Điểm tin báo chí sáng ngày 25/9

25/09/2009
Trong buổi sáng ngày 25/9/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 24-9, Thanh tra Chính phủ đã tổ chức họp báo, giới thiệu Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, đã được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phê chuẩn (ngày 30-6-2009) và có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 18-9 vừa qua.

Việc ký Công ước thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, nâng cao vai trò và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được nội dung quy định của Công ước. Những vấn đề còn bất cập hoặc chưa đáp ứng yêu cầu của Công ước, nhưng phù hợp với lợi ích quốc gia và nâng cao hiệu quả công tác chống tham nhũng, Chính phủ sẽ có kế hoạch trình Quốc hội tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính phủ chỉ định Thanh tra Chính phủ là cơ quan đầu mối quốc gia hỗ trợ thông tin với quốc tế trong phòng, chống tham nhũng....

2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 24-9, Hội Nông dân (HND) TPHCM cho biết, hội sẽ yêu cầu Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam (Vedan) bồi thường 153,5 tỷ đồng cho người dân ở 3 xã Cần Thạnh, Thạnh An và Long Hòa (huyện Cần Giờ) bị thiệt hại do Vedan gây ô nhiễm sông Thị Vải gây ra. Phó Chủ tịch HND TPHCM Nguyễn Văn Phụng cho biết, tổng hợp thiệt hại mới đây của 1.181 đơn khiếu nại dựa trên những tiêu chí do Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đưa ra, thì thiệt hại của người dân ở huyện Cần Giờ lên đến 567 tỷ đồng. “Hiện nay Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM cũng đang tổ chức triển khai thực hiện đánh giá tác động tình trạng ô nhiễm môi trường sông Thị Vải do Vedan gây ra đối với công việc nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản của người dân huyện Cần Giờ. Công tác đánh giá này sẽ kết thúc trong tháng 11-2009 để bổ sung căn cứ khởi kiện tại tòa yêu cầu Vedan bồi thường”, ông Phụng cho biết thêm.

Cùng ngày, HND tỉnh Đồng Nai cho biết, yêu cầu Vedan bồi thường 120 tỷ đồng và HND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng yêu cầu bồi thường số tiền là 296 tỷ đồng. Như vậy, tổng số tiền mà HND 3 tỉnh, thành yêu cầu Vedan bồi thường cho người dân một phần bị thiệt hại là 569,5 tỷ đồng. Bởi trên thực tế, theo tổng hợp từ 11.000 đơn khiếu nại của người dân 3 tỉnh, thành trên thì số tiền kiện Vedan bồi thường thiệt hại lên đến 1.225 tỷ đồng.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) vừa có công văn gửi 3 tỉnh thành là Đồng Nai, TPHCM, Bà Rịa - Vũng Tàu về việc rà soát mức độ tác hại của việc ô nhiễm sông Thị Vải đến hệ sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, môi trường và đời sống người dân dọc sông Thị Vải. Theo đó, Sở TN-MT các tỉnh chịu trách nhiệm lập đề án đánh giá chất lượng nguồn nước mặt sông Thị Vải từ đó xác định mức độ ô nhiễm sông cũng như những tác hại từ việc ô nhiễm làm thiệt hại hệ sinh thái khu vực và xác định chi phí để có thể phục hồi chất lượng nguồn nước của sông.

Được biết, việc rà soát tự đánh mức độ ảnh hưởng cũng như những thiệt hại đến môi trường và kinh tế do 3 tỉnh thành thu thập được sẽ là căn cứ để yêu cầu Công ty Vedan bồi thường cho hành vi vi phạm môi trường mà đơn vị này đã gây ra.

Báo cũng phản ánh: Kết quả khảo sát tiền lương Việt Nam năm 2009 tại 163 công ty đang hoạt động ở 15 lĩnh vực, với 75 ngành nghề do Navigos Group thực hiện cho thấy mức lương gộp tăng bình quân 16,47%.

Kể từ tháng 4-2008 đến tháng 3-2009, bất chấp tình hình kinh tế suy giảm, mức lương gộp trong hầu hết các lĩnh vực đều tăng, trong đó bất động sản có mức tăng lương bình quân cao nhất là 23,25%; tài chính: 21,78%. Trong số các công ty tham gia khảo sát tiền lương năm nay, chiếm 47% là công ty 100% vốn nước ngoài. Thế nhưng, dù chỉ chiếm tỷ lệ tham gia khảo sát khiêm tốn (11,7%) nhưng các công ty trong nước lại có mức tăng lương bình quân (16,45%) - cao hơn mức tăng lương tại các công ty 100% vốn nước ngoài (15,61%).

Kết quả khảo sát cũng cho thấy các công ty ở các tỉnh, thành ở phía Nam có mức lương gộp tăng bình quân 20% so với TPHCM, Hà Nội. So với năm 2008, các chế độ phúc lợi trong tổng thu nhập của người lao động giảm thấp hơn chỉ còn 7% (năm ngoái là 16%). 

3. Báo Thanh niên phản ánh: Thời gian gần đây xảy ra nhiều vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, cơ quan chức năng đề nghị xử lý hình sự nhưng khi đem luật ra “soi” thì... bó tay! Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (BLHS) sắp có hiệu lực sẽ chấm dứt tình trạng này...

Sau khi Công ty Vedan VN (Đồng Nai) bị Cục Cảnh sát môi trường (C36) Bộ Công an phát hiện lắp đặt hệ thống ngầm xả trộm nước thải chưa xử lý ra sông Thị Vải, ngày 17.9.2008 Bộ trưởng Bộ TN-MT Phạm Khôi Nguyên phát biểu tại cuộc họp báo: “Bước đầu có đủ cơ sở pháp lý để xử lý hình sự và Bộ chuyển hồ sơ cho công an điều tra, đề nghị truy tố theo quy định pháp luật”. Lãnh đạo C36 cũng khẳng định chắc nịch: “Đây là việc làm có tính chất hệ thống và đặc biệt nghiêm trọng, đủ dấu hiệu tội gây ô nhiễm nguồn nước (điều 183 BLHS). C36 sẽ chuyển hồ sơ cho CQĐT đề nghị khởi tố hình sự để điều tra”. Thế nhưng, đến ngày 7.10.2008, Thanh tra Bộ TN-MT chỉ ra quyết định xử phạt hành chính Công ty Vedan 216,5 triệu đồng.

Ngày 10.10.2008, PC36 Công an TP.HCM bắt quả tang Công ty CP thuộc da Hào Dương xả nước thải chưa qua xử lý ra thẳng sông Đông Điền (H.Nhà Bè). Do đã nhiều lần bị xử phạt hành chính và kết quả xét nghiệm mẫu nước thải có hàm lượng Crôm VI (chất khả năng gây ra ung thư) vượt quá 30 lần cho phép nên PC36 chuyển hồ sơ cho CQĐT xem xét xử hình sự. UBND TP.HCM cũng có văn bản đề nghị Công an TP.HCM khẩn trương hoàn tất hồ sơ nhằm khởi tố vụ án. Đến ngày 15.4.2009, Công an TP.HCM ra văn bản trả lời: chưa đủ cơ sở để xử lý về tội gây ô nhiễm nguồn nước. Sau đó, Công ty Hào Dương chỉ bị UBND TP.HCM xử phạt hành chính với số tiền 58 triệu đồng.

Mới đây, ngày 7.7.2009, PC36 Công an tỉnh Đồng Nai bắt quả tang xe bồn mang biển số 57L-3431 của DNTN Tân Phát Tài (TP Biên Hòa) đổ trộm chất thải tại khu vực vườn tràm xã Thạnh Phú (H.Vĩnh Cửu). Kết quả phân tích mẫu nước thải là chất độc Cyanua, cộng với 2 lần công ty này bị xử phạt hành chính (ngày 30.10.2008 và ngày 3.7.2009) nên cơ quan chức năng cũng đề xuất xử lý hình sự. Thế nhưng, tại một cuộc họp sau đó với nhiều ban ngành tham dự, gồm cả Công an và Viện KSND tỉnh Đồng Nai, đi đến kết luận: không xử lý hình sự mà đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai xử phạt 30 triệu đồng, kiến nghị Bộ TN-MT rút giấy phép nếu kiểm tra không đủ năng lực...

Luật sư Trịnh Thanh, Đoàn luật sư Bà Rịa-Vũng Tàu, nhận định: “Muốn xử hình sự Vedan hay Hào Dương về tội gây ô nhiễm nguồn nước (điều 183 BLHS) thì điều kiện bắt buộc đầu tiên đơn vị vi phạm phải bị xử phạt hành chính về hành vi này trước. Trên thực tế, cả 2 đơn vị này nhiều lần bị xử hành chính. Nhưng việc xử phạt hành chính lâu nay chỉ áp dụng đối với pháp nhân; trong khi đó xử lý hình sự lại áp dụng đối với cá nhân (không xử lý phạt pháp nhân), nên khi xem xét xử hình sự các vụ việc trên thì không khả thi. Theo BLHS sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày 1.1.2010, thì đối với những loại hành vi nói trên, không cần xử phạt hành chính mà người nào có hành vi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng là có thể vào tù. Tuy nhiên, muốn áp dụng vào thực tiễn, các cơ quan như Bộ TN-MT, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao, Bộ Công an... cần nhanh chóng hướng dẫn chi tiết hơn vì có những hành vi mà hậu quả phải mất vài năm sau mới xác định được như bệnh tật của người dân, thay đổi về sinh thái có nguyên nhân từ ô nhiễm môi trường...”.

Ông Nguyễn Đức, Chủ tịch Hội Luật gia Đồng Nai, giải thích thêm: “Theo quy định mới, chỉ cần người nào có hành vi xả trộm, đổ trộm... nước thải (chất thải) chưa qua xử lý ra môi trường, gây ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Kế đó, những người chỉ đạo (kể cả lãnh đạo doanh nghiệp) xả trộm, đổ trộm... cũng phạm tội. Chẳng hạn như vụ Tân Phát Tài đổ trộm thì người tài xế phải chịu trách nhiệm hình sự trước, sau đó xem xét đến trách nhiệm của chủ doanh nghiệp có chỉ đạo đổ trộm hay không?".

Tuy nhiên, ông Đức cũng băn khoăn: “Cái khó là xác định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng hoặc làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Chẳng hạn, vụ Vedan đã xảy ra hơn 1 năm, nhưng chúng ta vẫn loay hoay chưa tính toán được mức độ thiệt hại thì làm sao biết được hậu quả do doanh nghiệp này gây ra? Hay như vụ Tân Phát Tài, cơ quan chức năng giám định được việc đổ trộm chất Cyanua thì cũng cần chứng minh chất này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, môi trường...”.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Mỗi nơi một kiểu hành luật sư". Bài báo phản ánh: Trong quá trình thực hiện quyền năng theo luật định, giới luật sư thường bị các cơ quan tố tụng hành lên hành xuống. Chẳng hạn, khi có nhu cầu tiếp xúc can phạm tại trại giam trước khi tòa xét xử vụ án, mặc dù luật sư đã xuất trình thẻ luật sư, giấy chứng nhận người bào chữa do các tòa cấp, giám thị trại giam của một số tỉnh vẫn yêu cầu luật sư phải có lệnh trích xuất của tòa mới giải quyết. Kẹt nỗi, đa số các tòa không đồng ý cấp lệnh đó vì theo họ, việc trích xuất phạm nhân là trách nhiệm của cơ quan giam giữ chứ không phải của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án).

Đáng lưu ý là tại TP.HCM không có tình trạng này. Với thẻ luật sư, giấy chứng nhận người bào chữa do luật sư xuất trình, các cơ quan giam giữ (Trại tạm giam Chí Hòa, nhà tạm giữ công an các quận, huyện) chủ động làm thủ tục trích xuất can phạm để luật sư làm việc. Tuy nhiên, TAND TP.HCM cũng có những tréo ngoe khác gây khó cho luật sư. Như trong việc sao chép tài liệu, hồ sơ vụ án, sau khi tiếp nhận phiếu yêu cầu của luật sư, tòa hình sự sẽ hẹn ngày luật sư đến nộp lệ phí và nhận các bản phôtô tài liệu mà luật sư đã đề nghị. Ngược lại, tòa dân sự cho phép luật sư dùng máy ảnh kỹ thuật số chụp các tài liệu mà luật sư đã ghi rõ trong phiếu yêu cầu.

Trong việc làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giữa TAND TP.HCM với Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM cũng khác nhau. Tòa hình sự TAND TP.HCM sẽ cấp ngay giấy chứng nhận với điều kiện thân nhân của bị cáo (vợ, chồng, cha, mẹ, anh, chị...) có đơn nhờ luật sư bào chữa cho bị cáo. Thế nhưng Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM chỉ cấp giấy này khi có đơn của chính bị cáo nhờ luật sư bào chữa.

Báo cũng có bài “Chở trẻ em phải mang theo giấy khai sinh”. Bài báo phản ánh: CSGT phải xác định độ tuổi của trẻ em không đội mũ bảo hiểm để xử phạt. Trường hợp người điều khiển phương tiện chứng minh được mình không vi phạm, CSGT phải hủy biên bản và hoàn lại tiền. “Điều quan trọng là chúng ta phải tuyên truyền để phụ huynh tự giác đội mũ bảo hiểm (MBH) cho con em khi tham gia giao thông”. Đó là ý kiến của bà Trịnh Thị Minh Hiền - Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Giao thông Vận tải) tại cuộc gặp gỡ báo chí do Bộ GTVT tổ chức ngày 24-9. Ngay từ đầu, cuộc gặp đã trở nên “nóng” với hàng loạt câu hỏi về tính pháp lý trong việc xử phạt hành vi chở trẻ em trên sáu tuổi bằng xe máy nhưng không đội MBH.

Theo thượng tá Trần Sơn, Phó Trưởng phòng Hướng dẫn luật và điều tra xử lý tai nạn giao thông (Cục CSGT đường bộ-đường sắt), khi phát hiện xe máy chở trẻ em không đội MBH, CSGT sẽ nhìn bên ngoài để xác định độ tuổi của trẻ và lập biên bản vi phạm. Trường hợp người điều khiển phương tiện chứng minh được mình không vi phạm, CSGT phải hủy biên bản và hoàn lại tiền. Ông Sơn cho rằng việc xây dựng tiêu chí cân nặng, chiều cao làm căn cứ xác định độ tuổi của trẻ là rất khó. Do đó, các bậc phụ huynh cần mang theo giấy khai sinh để chứng minh con em mình dưới sáu tuổi.

Viện dẫn quy định hiện nay trẻ em khi đi máy bay cũng phải mang theo giấy khai sinh, ông Lê Mạnh Hùng, Thứ trưởng Bộ GTVT, tán đồng ý kiến của ông Sơn. Ông Hùng cho rằng nếu xảy ra tranh cãi trong việc xác định độ tuổi của trẻ, lực lượng chức năng chỉ được lập biên bản, giữ giấy tờ chứ không phạt tiền. Sau khi cung cấp được giấy tờ chứng minh em bé đó dưới sáu tuổi, người điều khiển phương tiện sẽ được trả lại giấy tờ.

Tuy nhiên, quan điểm này không được các đại biểu đồng tình. Một số ý kiến cho rằng không có quy định nào bắt buộc người điều khiển xe máy khi chở trẻ em phải mang theo giấy khai sinh của trẻ. Lực lượng CSGT phải có trách nhiệm chứng minh người điều khiển giao thông vi phạm để làm căn cứ xử phạt, chứ không thể vì khó xác định độ tuổi mà đẩy trách nhiệm cho người tham gia giao thông.

Ở khía cạnh khác, có đại biểu còn yêu cầu khi người điều khiển phương tiện chứng minh được mình không sai, ngoài việc trả lại giấy tờ, lực lượng CSGT phải có trách nhiệm đền bù thiệt hại kinh tế cho họ.

Báo cũng có bài Phản biện của nhà khoa học là bắt buộc. Bài báo phản ánh: Bên lề hội nghị sơ kết giai đoạn I Đề án 30 tại TP.HCM ngày 24-9, Phó Chủ tịch thường trực UBND TP.HCM Nguyễn Thành Tài (ảnh) đã dành cho Pháp Luật TP.HCM cuộc trao đổi ngắn xung quanh những vấn đề mà loạt bài “Để quy định pháp luật không nằm trên giấy” đặt ra.

. Thưa, ông đánh giá thế nào về tình trạng nhiều văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) do TP ban hành gặp nhiều vướng mắc khi triển khai thực hiện?

+ Đúng là bên cạnh nhiều văn bản TP ban hành đi vào cuộc sống một cách suôn sẻ thì cũng có một số văn bản gặp trục trặc như báo nêu. Không vì thế mà cho rằng quy trình soạn thảo văn bản hiện nay có vấn đề nhưng cần nhìn nhận đó là bài học cần rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc. Có nhiều quyết định được lấy ý kiến rất nhiều, rất kỹ nhưng khi thực hiện vẫn vướng mắc. Nguyên nhân trước hết là lấy ý kiến nhiều nhưng góp ý không đủ. Hai là bộ phận soạn thảo nghiên cứu không tới. Thêm vào đó, do quy định mới chưa áp dụng trong thực tế nên chưa thấy bộc lộ những hạn chế, vì vậy mà cứ thống nhất. Đến khi ban hành, triển khai vào cuộc sống lại nảy sinh nhiều vấn đề. Qua đó cho thấy thực tiễn chính là thước đo tính chính xác và hợp lý của các văn bản và chúng ta phải nhìn nhận để có sự điều chỉnh hợp lý.

. Để hạn chế những văn bản bị trục trặc khi triển khai thực hiện, TP có yêu cầu gì đối với các sở, ngành, quận, huyện trong quá trình ban hành văn bản?

+ Trước hết, các đơn vị soạn thảo và tham gia góp ý cần rút kinh nghiệm, quá trình lấy ý kiến phải sát với thực tiễn để văn bản ban hành không còn chung chung. Những điều quan trọng thì các sở, ngành phải có quan điểm rõ ràng. Cần lưu ý soát xét, đối chiếu lại nhiều mặt để cân nhắc kỹ trước khi ban hành văn bản.

. Còn việc tham gia phản biện, góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học thì sao, thưa ông?

+ Phải nhìn nhận sự tham gia phản biện, góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học vào quá trình ban hành VBQPPL là điều bắt buộc. Tùy theo tính chất và yêu cầu của từng vấn đề để lấy ý kiến phù hợp với từng đối tượng. Có văn bản sẽ lấy ý kiến riêng của chuyên gia, các nhà khoa học; có nội dung cần sự góp ý rộng rãi của quần chúng, hoặc cũng có những vấn đề đưa ra báo giới góp ý kiến... Càng nhiều nguồn thông tin và mỗi đối tượng có một góc nhìn khác nhau thì việc ban hành văn bản sẽ chất lượng hơn. Nếu chỉ góp ý chung chung thì dù số đông cũng chưa chắc đã đúng.

. Có thực tế là sự thiếu chủ động của cấp thực hiện cũng góp phần làm văn bản khó đi vào cuộc sống, thưa ông?

+ Sự chủ động của cấp thực hiện rất quan trọng. Khi có một chủ trương, cấp thực hiện cần nghiên cứu kỹ để nắm được tinh thần của văn bản. Có những văn bản không thể chuyển tải hết ý tứ của lãnh đạo thì cần có sự trao đổi trong nội bộ các cấp để hiểu sát nội dung của văn bản thì mới triển khai thực hiện tốt. Cấp cơ sở cũng cần chủ động lên kế hoạch phối hợp với các đơn vị khác để triển khai thực hiện quy định mới. Ngoài ra phải có sự phân công rõ ràng ai thực hiện và ấn định chỉ tiêu hoàn thành để kiểm tra, giám sát. Nếu làm được những yêu cầu này thì việc triển khai các quy định pháp luật vào cuộc sống sẽ tốt hơn.

2. Báo điện tử Vietstok có bài 4 năm thực hiện Luật Cạnh tranh : “DN vẫn... ngại kiện”. Bài báo phản ánh: Đó là nhận xét của ông Trần Hữu Huỳnh - Trưởng ban Pháp chế - VCCI sau loạt hội thảo “Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh: Kinh nghiệm EU và bài học cho VN” nằm trong Chiến dịch truyền thông về các hành vi hạn chế cạnh tranh tại 5 thành phố lớn từ 14 - 22/9 do dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU-VN MUTRAP III) phối hợp với VCCI tổ chức. Ông Trần Hữu Huỳnh cho rằng, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến DN rất băn khoăn khi đưa ra quyết định khởi kiện theo Luật Cạnh tranh.

- Ông có thể nói rõ hơn về mục tiêu và đối tượng chính mà Chiến dịch truyền thông về các hành vi hạn chế cạnh tranh nhắm tới?

Luật Ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật năm 2008 cũng quy định việc xem xét định kỳ về nguy cơ chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không hợp lý, không khả thi của các văn bản Quy phạm pháp luật. Việc xem xét này sẽ tiến hành so sánh lợi ích thu được và chi phí phải bỏ ra trong việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật... để từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định không phù hợp.

Ngoài ra, Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 3/12/2004 và chính thức có hiệu lực từ 1/7/2005. Tuy nhiên, từ khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực đến nay, ở VN mới chỉ có một số ít vụ điều tra và xử lý liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh. Điều này chứng tỏ môi trường cạnh tranh tại VN cần hoàn thiện hơn nữa và vai trò của Luật Cạnh tranh cần được phát huy hơn nữa. Một trong những hạn chế là Luật Cạnh tranh mặc dù đã có hiệu lực hơn 4 năm nhưng những hiểu biết về nó vẫn giới hạn trong một số ít người mà chưa lan tỏa đến từng DN - đối tượng chính của pháp luật cạnh tranh.

Đó là cơ sở để chúng tôi thực hiện Chương trình tuyên truyền về các hành vi hạn chế cạnh tranh với đối tượng chính tham gia là các DN, các chuyên gia và đại diện các cơ quan quản lý. Với chương trình này, chúng tôi muốn phá băng nhận thức về Luật Cạnh tranh. Giải đáp những băn khoăn về việc áp dụng trong những tình huống cụ thể. Bởi các khái niệm liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh đã được DN hiểu, nhưng họ còn rất băn khoăn về việc áp dụng.

- Ông có thể nói rõ hơn về những “băn khoăn” của DN ? Phải chăng những băn khoăn ấy liên quan tới việc xử lý các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh giữa các DNNVV và các DN lớn, DNNN ?

Trước tiên tôi xin nhắc lại rằng Luật Cạnh tranh nói riêng và các luật nói chung không có sự phân biệt giữa DN lớn và DN nhỏ. Tuy nhiên, trên thực tế các DNNVV vẫn có băn khoăn khi áp dụng thực tế. Có những khó khăn khách quan như việc DN khởi kiện phải tự thu thập tài liệu, chứng minh các vấn đề liên quan đến thị phần, thị trường liên quan... để chứng minh có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh hoặc hạn chế cạnh tranh. Đây là những yêu cầu có thể nói là vượt quá khả năng của các DNNVV vì để thu thập được các thông tin này từ các cơ quan chức năng không dễ. Ngoài ra, vấn đề phí khởi kiện đối với các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh là 10 triệu đồng và với các hành vi hạn chế cạnh tranh là 100 triệu đồng cũng là một vấn đề với các DNNVV.

Một vấn đề khác cũng rất quan trọng, đó là bản thân các DN NVV cũng không có được niềm tin vào thắng lợi của mình. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi vấn đề tính độc lập của các cơ quan như Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh vẫn chưa rõ ràng, tên tuổi của những thành viên trong Hội đồng cạnh tranh cũng chưa được DN biết đến nhiều... Đó là chưa nói đến trường hợp DN kiện đúng phải các đối tác không thể thay thế dẫn tới việc DN thắng kiện cũng đồng thời với mất đối tác và không có khả năng thay thế... Tất cả những vấn đề này dẫn tới hiện trạng là các DNNVV không thể, không dám, không muốn tham gia các vụ kiện.

- Phải chăng vì những lý do trên mà sau 4 năm Luật Cạnh tranh có hiệu lực, cho đến nay mới có hơn 30 vụ việc liên quan được điều tra và xử phạt?

Theo thống kê thì đến nay mới có hơn 30 vụ kiện liên quan đến các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh và duy nhất 1 vụ liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh. Nếu xem xét các điều khoản trong Luật Cạnh tranh thì số lượng các hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh rất nhiều như: gây rối, ép buộc DN cạnh tranh; thực hiện các hoạt động quảng cáo, khuyến mãi cạnh tranh không lành mạnh; các hoạt động làm hàng giả hàng nhái... thì con số hơn 30 vụ chắc chắn không thể coi là nhiều. Điều này phản ánh những hạn chế trong việc thực hiện, triển khai Luật Cạnh tranh trong thực tế. Chính trong các buổi hội thảo vừa rồi được tổ chức tại 5 thành phố lớn, DN đã kêu rất nhiều về việc này.

Trên đây là điểm báo sáng ngày 25/9/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ./.

Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ



File đính kèm