Điểm tin báo chí sáng ngày 02 tháng 12 năm 2008

02/12/2008
Trong buổi sáng ngày 02/12/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Cuối giờ chiều ngày 1/12, Tổ giám sát liên Bộ Tài chính-Công thương về giá xăng, dầu đã phê duyệt phương án đăng ký giảm giá xăng, dầu của các doanh nghiệp đầu mối.
Theo đó, giá xăng RON 92 và diesel 0,05 S cùng giảm 1.000 đồng/lít, đều còn mức 12.000 đồng/lít. Giá dầu hỏa giảm 500 đồng/lít, xuống mức 13.000 đồng/lít. Riêng madut 3,5 S giảm 500 đồng/kg, còn 8.500 đồng/kg.Về thời điểm áp dụng, đại diện Petrolimex và Công ty xăng dầu Quân Đội cho biết sẽ áp dụng giá mới từ 24 giờ ngày 1/12. Riêng Saigon Petro dự định giảm giá sớm hơn, từ 20 giờ.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Hôm qua 1-12, Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam 2008 - một hoạt động thường niên trước thềm Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) đã diễn ra tại Hà Nội. Đại diện các hiệp hội DN trong và ngoài nước nhận định, môi trường kinh doanh ở Việt Nam đang có chiều hướng xấu do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy nhiên, đây sẽ là cơ hội để Việt Nam tái cơ cấu nền kinh tế.
Báo cáo điều tra môi trường kinh doanh năm 2008 được công bố tại diễn đàn cho thấy: Năm 2007 chỉ có 5,3% DN đánh giá môi trường kinh doanh ở mức “kém”, trong khi năm 2008 tỷ lệ này lên đến 30%. Tuy nhiên, các DN lại đánh giá cao về tương lai của môi trường kinh doanh năm 2009, và mức xếp hạng của năm 2010 - 2011 đã quay trở lại mức lạc quan của năm 2007.
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho rằng, trong bối cảnh lạm phát đã giảm, và nền kinh tế đang đối mặt với nguy cơ suy giảm, nhiều khả năng quy định về lãi suất cơ bản sẽ được dỡ bỏ, và thay vào đó là cơ chế lãi suất thỏa thuận: “Chúng tôi đã báo cáo vấn đề này để Chính phủ và Quốc hội quyết định”.

Nhìn ở khía cạnh rộng hơn, ông Alain Cany cho rằng, với nguy cơ sụt giảm về xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và kiều hối, vấn đề mấu chốt hiện nay là Chính phủ cần hành động để kiểm soát thâm hụt thương mại, thâm hụt vãng lai, để giữ và xây dựng niềm tin của các nhà đầu tư, tránh nguy cơ một cuộc khủng hoảng “các khoản thâm hụt đã được dự báo trước” như đã thấy hồi đầu năm.
“Hướng đi đúng đắn trong tình hình hiện nay là cần đẩy nhanh việc tái cơ cấu nền kinh tế, sao cho có thể tăng năng suất và tận dụng tối đa các tiềm năng phát triển chưa được giải phóng” - ông Alain Cany nói.
3. Báo Người lao động phản ánh: Xung quanh việc khắc phục sự cố của hiện tượng sụt lún đất do khoan giếng khai thác nước ngầm tại thị trấn Quốc Oai (Hà Nội), chiều 1-12, Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho biết UBND huyện Quốc Oai và các đơn vị chức năng đã tổ chức di dời người và tài sản của 10 hộ gia đình với 52 nhân khẩu trên địa giới thị trấn Quốc Oai, đồng thời di chuyển 10 hộ gia đình gồm 45 nhân khẩu nằm trên địa giới xã Thạch Thán, bởi đây là những hộ có nhà cấp 4, ở trong khu vực nguy hiểm.
Sự việc xảy ra vào sáng 30-11, khi hộ gia đình ông Phạm Văn Nga thuê đội khoan tư nhân (do ông Nguyễn Khắc Loan là chủ, không có giấy phép hành nghề khoan) tổ chức khoan giếng nước ngầm. Khi khoan đến độ sâu 50 m thì xảy ra hiện tượng nền đất, tường nhà bắt đầu có hiện tượng sụt lún.
Cũng trong ngày 1-12, các vết nứt trên mặt đường vẫn tiếp tục lan rộng. Thậm chí, Tỉnh lộ 419 từ đường cao tốc Láng – Hòa Lạc chạy qua thị trấn Quốc Oai bị rạn nứt chạy dài khoảng 20 m, độ rộng vết nứt khoảng 4 – 5 cm.
Trước đó, trên địa bàn tỉnh Hà Tây (cũ) cũng xảy ra 2 trường hợp hộ dân tự khoan giếng nước sinh hoạt trong khu dân cư, gây ra sụt, lún đất nghiêm trọng làm nhiều căn hộ nghiêng hoặc rạn nứt, không ở được tại huyện Quốc Oai và Mỹ Đức.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Đồng Nai: Tám tháng chưa được giao nhà trúng đấu giá". Bài báo phản ánh: Bà Phạm Hồng Yến (Biên Hòa, Đồng Nai) đang đứng ngồi không yên vì đã chi hơn 500 triệu đồng để mua nhà đấu giá nhưng tám tháng qua vẫn chưa được giao nhà.
Mua nhà đấu giá lần hai
Tháng 2-2008, bà Yến biết có một căn nhà ở thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (rộng hơn 479 m2) cần bán đấu giá. Thấy giá khởi điểm phù hợp với khả năng, vợ chồng bà đã đăng ký đấu giá. Căn nhà đó nguyên thuộc sở hữu của bà V., là bị đơn trong một vụ án đòi nợ. Án sơ thẩm và phúc thẩm đều xử bà V. phải trả hơn 160 triệu đồng cho ngân hàng nhưng bà V. không tự nguyện thi hành án (THA). Do đó, THA dân sự huyện Trảng Bom đã kê biên, định giá nhà, đất của bà V. Theo kết quả định giá lần hai, giá trị tài sản là hơn 500 triệu đồng. Sau đó, THA huyện đã ủy quyền cho Trung tâm Bán đấu giá tài sản tỉnh Đồng Nai bán đấu giá tài sản.
Tại phiên đấu giá lần hai (do phiên đấu giá lần nhất thất bại), vợ chồng bà Yến đã trúng đấu giá. Cuối tháng 3, bà đã nộp đủ tiền mua nhà. Ngay sau đó, Trung tâm đã gửi công văn đề nghị THA huyện giao tài sản cho bà Yến trong vòng 30 ngày.
Bất đồng về phương thức xử lý
Sau khi thu được tiền đấu giá và khấu trừ các khoản chi phí liên quan, THA huyện đã mời bà V. đến nhận số tiền còn lại. Tuy nhiên, bà V. không nhận tiền và cũng không giao nhà, đất cho vợ chồng bà Yến. Thay vào đó, bà V. gửi đơn khiếu nại THA huyện đã bán đấu giá tài sản của bà trái luật. Cụ thể, cơ quan này chỉ cần bán 1/3 diện tích nói trên là đã đủ tiền THA chứ không cần bán toàn bộ nhà, đất. Cuối tháng 5, sau khi xem xét đơn khiếu nại của bà V. và nhận thấy THA huyện đã làm đúng quy định, THA tỉnh đã chỉ đạo THA huyện tổ chức cưỡng chế để buộc bà V. giao nhà, đất cho bà Yến.
Bà V. tiếp tục khiếu nại. Thế là ban chỉ đạo THA huyện đã đề nghị THA huyện chờ kết luận kiểm sát THA của VKS huyện. Thật bất ngờ khi VKS huyện cho rằng THA huyện đã phạm nhiều lỗi trong quá trình kê biên tài sản của bà V. Như đã kê biên toàn bộ thay vì kê biên 1/3 diện tích nhà, đất; lúc kê biên không có mặt bà V. v.v... VKS huyện đã đưa ra nhiều phương án để THA huyện khắc phục hậu quả. Chẳng hạn, chia đôi lô đất để bà V. được tiếp tục sử dụng 1/2 và chỉ đấu giá 1/2 còn lại; trường hợp cần giữ nguyên kết quả đấu giá thì đề nghị bà Yến tạo điều kiện cho bà V. mua một lô đất khác để ổn định cuộc sống.
Tại buổi đối thoại do THA huyện tổ chức cuối tháng 9, chỉ có vợ chồng bà Yến tham dự, còn bà V. không đến. Bà Yến bất bình: “Phương án chia đôi lô đất của VKS huyện là bất khả thi vì sẽ làm căn nhà bị cắt theo. Là người mua đấu giá hợp pháp và đã được huyện cấp “giấy đỏ” vào tháng 6, tôi muốn nhận toàn bộ tài sản đã trúng đấu giá và không đồng ý hỗ trợ cho bà V.”.
Trao đổi với Báo Pháp Luật TP.HCM sáng 28-11, ông Nguyễn Sơn Hùng - Phó Chủ tịch UBND huyện Trảng Bom, Trưởng ban chỉ đạo THA huyện, cho biết: “Sau khi có báo cáo của VKS, chúng tôi đã yêu cầu THA giải trình những nội dung mà VKS đã nêu. Theo báo cáo của THA huyện, họ đã làm đúng quy định. Tôi đã chỉ đạo nếu đúng thì phải nhanh chóng THA, không để kéo dài”. Được biết, THA huyện đang khẩn trương phối hợp với các cơ quan liên quan để thống nhất phương án giải quyết vụ việc, sớm giao nhà, đất cho bà Yến.
2. Báo Lao động phản ánh: Lao Động ngày 26.11 đã có bài: "Đoàn luật sư "đấu" pháp lý với Sở Tư pháp". Bài báo phản ánh việc Giám đốc Sở Tư pháp Quảng Ninh có những văn bản không đúng thẩm quyền, trong việc hoãn đại hội Đoàn luật sư (LS) và tự điều chỉnh nhân sự tham gia ứng cử không đúng thẩm quyền trước khi Đoàn LS tỉnh này tổ chức đại hội.
Việc ra những văn bản không đúng thẩm quyền này của GĐ Sở Tư pháp Quảng Ninh đã gây phản ứng trong Đoàn LS Quảng Ninh. Ngay sau khi báo phát hành, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thuý Hiền đã trực tiếp xuống Quảng Ninh để chỉ đạo đại hội.
Ngày 28.11, dưới sự chứng kiến của Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Đoàn LS tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành đại hội toàn thể và bầu ra Ban chủ nhiệm khoá mới (khoá VII - giai đoạn 2008-2011) gồm các LS: Tô Năng Như, Dương Xuân Tích và Lê Cao Long.
3. Báo Tuổi trẻ có bài "Bệnh” đòi bản sao chứng thực: Cần thêm “thuốc” trị. Bài báo phản ánh: Có nhiều giấy tờ quan trọng theo chúng ta suốt cả đời người: khai sinh, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, bằng cấp, giấy tờ nhà đất... Mất bản chính những giấy tờ này gây ra nhiều phiền toái và hậu quả nhiều khi không hình dung nổi. Do vậy, không ít người thấy cần sao ra nhiều bản từ bản chính để dùng dần.
Còn về phía nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, mỗi khi giải quyết những thủ tục hành chính cho ai (kể cả cơ quan, tổ chức khác) cũng đòi hỏi phải nộp giấy tờ, mà “nhất định phải là bản sao có chứng thực”. Việc đòi hỏi này hầu như ai cũng hiểu phần nhiều do các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó lười (đối chiếu bản sao với bản chính), né trách nhiệm, nếu có khiếu nại, tố cáo xung quanh chuyện bản sao, bản chính. Trong nhiều trường hợp việc yêu cầu chứng thực là vô lý, gây lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc cho cả xã hội. Vấn đề ở chỗ ai cũng thấy vô lý nhưng ai cũng thực hiện bởi từ lâu điều đó đã thành “bệnh”.
Thủ tướng từng cho “thuốc”
Trước sự kêu ca của nhiều người, báo chí phản ánh không mệt mỏi trong nhiều năm và qua khảo sát thực tiễn, ngày 5-3-2001 Thủ tướng đã quyết định dùng một “liều thuốc” mạnh để trị căn bệnh nói trên bằng việc ban hành chỉ thị 01/2001/CT-TTg. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu: “Riêng việc sao y giấy tờ, Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ GD-ĐT, Bộ Lao động - thương binh & xã hội và Ban tổ chức - cán bộ chính phủ tiến hành rà soát để hủy bỏ các quy định bắt buộc người dân phải nộp bản sao giấy tờ do phòng công chứng chứng nhận trong hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng, bổ nhiệm, tuyển lao động, giải quyết chính sách...;Bộ GD-ĐT có trách nhiệm hướng dẫn các trường học, cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước về việc cấp bản sao văn bằng, chứng chỉ và các giấy tờ khác từ sổ gốc, không dồn công việc cho cơ quan công chứng, chứng thực. Cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận giấy tờ xét thấy cần bản chính để đối chiếu thì phải tự mình đối chiếu bản chụp với bản chính”.
Qua thực tiễn, dù có những lúc căn bệnh “phát cơn” mạnh mẽ, dồn dập ở nhiều nơi, nhiều người nhưng “thuốc” đã cho thấy có tác dụng... Người viết thấy rõ nhất là ở nhiều tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, sở tư pháp, phòng tư pháp tại TP.HCM..., hầu như cán bộ không còn buộc người dân phải nộp bản sao có chứng thực nữa, mà sẵn sàng tiếp nhận bản sao không có chứng thực sau khi đã đối chiếu bản chính. Tuy nhiên, cho đến nay một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền vẫn mắc phải căn bệnh trên hoặc để “bệnh” tái phát.
Họ viện lý do không có con mắt của người giám định chuyên nghiệp, làm sao biết bản chính đó là thật hay giả mà đối chiếu, kiểm tra? Chẳng may đối chiếu với bản chính được làm giả tinh vi, tinh xảo, làm sao loại trừ được trách nhiệm cho người đối chiếu? Mặt khác, chỉ thị 01 là để triển khai nghị định 75, trong khi đó vấn đề công chứng, chứng thực đã được thay thế bởi Luật công chứng có hiệu lực ngày 1-7-2007 và nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18-5-2007 thì liệu “thuốc” có còn hạn sử dụng?
Cần cho “toa” mới
“Bệnh” chưa dứt hẳn, trong khi đó lệ phí công chứng, chứng thực - trong đó có chứng thực bản sao - tăng cao. Lãng phí sẽ càng lãng phí hơn. Điều đáng nói hơn nữa là đất nước ta đang trên bước đường xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng một xã hội mà người dân được hành xử theo những gì pháp luật không cấm, nhưng cũng phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành xử và cam kết của mình. Không lý gì Nhà nước lại đi “giành” trách nhiệm thay người dân trong chuyện khai báo, đối chiếu giấy tờ.
Do vậy, chúng tôi kiến nghị Chính phủ cần cho thêm “toa thuốc” mới để trị dứt điểm căn bệnh trên. Đó là cần có những văn bản xác định rõ ràng những giấy tờ thuộc loại, nhóm, dạng nào nhất thiết phải có bản sao chứng thực. Ngoài những trường hợp đó, cần ra văn bản mới, tương tự chỉ thị 01, nghiêm cấm việc buộc người dân phải nộp bản sao giấy tờ có chứng thực, trừ trường hợp người nộp tự nguyện.
Việc vi phạm các quy định về hộ tịch, công chứng, thi hành án... đều bị xử phạt hành chính theo pháp luật hiện hành. Vậy với việc buộc người dân phải nộp bản sao có chứng thực, gây lãng phí và gây ra “bệnh tật” cho xã hội thì theo chúng tôi, cũng cần phải có quy định để xử phạt hành chính.
4. Báo Kinh tế đô thị có bài "Cần quản lý tốt hơn các văn phòng công chứng tư". Bài báo phản ánh: Hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có gần 20 văn phòng công chứng tư, phần lớn đều tập trung tại các quận nội thành. Đây là chủ trương xã hội hóa tốt và bắt đầu vận hành có hiệu quả, góp phần giảm tải lớn cho công chứng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, qua khoảng 3 tháng hoạt động, cũng đã có một số vấn đề các nhà quản lý cần quan tâm trong lĩnhvực này.
Thực tế là các công chứng viên tại các phòng công chứng tư đều đủ tiêu chuẩn, tuy nhiên không phải ai cũng đủ kinh nghiệm và nắm bắt hết các quy định của pháp luật. Thế nên thời gian qua xuất hiện tình trạng một số văn bản, giấy tờ khi đem đến phòng công chứng nhà nước bị từ chối do chưa đủ căn cứ pháp lý, nhưng đem đến công chứng tư lại được giải quyết ngay, tất nhiên là với lệ phí cao hơn. Một cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố cho biết, làn sóng vỡ hụi họ từ các tỉnh phía Nam đang có xu hướng lan cả ra Hà Nội. Vấn đề nguy hiểm là nhiều giấy tờ (liên quan chủ yếu đến nhà đất) làm giả mạo tinh vi nhưng cũng đã được chứng thực, dẫn đến các khổ chủ càng dễ bị mắc lừa hơn. Việc này có thể diễn ra trong ngày một ngày hai, nhưng cũng có thể 5 - 10 năm sau (khi thực hiện giao dịch) mới bị phát hiện, lúc đó trách nhiệm của phòng công chứng sẽ như thế nào. Gần đây nhất, Công an quận Thanh Xuân đã phát hiện đường dây làm giả hàng trăm con dấu của các cơ quan công quyền và không ai đảm bảo được chúng có lọt qua được các văn phòng công chứng tư hay không.
Bên cạnh mức độ tin cậy, một vấn đề nữa mà người dân cũng bắt đầu có ý kiến là mức lệ phí khá cao tại các phòng công chứng tư. Theo Thông tư Liên tịch 91 được ban hành mới đây của Liên Bộ Tài chính và Tư pháp, từ ngày 20/11/2008 mức thu, chế độ thu... phí công chứng, lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực áp dụng theo mức thu phí mới. Trước ngày 20/11/2008, mức thu lệ phí công chứng các loại hợp đồng, giao dịch được phân theo 9 bậc, từ 10.000 đồng đến 2 triệu đồng/trường hợp. Hiện nay, các loại hợp đồng giao dịch liên quan đến chuyển nhượng nhà đất, hợp đồng thế chấp tài sản... đã được chia theo 4 bậc.Gồm: Giá trị tài sản, hợp đồng giao dịch dưới 100 triệu đồng, mức lệ phí là 100.000 đồng/trường hợp. Giá trị tài sản, hợp đồng giao dịch từ 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng, thì mức lệ phí là 0,1% giá trị tài sản giao dịch. Giá trị tài sản, hợp đồng giao dịch từ trên 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng, thì mức lệ phí là 1 triệu đồng cộng với 0,07% giá trị tài sản giao dịch quá 1 tỷ đồng. Giá trị tài sản, hợp đồng giao dịch trên 5 tỷ đồng, thì mức lệ phí là 3,8 triệu đồng cộng với 0,05%giá trị tài sản giao dịch vượt quá. Theo đó, mức thu lệ phí tối đa đối với giá trị tài sản, hợp đồng giao dịch trên 5 tỷ đồng sẽ là 10 triệu đồng. Như vậy, nếu căn cứ trên mức tối đa, cách thu lệ phí mới theo Thông tư này đã tăng gấp 5 lần so với trước.
Nhưng mức thu lệ phí công chứng các loại hợp đồng giao dịch liên quan đến chuyển nhượng nhà đất, hợp đồng thế chấp tài sản... tại các văn phòng công chứng tư có thể còn cao hơn. Vì ngoài khoản lệ phí, các văn phòng còn thu thêm khoản thù lao ngoài hợp đồng và một số các chi phí khác. Đây chính là các vấn đề các cơ quan quản lý cần sớm vào cuộc để các phòng công chứng hoạt động thực sự hiệu quả và đem lại sự thông thoáng, lợi ích cho người dân.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 02/12/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm