lại quy định: "Cơ quan thi hành án chịu trách nhiệm tiếp nhận, bảo quản vật chứng do cơ quan Công an hoặc cơ quan điều tra chuyển giao kể từ khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử".
Trước quy định thiếu thống nhất giữa hai thông tư nói trên, dẫn tới việc chuyển giao vật chứng trong vụ án hình sự mỗi địa phương thực hiện theo một cách. Ở Hà Nội, cơ quan thi hành án vẫn tiếp nhận vật chứng theo quy định của Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP. Còn tại tỉnh Khánh Hòa, kể từ khi có Thông tư 06/2007/TT-BTP, cơ quan thi hành án địa phương không nhận vật chứng do cơ quan Công an chuyển đến. Trong khi đó, tại Thái Nguyên, cơ quan thi hành án không nhận vật chứng trước khi Tòa án có quyết định xét xử. Còn Tòa án thì lại không nhận hồ sơ vụ án đã có cáo trạng truy tố khi hồ sơ không có đủ biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án.
Trước tình hình đó, ngày 8/6/2009, một tổ chuyên viên của Bộ Công an, Viện KSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp đã tổ chức hội nghị bàn việc thống nhất áp dụng văn bản qui phạm pháp luật trong xử lý vật chứng theo vụ án hình sự. Hội nghị đã thống nhất đề nghị liên ngành sớm cho ý kiến thực hiện theo Thông tư số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP. Tại điểm đ, khoản 2, Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án". Nội dung tại Thông tư 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP phù hợp với quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, nên việc áp dụng Thông tư 05 là đúng quy định của pháp luật.
4. Báo Quân đội nhân dân trên mục Nhịp cầu bạn đọc có bài “Gian truân đi tìm công lý”. Bài báo phản ánh: Việc thi hành án (THA) sai pháp luật của Đội THA huyện Thống Nhất (cũ), tỉnh Đồng Nai cách nay hơn 12 năm, đã đẩy gia đình ông Vũ Đức Liêm đến chỗ không có chỗ ở, con cái bỏ bê học hành. Quá bức xúc, ông Liêm đi kiện và chặng đường đi tìm công lý của ông vẫn còn lắm gập ghềnh, gian nan...
Năm 1985, gia đình ông Liêm (sinh năm 1950) gồm 8 người đã sinh sống tại căn nhà cấp bốn, trên diện tích 1.080m2 (15mx72m) thuộc thôn Tây Lạc, ấp Bùi Chu (nay là ấp An Chu), xã Bắc Sơn, huyện Thống Nhất (nay là huyện Trảng Bom), tỉnh Đồng Nai. Khi đó, ông Liêm làm nghề chạy xe lam nuôi cả gia đình. Năm 1995, do vỡ hụi, vợ ông Liêm là bà Phạm Thị Dung thiếu nợ 17 người với số tiền 309 triệu đồng và 6,5 lượng vàng. Tòa án nhân dân (TAND) huyện Thống Nhất (cũ) tiến hành xét xử vụ án và công nhận sự thỏa thuận giữa bà Dung với các chủ nợ; đồng thời kê biên căn nhà mà ông Liêm và bà Dung là đồng sở hữu để bảo đảm việc thi hành án (THA).
Một thời gian sau, do bà Dung không có điều kiện để thanh toán nợ, Đội THA huyện Thống Nhất đã tổ chức đấu giá căn nhà mà ông Liêm đứng tên chủ sở hữu. Trong thông báo bán đấu giá số 09/TB do chấp hành viên Phùng Văn San ký ngày 1-3-1997 lại ghi nhà và đất bị kê biên do bà Phạm Thị Dung là chủ sở hữu (thiếu chồng bà). Diện tích được thông báo kê biên cũng chỉ là 750m2 (15mx50m), chứ không phải 1.050m2 (15mx70m)? Sau đó, ông Nguyễn Văn Dĩ (chủ nợ của bà Dung) và vợ là Nguyễn Thị Mai trúng đấu giá. Ngày 8-5-1997, Đội THA huyện tổ chức cưỡng chế tài sản của gia đình ông Liêm. Do bức xúc vì bị cưỡng chế tài sản không đúng, ông Liêm phản ứng. Kết quả là ông Liêm và em ruột là Vũ Đức Độ bị bắt giam về tội chống người thi hành công vụ. Ba tháng sau, con gái ông Liêm là Vũ Thị Thủy (sinh năm 1976, sinh viên Trường cao đẳng Sư phạm Đồng Nai) cũng bị bắt và bị kết tội như cha mình. Ông Liêm bị tòa xử phạt 12 tháng tù giam, cô Thủy và ông Độ mỗi người bị xử phạt 6 tháng tù giam về tội chống người thi hành công vụ. Sau cuộc cưỡng chế tài sản, gia đình ông Vũ Đức Liêm rơi vào tình cảnh không có nhà phải ở nhờ nhà người quen, chuyện học hành của các con ông cũng phải dang dở.
Năm 1998, sau khi ra tù, ông Liêm tiến hành khởi kiện Đội THA huyện Thống Nhất, yêu cầu trả lại hơn 300m2 đất mà ông là chủ sở hữu (diện tích đất mà ông Dĩ, bà Mai mua đấu giá chỉ có 750m2). Như vậy, đương nhiên phần còn lại (hơn 300m2) vẫn thuộc quyền sở hữu của ông Liêm. Thế nhưng, không hiểu vì lý do gì mãi đến ngày 12-1-2001 (ba năm sau), TAND huyện Thống Nhất mới tổ chức phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự giữa nguyên đơn là ông Vũ Đức Liêm và bị đơn là Đội THA huyện Thống Nhất.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định: Người phải THA chính là bà Phạm Thị Dung. Yếu tố này cũng được Đội THA huyện Thống Nhất (cũ) công nhận trước tòa. Thế nhưng, khi tiến hành kê biên-định giá-bán đấu giá tài sản nhà, đất có liên quan đến quyền sở hữu của ông Liêm thì Đội THA lại không thực hiện đúng quy định của Pháp lệnh THA. Ông Liêm không được tham gia vào việc THA để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Về cơ sở pháp lý thì nhà và đất trên là tài sản chung của vợ chồng ông Liêm. Chính vì những bất hợp lý nêu trên, Hội đồng xét xử quyết định: Hủy một phần hợp đồng bán đấu giá tài sản nhà, đất của bà Phạm Thị Dung; buộc ông Nguyễn Văn Dĩ phải có trách nhiệm trả lại cho ông Liêm một phần lô đất (trúng đấu giá) có kích thước 7mx62m; buộc Đội THA huyện Thống Nhất có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông Liêm số tiền 22.800.000 đồng. Nhưng, phiên tòa phúc thẩm ngày 26-6-2001, HĐXX do thẩm phán Phan Thanh Nghị chủ tọa lại cho rằng các cơ quan tố tụng của cấp sơ thẩm đã phạm nhiều thiếu sót. Do đó, Tòa hủy bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ kiện về cho Tòa án huyện Thống Nhất để tiến hành theo trình tự tố tụng chung.
Gần 5 năm sau, ngày 5-5-2006, TAND huyện Thống Nhất mới có quyết định số 39/QĐ/2006/DSST do Phó chánh án Mai Thị Oanh ký với nội dung “Chuyển hồ sơ vụ án lên TAND tỉnh, vì có yếu tố người nước ngoài”. Ngày 24-4-2008, TAND tỉnh Đồng Nai tổ chức lại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ kiện của ông Liêm. Kết thúc phiên tòa này, HĐXX bác đơn kiện của ông Vũ Đức Liêm. Ông Liêm kháng cáo lên Tòa án Phúc thẩm và ngày 25-7-2008, TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh đã xử phiên phúc thẩm. HĐXX xét thấy “Theo quy định tại điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của ông Liêm không thuộc quyền giải quyết của tòa án, nhưng TAND tỉnh Đồng Nai lại thụ lý và đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Tòa chỉ có thẩm quyền giải quyết việc bồi thường thiệt hại nếu ông Liêm và thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai không thỏa thuận được về bồi thường thiệt hại và có đơn khởi kiện tại Tòa theo Nghị định 47 ngày 3-5-1997 của Chính phủ”. HĐXX ra quyết định hủy bản án sơ thẩm ngày 24-8-2008 của TAND tỉnh Đồng Nai và đình chỉ giải quyết vụ án. Thế là vụ kiện đã diễn ra suốt 10 năm, nay lại quay lại từ đầu.
Vụ việc đã quá rõ, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và sự nghiêm minh của pháp luật, đề nghị các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai sớm giải quyết dứt điểm, đồng thời xem xét trách nhiệm của những người tham gia thụ lý vụ việc này. Công dân sai phạm thì bị xử phạt, còn công chức Nhà nước làm sai sao không thấy đưa ra xử phạt? Như thế có công bằng?
5. Báo Tiền phong có bài “Phong tỏa tài sản hàng trăm tỷ để đòi gần năm tỷ”. Bài báo phản ánh: Cty Cổ phần Công trình Giao thông 68 bị thiệt hại nặng, sau khi bị cơ quan thi hành án phong tỏa tài khoản và cấm chuyển dịch toàn bộ tài sản trị giá hơn 100 tỷ đồng, nhằm buộc phải trả khoản nợ hơn 4,6 tỷ đồng.
Cty Cổ phần Công trình Giao thông 68 (gọi tắt là Cty 68) tiền thân là doanh nghiệp 100 phần trăm vốn nhà nước, được cổ phần hóa năm 2005 và vẫn trực thuộc Tổng Cty Xây dựng Công trình Giao thông 6 - Cienco 6. Trong quá trình hoạt động, Cty 68 nợ tiền thuê mướn thiết bị, mua vật liệu của các đối tác, trong đó có những khoản nợ phát sinh trước thời điểm cổ phần hóa.
Do không thỏa thuận được việc trả nợ, các đối tác đưa nhau ra tòa. Các bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm của TAND quận Thủ Đức và TPHCM trong năm 2008 buộc Cty 68 phải trả hơn 4,6 tỷ đồng (gồm nợ và tiền lãi trả chậm). Trên cơ sở đó, Thi hành án dân sự quận Thủ Đức ra sáu quyết định buộc Cty 68 thi hành các phán quyết trên. Khi mọi việc ngã ngũ, ngay trong năm 2008, Cty 68 yêu cầu Cty Cổ phần Thông tin & Thẩm định Giá Tây Nam Bộ thẩm định giá một số tài sản, trang thiết bị của Cty để thanh lý, nhằm trả các khoản nợ nói trên. Chứng thư thẩm định giá ngày 25/9/2008 của Cty Tây Nam Bộ thể hiện tổng giá trị tài sản mà Cty 68 muốn thanh lý là hơn 25 tỷ đồng.
Ngày 18/12/2008, Cty 68 ký hợp đồng ủy quyền cho Cty Cổ phần Đấu giá Bắc Trung Nam bán đấu giá số tài sản trên. Tuy nhiên, nguyện vọng thanh lý tài sản để trả nợ của Cty 68 không thể thực hiện vì trước đó vài ngày, ông Từ Trung Hiếu - chấp hành viên thi hành án quận Thủ Đức ký văn bản yêu cầu các cơ quan chức năng không cho Cty 68 chuyển dịch toàn bộ tài sản, cũng như hợp thức hóa hai khu đất mà Cty này đang quản lý, sử dụng tại quận Thủ Đức.
Trước đó, ngày 2/12/2008, ông Hiếu cũng ra quyết định phong tỏa toàn bộ năm tài khoản của Cty 68 mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương, Chi nhánh Vũng Tàu, để thu hồi hơn 291 triệu đồng. “Cty 68 hiện có hơn 60 phần trăm vốn nhà nước. Theo quy định, việc thanh lý tài sản phải thực hiện đầy đủ các thủ tục nên cần có thời gian. Thay vì tạo điều kiện cho các bên, việc làm của thi hành án quận Thủ Đức khiến việc trả nợ bị ngưng trệ hoàn toàn, dù Cty 68 đang ngồi trên đống tiền” - Chủ tịch Hội đồng Quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Cty 68 Nguyễn Hùng Phong bức xúc.
Cty 68 có nhiều văn bản khiếu nại, đề nghị hủy bỏ các biện pháp trên và cam kết sẽ bán đấu giá tài sản để trả nợ nhưng thi hành án quận Thủ Đức không chấp nhận. Làm việc với Tiền Phong, bà Vũ Minh Nhạn - Trưởng Thi hành án quận Thủ Đức và ông Từ Trung Hiếu khẳng định, việc cấm chuyển dịch toàn bộ tài sản là biện pháp ngăn chặn, nhằm đảm bảo khả năng thi hành án đối với khoản nợ trên.
Theo hồ sơ thực chất tại thời điểm áp dụng biện pháp ngăn chặn, số nợ đến hạn phải trả chỉ hơn một tỷ đồng, trong khi căn cứ theo biên bản xác định giá trị doanh nghiệp (tại thời điểm cổ phàn hóa), số tài sản Cty 68 sở hữu (và hiện bị phong tỏa) lên tới hơn 132 tỷ đồng, cao gấp hàng chục lần số tiền phải thi hành án. Một chấp hành viên Thi hành án TPHCM (đề nghị không nêu tên) nhận định: “Việc Thi hành án quận Thủ Đức cấm chuyển dịch khối tài sản hơn 100 tỷ đồng, cũng như không cho Cty 68 hợp thức hóa các khu đất để buộc thi hành khoản nợ nói trên là không đúng quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004”.
6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ông Mai Viết Đa (ngụ 134 Lê Lợi, phường 4, TP Vũng Tàu) đã dùng xăng tự thiêu trên đường Vi Ba, phường 6, TP Vũng Tàu vào sáng 11-6. Cùng lúc ông Đa tự thiêu, Thi hành án tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và các cơ quan chức năng đang cưỡng chế một phần căn nhà 134 Lê Lợi để giao cho người mua nhà.
Tháng 3-2005, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu công nhận sự thỏa thuận giữa ông Đa (bị đơn) và các nguyên đơn là em ông Đa. Theo đó, ông Đa phải thanh toán 1,1 tỷ đồng phần thừa kế cho phía nguyên đơn. Tháng 6-2005, Thi hành án dân sự tỉnh có quyết định thi hành án nhưng ông Đa không chấp hành nên tháng 2-2006, cơ quan này quyết định cưỡng chế thi hành án. Tháng 4-2009, Thi hành án hợp đồng với Trung tâm Bán đấu giá tài sản tỉnh bán một phần căn nhà 134 Lê Lợi để trả tiền cho các nguyên đơn. Ông Đa không giao nhà cho người mua, Thi hành án buộc phải cưỡng chế vào sáng 11-6.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 15/6/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.