Điểm tin báo chí sáng ngày 29 tháng 5 năm 2009

29/05/2009
Trong buổi sáng ngày 29/5/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

Báo Thanh niên phản ánh: Hôm qua 28.5, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã chuyển hồ sơ cùng kết luận điều tra bổ sung vụ án xảy ra tại Ban điều hành (BĐH) Đề án 112 sang Viện KSND tối cao. Theo đó, hai ông Vũ Đình Thuần (SN 1942) - nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Trưởng BĐH Đề án 112 Chính phủ và Lương Cao Sơn (SN 1957) - nguyên Phó giám đốc Trung tâm tin học Văn phòng Chính phủ, ủy viên thư ký BĐH Đề án 112 Chính phủ, được đình chỉ điều tra tội danh tham ô tài sản liên quan đến việc phạm tội của Nguyễn Thúy Hà - Giám đốc Công ty TNHH công nghệ tin học ISA.

Trước đó, Cơ quan CSĐT đã đề nghị truy tố 20 bị can về các tội “tham ô tài sản; lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281.BLHS); lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi”. Tại bản kết luận điều tra số 4 ngày 2.1.2009, ông Thuần, ông Sơn, Hà bị đề nghị truy tố về tội tham ô tài sản, chiếm đoạt 510 triệu đồng. Quá trình điều tra bổ sung thấy hành vi của 3 người này phạm vào tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ nên Cơ quan CSĐT đã ra quyết định đình chỉ điều tra đối với ông Thuần và ông Sơn. Còn Hà được thay đổi tội danh sang Điều 281. Theo điều tra, ông Thuần được hưởng lợi 200 triệu đồng, ông Sơn hưởng lợi 130 triệu đồng. Hà đồng phạm với ông Sơn hưởng lợi 100 triệu đồng. Ngoài khoản hưởng lợi riêng của mình, ông Thuần phải chịu trách nhiệm chung đối với toàn bộ số tiền 510 triệu đồng. Vì vậy Cơ quan CSĐT đề nghị Viện KSND tối cao truy tố cả 3 người theo Điều 281.

Kết luận lần này cũng nêu rõ, những hành vi khác của ông Thuần, ông Sơn và các bị can khác vẫn được Cơ quan CSĐT, Bộ Công an giữ nguyên quan điểm đề nghị Viện KSND tối cao truy tố theo bản kết luận số 4.

Báo cũng phản ánh: Bộ Công an vừa ban hành Thông tư 27 nhằm thay thế quyết định đã ban hành trước đây quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát giao thông (CSGT) đường bộ.

Theo đó, ngoài những chức năng, nhiệm vụ theo quy định trước đây, CSGT đường bộ có thêm một số quyền hạn mới như tùy theo từng trường hợp có thể bí mật sử dụng các phương tiện, thiết bị nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. CSGT được mặc thường phục để tuần tra, kiểm soát, khi phát hiện hay ghi nhận các hành vi vi phạm phải thông báo ngay cho lực lượng tuần tra, kiểm soát công khai để ngăn chặn, hoặc sử dụng giấy chứng minh CAND hoặc giấy chứng nhận CSND để cho người vi phạm biết về việc đang thực hiện nhiệm vụ.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Từ một giấy cho nhà-đất: Minh bạch hóa thông tin bất động sản". Bài báo phản ánh: Hôm qua (28-5), vấn đề sửa Luật Đất đai, Luật Nhà ở để thống nhất một giấy chứng nhận cho cả quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã được Chính phủ trình Quốc hội. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã báo cáo thẩm tra, cơ bản tán thành sửa đổi này. Tuy nhiên, vấn đề đăng ký đất, tài sản trên đất vào một giấy liên quan mật thiết tới dự án Luật Đăng ký bất động sản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo.

Trả lời Pháp Luật TP.HCM về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết: Những gì tinh túy nhất của dự án Luật Đăng ký bất động sản đã được lọc ra, đưa vào dự luật trình Quốc hội để xử lý chuyện một giấy. Còn trình tự, thủ tục cấp chứng nhận cũng như đăng ký biến động tài sản, Chính phủ sẽ giải quyết được ngay, miễn là được Quốc hội chấp nhận như đề xuất: một giấy và một đầu mối.

. Nhưng trong Ủy ban Pháp luật có lo ngại rằng quá nhiều loại tài sản trên đất mà ngay một lúc giao cho một đầu mối là Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất chứng nhận thì sẽ rất phức tạp, khó khăn…

+ Đã liên quan đến bất động sản thì càng phải một đầu mối. Các nước cũng tập trung một đầu mối đăng ký đấy thôi. Như dự thảo, cấp giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh và huyện thông qua đầu mối văn phòng đăng ký bất động sản. Trước mắt thì như vậy nhưng lâu dài Văn phòng Đăng ký bất động sản các quận, huyện, tỉnh phải tập trung thành hệ thống dọc. Tùy nhu cầu trong dân mà có thể một hoặc vài huyện có một văn phòng. Các văn phòng đó liên kết, trao đổi thông tin chặt chẽ với trung tâm dữ liệu bất động sản ở trung ương để tích hợp tất cả thông tin về bất động sản được đăng ký trên cả nước. Đến lúc ấy, tình trạng pháp lý của bất cứ mảnh đất nào, bất động sản nào đều phải được công khai và chính xác để bất cứ cơ quan quản lý hay người dân quan tâm cũng có thể biết được.

. Trên địa bàn có thể có cả những công trình lớn do trung ương quản lý, rồi có yếu tố nước ngoài mà để văn phòng cấp huyện làm đầu mối đăng ký sở hữu, liệu có quá sức?

+ Thực ra, trên địa bàn mình quản lý thì mới nắm bắt được thông tin về tài sản đó. Đất do ai cấp, tài sản trên đó do cơ quan nào cấp phép để xây dựng, hình thành... không quan trọng. Đăng ký bất động sản ở đây chỉ là đăng ký tình trạng pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý cũng như cho hoạt động giao dịch của chủ sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản trên đất cũng như những đối tượng khác có liên quan.

. Vấn đề gây tranh cãi lâu nay là quyền sở hữu với tài sản trên đất đó hình thành ngay khi tài sản được tạo lập hay phải chờ đến khi được đăng ký sở hữu mới phát sinh. Nay thực hiện cơ chế một giấy, xử lý vấn đề này thế nào?

+ Hai chuyện khác nhau. Đăng ký chẳng qua là để có bằng chứng pháp lý để được bảo hộ mạnh mẽ hơn với chủ tài sản đó. Ví dụ, tôi có nhà rồi thì dù đăng ký hay không, tài sản đó vẫn thuộc sở hữu của tôi. Nhưng mang đi giao dịch, trừ khi đối tác là quen biết, tin tưởng nhau thì có đăng ký sở hữu vẫn thuận lợi hơn. Như vậy, đăng ký không làm xác lập quyền sở hữu mà chỉ để chứng thực về mặt pháp lý quyền dân sự đó.

. Dự luật Chính phủ trình Quốc hội mới chỉ giải quyết vấn đề nguyên tắc nhất là một giấy, một cửa. Vậy nếu được thông qua, Chính phủ sẽ phải tiến hành những công việc nào nữa để việc đăng ký quyền sử dụng nhà và quyền sở hữu tài sản trên đất đi vào cuộc sống?

+ Chính phủ đề nghị 1-8 sửa đổi này có hiệu lực. Để triển khai trên thực tế, Chính phủ sẽ phải ban hành nghị định về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất cũng như đăng ký biến động. Vấn đề này đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu kỹ trong dự án Luật Đăng ký bất động sản, giờ chuyển thành nghị định chắc không khó. Mẫu sổ hợp nhất thì Bộ Tài nguyên và Môi trường bắt tay xây dựng rồi. Hoàn toàn có thể triển khai đúng hạn được.

. Ông có thể cho biết xử lý kỹ thuật về trình tự thủ tục cấp một giấy sẽ thế nào?

+ Sổ chứng nhận đó vẫn dựa trên nền thông tin về thửa đất. Trên đó anh xây nhà thì phải làm thủ tục xin phép ngành xây dựng. Công trình hoàn công, được nghiệm thu thì anh mang hồ sơ đó đến Văn phòng Đăng ký bất động sản và sẽ được ghi nhận quyền sở hữu tài sản đó vào hồ sơ. Người dân sẽ phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, tài liệu theo quy định về ngôi nhà. Trong quá trình thẩm định hồ sơ, cần tìm hiểu gì thêm, văn phòng sẽ tự trao đổi với cơ quan quản lý về xây dựng. Đăng ký xong rồi, mua bán, chuyển nhượng hay cầm cố, thế chấp tài sản đó, chủ sở hữu chỉ cần đến văn phòng làm thủ tục.

. Câu chuyện sổ đỏ, sổ hồng, rồi sổ xanh tranh cãi mấy năm nay giờ mới hợp nhất được. Nhiều ý kiến cho rằng chẳng qua vì va chạm lợi ích bộ, ngành. Vậy dự luật như Chính phủ trình liệu hóa giải được hết xung đột lợi ích đó?

+ Tôi không nghĩ lợi ích cục bộ dẫn tới nhiều giấy. Vấn đề là quá trình lập pháp vừa qua, chúng ta đã không nhìn được toàn diện nên ban hành Luật Đất đai thì sinh ra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm Luật Nhà ở thì thêm giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà dẫn tới phát sinh phức tạp cho dân. Khắc phục một giấy thì Chính phủ đã rất tích cực, thậm chí xung phong đẩy nhanh tiến độ dự án Luật Đăng ký bất động sản sớm một năm, 2008 đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội rồi. Nhưng nhận thức chưa giống nhau nên không được đưa ra Quốc hội. Chứ nếu thống nhất được thì nghị quyết của Quốc hội về một giấy năm 2007 đã có thể thực thi sớm hơn nhiều rồi chứ không phải đợi tới hôm nay.

Báo cũng có bài Luật vênh nhau, dân lãnh đủ. Bài báo phản ánh: Giao dịch nhà đất đang có sự chỏi nhau giữa các luật đất đai, nhà ở và công chứng. (Nhân đọc bài “Huyện Củ Chi: Dân thị trấn phải đi công chứng xa”, Pháp Luật TP.HCM ngày 23-5 và bài “Bình Thuận: Cắt chứng thực, công chứng quá tải”, Pháp Luật TP.HCM ngày 28-5).

Trước đây, thẩm quyền chứng thực, công chứng được thực hiện tương đối đơn giản theo Nghị định 75 năm 2000 của Chính phủ. Chừng khi có Luật Đất đai năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Luật Công chứng năm 2006, thẩm quyền chứng thực, chứng nhận các hợp đồng về nhà đất có nhiều thay đổi dẫn đến nhiều cách hiểu và thực hiện khác nhau, không địa phương nào giống địa phương nào.

Luật Đất đai lấy đối tượng giao dịch làm chuẩn để có sự phân định như sau: Nếu người tham gia giao dịch là hộ gia đình, cá nhân thì được quyền chọn lựa hoặc công chứng tại các cơ quan công chứng hoặc chứng thực tại UBND xã, phường, thị trấn. Trường hợp giao dịch có yếu tố nước ngoài thì phải đi công chứng. Tuy nhiên, Luật Nhà ở lại có hướng dẫn khác hẳn khi lấy vị trí của bất động sản làm chuẩn. Theo đó, nhà tại đô thị được chọn lựa hoặc công chứng tại các cơ quan công chứng hoặc chứng thực tại UBND cấp huyện; nhà tại nông thôn thì được chứng thực tại UBND xã. Ngược lại, Luật Công chứng lại lấy loại việc làm chuẩn: việc chứng nhận các hợp đồng, giao dịch là nhiệm vụ của các cơ quan công chứng; việc chứng thực bản sao, chữ ký là nhiệm vụ của phòng tư pháp cấp huyện và UBND cấp xã. Khi cả ba luật đều đang có hiệu lực thi hành, các cơ quan chức năng phải thực hiện như thế nào để đảm bảo được sự thống nhất?

Trở lại việc dân Củ Chi và các huyện khác của TP.HCM phải đi công chứng xa, theo quy định chung thì xã, phường, thị trấn ngang quyền nhau. Vậy nên Luật Đất đai mới cho phép người dân đến UBND xã, phường, thị trấn để chứng thực các hợp đồng về đất. Ngặt nỗi Luật Nhà ở chỉ đề cập đến quyền hạn của UBND xã trong việc chứng thực hợp đồng về nhà tại nông thôn. Trong khi đó, do thị trấn là đô thị nên theo Luật Nhà ở thì những giao dịch về nhà tại thị trấn không được đến UBND xã. Nhưng nếu đến UBND huyện thì lại chỏi với Luật Đất đai ở chỗ luật này không ấn định cho UBND huyện quyền chứng thực các hợp đồng về đất của các cá nhân. Để tránh né mâu thuẫn này, Quyết định 94 năm 2007 của UBND TP.HCM đã bắt buộc người dân ở các thị trấn phải đến các cơ quan công chứng để được công chứng hợp đồng, giao dịch về nhà ở. Thế nhưng xem ra quy định này cũng không hoàn toàn phù hợp với Luật Nhà ở khi tước bỏ của người dân ngụ trong đô thị quyền được chọn lựa đến UBND huyện.

Đối với việc dân tỉnh Bình Thuận phải đi công chứng xa, nếu TP.HCM vẫn tiếp tục cho phép người giao dịch về đất (không nhà) hoặc về nhà tại nông thôn được ra UBND xã chứng thực thì tỉnh này lại buộc người dân các huyện xa TP Phan Thiết phải vượt hàng trăm cây số để đi công chứng. Đồng ý là Bình Thuận làm theo Luật Công chứng bằng cách phân loại vụ việc để phân loại thẩm quyền công chứng, chứng thực nhưng nên nhớ đến giờ vẫn chưa có văn bản nào phủ nhận thẩm quyền giải quyết của UBND xã, huyện theo hai luật Đất đai, Nhà ở.

Nếu luật sau có sự “dòm ngó” luật trước để hạn chế đến mức tối đa những khác biệt không cần thiết thì người dân đã không phải cực thân như lâu nay.

2. Báo An ninh thủ đô có bài Luật Thủ đô được đề nghị xây dựng và ban hành. Bài báo phản ánh: Sau 8 năm Pháp lệnh Thủ đô có hiệu lực (từ 3-2-2001) và áp dụng vào thực tiễn nhưng đến nay nảy sinh rất nhiều bất cập. Để khắc phục vấn đề này, UBND TP Hà Nội đã có tờ trình gửi ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp kiến nghị sớm xây dựng và ban hành Luật Thủ đô...

Kể từ khi Pháp lệnh Thủ đô ra đời đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng Thủ đô, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên đến nay, việc áp dụng, thi hành Pháp lệnh này đã nảy sinh nhiều bất cập, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển Thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Mới đây, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch HĐND, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội Ngô Thị Doãn Thanh đã chủ trì buổi làm việc với Thường trực HĐND, UBND, UB MTTQ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân TP Hà Nội. Tại buổi làm việc, đại diện lãnh đạo của các cơ quan ban, ngành đã đề cập việc kiến nghị ủy ban Thường vụ QH cho ý kiến triển khai xây dựng Luật Thủ đô. Sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định 81/2006/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Chính phủ cần xem xét phương án giải quyết kinh phí thu được từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm và hỗ trợ giảm nghèo; tăng cường thanh tra, kiểm tra các dự án đầu tư…

Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo cũng khẳng định, hiệu lực của Pháp lệnh Thủ đô còn chưa cao, Pháp lệnh bị ràng buộc về thứ bậc hiệu lực pháp lý của các luật liên quan. Về mặt nội dung, Pháp lệnh mới chỉ dừng lại ở việc đặt ra các mục tiêu, phương hướng, chính sách xây dựng và phát triển Thủ đô mà chưa tạo được căn cứ pháp lý cụ thể, chưa có tính khả thi trong quá trình thực hiện. Đặc biệt, khi Quốc hội thông qua Nghị quyết mở rộng địa giới hành chính TP Hà Nội thì thực tiễn đó đòi hỏi một số mục tiêu, phương hướng cần phải được xác định lại cho phù hợp với vị trí và vai trò mới của Thủ đô. Vì vậy, Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội rất cần được điều chỉnh phù hợp với giai đoạn phát triển mới và cần được nâng lên thành Luật Thủ đô.

Theo ông Phạm Xuân Phương - Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hà Nội: “Có thể nói, trong quá trình thực hiện và áp dụng Pháp lệnh Thủ đô vào thực tiễn đã nảy sinh khá nhiều vấn đề bất cập. Những bất cập không chỉ khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính mà ngay khi Pháp lệnh Thủ đô có hiệu lực thi hành. Vì khi triển khai các cơ chế chính sách đặc thù được áp dụng điều chỉnh bằng Pháp lệnh thì hiệu lực bị hạn chế rất nhiều. Đơn cử, việc xử phạt hành chính, khi áp dụng Pháp lệnh vẫn phải chịu tác động các quy định khác của Nhà nước và Luật Hành chính mà không được vượt quá. Cũng chính vì hiệu lực của Pháp lệnh còn thấp, vướng phải các văn bản cao hơn là luật và bộ luật nên không triển khai được các cơ chế đặc thù dành riêng cho Hà Nội. Từ nhiều bất cập đó, Thủ đô cần xây dựng và nâng tầm từ Pháp lệnh Thủ đô lên thành Luật Thủ đô. Từ đó sẽ giúp việc triển khai các cơ chế đặc thù cho Hà Nội được thực hiện một cách hoàn thiện. Tuy nhiên, trước khi nâng Pháp lệnh Thủ đô trở thành Luật Thủ đô và trình Chính phủ, thông qua đưa vào chương trình làm luật thì phải được đánh giá tổng kết”.

Luật sư Nguyễn Trọng Tỵ - Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội khẳng định: “Năm 2001, Pháp lệnh Thủ đô ra đời đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, của chính quyền và nhân dân Thủ đô. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của Thủ đô Hà Nội thì đối tượng thuộc Pháp lệnh điều chỉnh này xảy ra nhiều bất cập. Do vậy, từ sự kế thừa của Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội cần xây dựng và nâng tầm lên thành Luật Thủ đô. Khi Luật Thủ đô ra đời sẽ chi tiết hóa công tác quản lý, tạo ra cơ chế, chính sách đồng bộ, thuận lợi để Hà Nội cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn lực, phát triển sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ ở các ngành, các cơ sở kinh tế... Từ đó, tạo sự chuyển biến thúc đẩy phát triển kinh tế của Thủ đô. Đồng thời, góp phần thu hút lao động, đầu tư trong nước, thúc đẩy giao lưu, liên kết, hỗ trợ, phát triển kinh tế của cả vùng Thủ đô. Mặt khác, sẽ tạo hành lang pháp lý để Thủ đô Hà Nội thực hiện tốt hơn công tác bảo tồn, khai thác và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các công trình có giá trị về kiến trúc, lịch sử, cách mạng...”.

Đồng tình với những quan điểm trên, Luật sư Nguyễn Quang Sơn-Trưởng văn phòng Luật sư Thành Đô (thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cũng cho rằng: “Pháp lệnh Thủ đô hiện nay không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và chính trị của Hà Nội. Văn bản pháp luật nếu để ở Pháp lệnh thì hiệu lực pháp lý chưa cao, còn dưới các văn bản luật khác có liên quan. Vì vậy, Pháp lệnh Thủ đô cần được nâng lên thành Luật Thủ đô là việc rất cần thiết. Khi đó, nó sẽ tạo thêm điều kiện pháp lý, khắc phục được tình trạng quy hoạch, đầu tư, xây dựng, quản lý và phát triển Thủ đô còn nhiều bất cập, hạn chế như hiện nay”.

3. Báo điện tử Vietnamnet có bài Công chứng viên Hà Nội muốn lập hiệp hội. Bài báo phản ánh: Tại Hội nghị về tổ chức và hoạt động của Tổ chức hành nghề công chứng được Sở Tư pháp Hà Nội tổ chức sáng nay (28/5), nhiều công chứng viên từ 39 văn phòng công chứng (VPCC - công chứng tư) bày tỏ mong muốn tăng cường sự liên kết chia sẻ thông tin và tiến tới thành lập Hiệp hội công chứng của thành phố.

Nguyên trưởng Phòng công chứng số 3, ông Nguyễn Đình Tú, hiện là Trưởng VPCC Nguyễn Tú bức xúc: "Chúng ta đã đông rồi, đã đến lúc phải có sự liên kết bởi giữa các VPCC rất cần chia sẻ thông tin. Nếu bây giờ của ai người ấy dùng thì còn gì nữa!".Ông cũng nêu lên một điều "rất nguy hiểm" là ngay 9 phòng công chứng (Nhà nước) hiện cũng không chia sẻ với nhau những thông tin thiết thực như văn bản ngăn chặn về thi hành án, tranh chấp... Ông Tú đề nghị trước mắt, Sở Tư pháp cần yêu cầu 9 phòng công chứng phải liên kết với nhau, sau đó nếu có các thông tin ngăn chặn gì thì có thể cung cấp cho các văn phòng công chứng.

Ông Phạm Thanh Cao, Trưởng phòng quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp cho rằng nhu cầu này là chính đáng. "Sự liên kết này sẽ đảm bảo cho hợp đồng, giao dịch không bị trùng lặp. Thêm vào đó, chia sẻ thông tin cũng giúp ngăn chặn được các hành vi sai phạm như trường hợp đã xảy ra là một hợp đồng lại được thực hiện giao dịch ở hai nơi khác nhau". Ông cũng cho biết Sở Tư pháp sẽ xây dựng một mạng cơ sở dữ liệu chung, tuy nhiên việc này đòi hỏi kinh phí không nhỏ. Sở cũng sẵn sàng giữ vai trò là đầu mối chính tích cực chuẩn bị về tổ chức và nhân sự cho việc xây dựng đề án thành lập Hiệp hội công chứng Hà Nội trước năm 2010.

Ngoài ra, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong việc thành lập VPCC cho phù hợp vị trí địa lý cũng như khả năng cạnh tranh lành mạnh, Sở Tư pháp sẽ thực hiện việc xây dựng bản đồ quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng từ nay đến năm 2015, trên địa bàn Hà Nội mở rộng. Thành phố sẽ ưu tiên phát triển tổ chức hành nghề công chứng tại các huyện vùng sâu, vùng xa với các biện pháp hỗ trợ cụ thể như giảm thuế cho các VPCC mở tại những vùng này.

Hà Nội hiện có 9 phòng công chứng và 39 văn phòng công chứng đang hoạt động với tổng cộng hơn 80 công chứng viên, tập trung chủ yếu ở nội thành.

Báo cũng có bài “Từ chuyện “sổ đỏ” “sổ hồng” nghĩ về cách làm luật”. Bài báo phản ánh: “Sửa luật lần này theo hướng 1 giấy, 1 đầu mối. Để rối mãi, xã hội day dứt lắm”- Phó chủ tịch QH Nguyễn Đức Kiên nói về việc hợp nhất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) do Bộ Tài nguyên - môi trường cấp và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà (sổ hồng) lại Bộ Xây dựng quản đã tạo nên một hệ thống đăng ký không thống nhất, thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau, với nhiều mẫu giấy khác nhau khiến cho người dân gặp nhiều khó khăn. Việc hợp nhất được xem là xu thế tất yếu, đảm bảo tinh thần cải cách thủ tục hành chính theo hướng gọn nhẹ, tiện lợi cho người dân. Nhưng cuộc “tranh cãi” liên quan đến hợp nhất hai cuốn sổ này đã giằng dai với những “lời qua tiếng lại” giữa Bộ Xây dựng và Bộ Tài nguyên và môi trường suốt 15 năm qua. Điều đó khiến dư luận phải đặt câu hỏi: Liệu có hay không câu chuyện các Bộ vì lợi ích của mình mà không thực sự chăm lo đến lợi ích của người dân, hay đó là sai sót của quá trình lập pháp?

Mang câu hỏi này tới Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường, ông nói luôn: câu chuyện “sổ đỏ”, “sổ hồng” là “khuyết điểm của quá trình làm luật. Quá trình xây dựng các dự án luật của Việt Nam đôi khi chưa có cái nhìn tổng quát.Người đứng đầu Bộ tư pháp quả quyết: “không phải vì lợi ích cục bộ mà người ta có nhiều giấy. Vấn đề là trong quá trình xây dựng luật chúng ta chưa có cái nhìn toàn diện, thành để phát sinh như vậy”.

Nhưng Phó Chủ tịch QH Nguyễn Đức Kiên “cự” lại: “Từ xưa tới nay, QH luôn nhất quán chủ trương một giấy”. “QH đã bao giờ nói hai giấy đâu. Năm 2003, QH nói một giấy. Năm 2005, QH nói một giấy, và đến tháng 11/2007, trước sự bức xúc của dân, QH đã phải tuyên bố một lần nữa về chủ trương một giấy, với Nghị quyết số 07/2007/QH12 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008”, ông Kiên dẫn chứng. Cũng có lợi ích này, lợi ích khác, quyền hành này, quyền hành khác mà các Bộ không thống nhất được với nhau, nên mới kéo dài tới 6 năm mà không ra được một giấy thống nhất. Đã quy định 1 giấy từ lâu nhưng không ai làm, vì nhiều lý do nào đấy tôi cũng không rõ lắm. Trời không chịu đất, đất không chịu trời, thôi thì khẳng định lại 1 lần nữa là 1 giấy. Sửa luật lần này theo hướng 1 giấy, 1 đầu mối còn quy trình thủ tục, thẩm quyền và mẫu giấy làm sao thì giao Chính phủ quy định rồi Chính phủ tự phân công Bộ ngành, ở địa phương là UBND giao cho đơn vị nào thì đơn vị đó làm. Còn để rối mãi, xã hội day dứt lắm”.

Nói về cuộc “tranh cãi” 15 năm qua, ông Đặng Hùng Võ nhớ lại, khi thảo luận về Luật đất đai năm 2003, trong đó có điều 48 liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã nêu vấn đề chỉ nên một giấy duy nhất. Tuy nhiên, trong Nghị quyết lại “thòng” quy định, phải sửa luật đất đai rồi mới thực hiện việc thống nhất. Nhưng mặc dù đã thông, thì việc thực hiện một giấy vẫn treo ở đó, không thể đi vào cuộc sống. Định hướng điều chỉnh nhưng lại không cụ thể chúng ta phải làm gì, do vậy “không thể nói 2 giấy là sai sót của quá trình làm luật”. Và rằng, dù đã nhìn rõ vấn đề, nhưng lúc đó, giữa hai Bộ: TN-MT và Bộ Xây dựng vẫn không thể thống nhất được. “Cuộc tranh cãi 15 năm xuất phát từ việc mỗi bộ đều muốn giữ quyền quản lý, nắm quyền lực của mình. Việc cấp giấy chính là cách cụ thể nhất để thể hiện quyền lực. Ngay cả khi thấy việc một giấy là đúng đắn và các nước trên thế giới đều áp dụng, thì các Bộ cũng không ai chịu ai. Thậm chí, thay vì tư duy hành chính của người làm luật và người quản lý chuyên nghiệp, đâu đó lại muốn chứng tỏ là mình đúng, khiến cho việc sửa sai chậm lại”.

Khác với các nước, ở ta, trên dưới 95% các dự án luật đều do các Bộ, ngành soạn thảo xây dựng và trình Quốc hội thông qua. Ban soạn thảo thường gồm Bộ trưởng chịu trách nhiệm chủ trì soạn thảo dự án luật- Làm trưởng ban; Các thành viên trong Ban soạn thảo gồm đại diện các bộ, ngành hữu quan. Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, việc soạn thảo văn bản pháp luật thường do các cơ quan của Chính phủ đảm nhận còn có nguyên nhân liên quan đến đòi hỏi về chuyên môn. Rất nhiều vấn đề của cuộc sống hiện đại là những vấn đề kỹ thuật chuyên sâu. Chính phủ mới có đủ lực lượng chuyên gia để hiểu và thiết kế được những thiết chế vận hành trên thực tế. Quốc hội sẽ không bao giờ có đủ một lực lượng chuyên gia như vậy cả.

Việc các bộ, ngành tìm cách cài cắm quyền năng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều hành của Bộ chủ quản vào trong luật, có thể, đúng là một vấn đề. Vì vậy, rất cần các vị đại biểu Quốc hội phải tường minh khi thẩm định các dự luật để loại bỏ điều đó đi? Việc thẩm định dự luật để loại bỏ sự lạm quyền dễ hơn là việc soạn thảo cả dự luật.

Trên đây là điểm báo sáng ngày 29/5/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.

Phòng Tổng hợp - Văn phòng.



File đính kèm