Trong buổi sáng ngày 16/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an nhân dân có bài "Án tuyên một đằng thực tế một nẻo". Bài báo phản ánh: Trong số những vụ án do cơ quan thi hành án dân sự (THADS) TP Tuy Hòa (Phú Yên) đang thụ lý giải quyết, có một số vụ phải "ngâm" hồ sơ từ nhiều năm nay, vì không thể nào thi hành được, mà nguyên nhân bắt nguồn từ quyết định mập mờ, trái với hiện trạng thực tế của tòa án. Kiến nghị cơ quan ra bản án giải thích những nội dung chưa đề cập cụ thể nhưng không nhận được sự hợp tác, kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét kháng nghị cũng chưa xong, nên chấp hành viên (CHV) đành phải lắc đầu… chào thua.
Theo Bản án số 81/DS-PT ngày 30/9/2006 của TAND tỉnh Phú Yên tuyên xử buộc vợ chồng ông bà Nguyễn Đắc Diệp - Đặng Lưu Hồng Loan, trú ở 108 Nguyễn Trãi, phường 5, TP Tuy Hòa phải tháo dỡ bức tường xây dựng phía Nam tiếp giáp với vách hậu ngôi nhà của nguyên đơn Đặng Thị Điểu vì xây dựng trái pháp luật.
Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu của bà Điểu, ngày 10/11/2006, cơ quan THADS TP Tuy Hòa đã ra Quyết định THA để thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật. Khi làm việc với cơ quan THA, ông bà Diệp - Loan cho biết, nếu tháo dỡ bức tường sẽ dẫn đến nguy cơ sập cầu thang và ảnh hưởng kết cấu ngôi nhà của họ. Qua kiểm tra hiện trạng thực tế, cơ quan chức năng đã xác định lý do mà vợ chồng ông bà Diệp - Loan đưa ra là đúng.
Ngày 25/1/2007, cơ quan THADS TP Tuy Hòa đã có văn bản đề nghị Tòa dân sự TAND tỉnh Phú Yên giải thích rõ những nội dung chưa đề cập trong quyết định của bản án liên quan đến kết cấu vật kiến trúc kết nối với bức tường phải tháo dỡ. Rất tiếc, cơ quan ra bản án phúc thẩm đã… làm ngơ. Lần này, cơ quan THADS TP Tuy Hòa liên tiếp gửi hai Công văn đến Chánh án TAND và Viện trưởng Viện KSND Tối cao để kiến nghị xem xét lại vụ án theo trình tự Giám đốc thẩm.
Chờ đợi mãi vẫn không thấy phúc đáp từ TAND, Viện KSND Tối cao, trong khi đương sự được THA liên tục khiếu kiện gay gắt, ngày 15/11/2007, ông Hồ Quang Khả - Trưởng cơ quan THADS TP Tuy Hòa ban hành Quyết định số 01/QĐ-THA giải quyết khiếu nại của bà Đặng Thị Điểu với nội dung chưa THA được vì còn phải chờ cấp có thẩm quyền xem xét lại bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Phú Yên theo trình tự Giám đốc thẩm. Bà Điểu tiếp tục khiếu nại lên cơ quan cấp trên. Và tại Quyết định số 03/QĐ-THA ngày 11/1/2008 của Trưởng THADS tỉnh Phú Yên chấp nhận khiếu nại của bà Đặng Thị Điểu, hủy toàn bộ quyết định giải quyết khiếu nại của Trưởng THADS TP Tuy Hòa với lý do Bản án số 81/DS-PT ngày 30/9/2006 của TAND tỉnh Phú Yên tuyên xử có khả thi. Mặt khác, để bảo vệ không sụp đổ sàn nhà, cầu thang khi THA tháo dỡ bức tường, vợ chồng ông bà Diệp - Loan phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp kỹ thuật xây dựng để chống đỡ sàn nhà và cầu thang. Chấp hành quyết định của cấp trên, cơ quan THADS TP Tuy Hòa đã yêu cầu bên phải THA thực hiện các biện pháp kỹ thuật cần thiết nhưng vợ chồng ông bà Diệp - Loan lấy cớ bản án phúc thẩm không đề cập đến vấn đề này, nên họ không thực hiện.
Trong vụ tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn Lê Thị Liên và bị đơn Lê Hồng Sơn, trú ở thôn Xuân Dục, xã An Phú, TP Tuy Hòa, Bản án số 17/DS-PT ngày 14/3/2006 của TAND tỉnh Phú Yên tuyên xử buộc ông Sơn phải trả cho bà Liên thửa đất vườn dừa 441m2. Sau khi ra Quyết định, cơ quan THADS TP Tuy Hòa tiến hành xác minh hiện trạng thửa đất mới phát hiện diện tích thực tế thửa đất này chỉ có 211m2, chênh lệch thiếu so với án phúc thẩm đã tuyên tới… 230m2 (!?).
Không thi hành được quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, ngày 12/10/2006, cơ quan THADS TP Tuy Hòa đã gửi Văn bản kiến nghị Chánh án TAND, Viện trưởng Viện KSND Tối cao xem xét lại vụ án theo trình tự Giám đốc thẩm, nhưng từ đó đến nay vẫn chưa nhận được tín hiệu hồi âm, nên hồ sơ vụ án đành phải tạm xếp lại.
Tương tự như thế, vụ kiện dân sự tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn Đào Tải với bị đơn Đào Thị Buôn, trú ở thôn Thượng Phú, xã Bình Kiến, TP Tuy Hòa, Bản án của TAND tỉnh Phú Yên tuyên buộc bà Buôn phải giao trả lại cho ông Tải 125m2 đất. Thế nhưng, khi cơ quan THADS TP Tuy Hòa vào cuộc mới phát hiện diện tích 125m2 đất nêu trên là quỹ đất công ích do UBND xã Bình Kiến quản lý và ký hợp đồng cho con trai bà Buôn là anh Đỗ Văn Yến thuê để sản xuất. Vì vậy, ngày 11/8/2008, cơ quan THADS TP Tuy Hòa có Văn bản kiến nghị TAND Tối cao xem xét lại vụ án theo trình tự Giám đốc thẩm. Tiếc rằng kiến nghị nêu trên vẫn chưa có thông tin phản hồi, dẫn đến hồ sơ THA phải "tạm gác" lại.
Từ những “kỳ án” trên, đã đến lúc TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao cần sớm giải quyết các kiến nghị của cơ quan THADS TP Tuy Hòa để tránh những khiếu kiện phức tạp kéo dài.
2. Báo Lao động có bài "Kẻ ăn ốc, người đổ vỏ". Bài báo phản ánh: Ngày 11.3, UBND quận 12 đã có công văn gửi UBND TPHCM về việc đề nghị tạm hoãn thi hành án với Cty TNHH Sin B (chủ doanh nghiệp bỏ trốn, nợ lương công nhân), đồng thời hỗ trợ cho người lao động (NLĐ) mất việc.Đây là địa phương đầu tiên của TPHCM có văn bản đề nghị hỗ trợ NLĐ mất việc do chủ DN bỏ trốn theo QĐ30/2009/QĐ-TTg.
Cuối năm 2008, Báo Lao Động đã có loạt bài về tình hình các ông chủ DN người Hàn Quốc làm ăn theo kiểu "lời ăn, lỗ chạy" (số 264-265 ngày 14-15.11.2008), bỏ lại những khoản nợ khổng lồ về lương, BHXH và vay của các đối tác. Xu hướng này vẫn tiếp diễn vào đầu năm 2009 bởi chế tài chưa đủ chặt để "trói chân" các ông chủ làm ăn bát nháo. Mớ bòng bong tại Cty TNHH Sin B (100% vốn nước ngoài, phường Tân Thới Nhất, quận 12) do ông Lee Tae Hee (quốc tịch Hàn Quốc, SN 1957) làm GĐ bùng phát đầu tháng 1.2009 khi CN phát hiện GĐ đã bỏ trốn, nợ trên 200 triệu tiền lương và hàng tỉ đồng của nhiều đơn vị khác.
Thi hành án dân sự TPHCM đã ra Quyết định số 1582/QĐ-THA ngày 1.12.2008 giao 7 máy thêu và máy móc thiết bị kèm theo cho Cty cho thuê tài chính Kexim quản lý, bởi đây là tài sản Cty Sin B thuê của Kexim. Tuy nhiên, CN đã kiên quyết không cho di dời số máy móc thiết bị trên. Chưa hết, ngày 21.1 Ngân hàng BIDV chi nhánh Bắc Sài Gòn lại khẳng định Sin B đang thế chấp năm máy thêu tự động để vay tiền.
Các cơ quan chức năng giờ mới ngã ngửa ra rằng, ông Lee Tae Hee đến VN gần như "tay trắng lập nghiệp". Đến tiền thuê mặt bằng sản xuất, Cty Sin B vẫn chưa trả đủ. Trước tình hình nhiều bên đang "nhòm ngó" đống tài sản còn lại của Cty Sin B, LĐLĐ quận 12 đã hướng dẫn CN làm thủ tục ủy quyền cho LĐLĐ quận 12 khởi kiện Cty TNHH Sin B, đồng thời đề nghị các cơ quan chức năng ưu tiên giải quyết trước tiền lương và các khoản trợ cấp Cty còn nợ CN.
Ngay sau đó, UBND quận 12 đã gửi công văn tới UBND TPHCM đề nghị xem xét tạm hoãn thi hành án đối với Cty TNHH Sin B và hỗ trợ người lao động mất việc theo quy định tại điều 2, quyết định QĐ30/2009/QĐ-TTg. Đây là việc làm đúng đắn nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp chính đáng cho NLĐ. Tuy nhiên, việc hoàn trả lại tiền ngân sách tạm ứng sẽ không phải vấn đề đơn giản bởi có rất nhiều bên cũng có quyền lợi hợp pháp khi thực hiện xử lý tài sản của Cty TNHH Sin B.
Đây là DN có vốn đầu tư nước ngoài nên thẩm quyền quản lý thuộc TP, các cơ quan chức năng địa phương cũng bó tay khi muốn kiểm tra, giám sát và trở thành người giải quyết hậu quả khi xảy ra tranh chấp. Nếu "tấm lưới" của các cơ quan quản lý tại TPHCM không khép chặt thì sẽ tiếp tục xuất hiện những ông GĐ FDI "bỏ của chạy lấy người" như trường hợp trên. Người chịu thiệt hại không ai khác chính là NLĐ và chính quyền địa phương.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Sẽ có hai hình thức nuôi con nuôi". Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang chủ trì soạn thảo dự án luật Con nuôi, dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp tháng 10-2009.
Dự án lần một quy định hai hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn và nuôi con nuôi giản đơn, với những hệ quả pháp lý khác nhau. Theo đó, hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn sẽ làm chấm dứt toàn bộ các quyền và nghĩa vụ pháp lý tồn tại trước đó giữa cha mẹ đẻ và trẻ em được cho làm con nuôi, kể cả quan hệ thừa kế theo pháp luật. Trong khi đó hình thức nuôi con nuôi giản đơn không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ nói trên.
Dự Luật cũng điều chỉnh chung nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế theo hướng ưu tiên giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong nước, nuôi con nuôi quốc tế là biện pháp thay thế cuối cùng. Luật cũng sẽ chỉ điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi đối với trẻ em từ 15 tuổi trở xuống (hoặc người trên 15 đến dưới 18 tuổi nếu là người tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự). Riêng đối với vấn đề nuôi con nuôi thực tế, tức là nuôi con nuôi chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Quốc hội sẽ ban hành nghị quyết riêng, Chính phủ sẽ ban hành nghị định hướng dẫn thi hành.
4. Báo Hà Nội mới có bài Đẩy nhanh tiến độ xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp. Bài báo phản ánh: Chiều 13-3, đồng chí Vũ Hồng Khanh - Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã làm việc với đại diện lãnh đạo các sở, ngành của Hà Nội về công tác chuẩn bị đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp trên địa bàn.
Sau khi nghe báo cáo, đề xuất của Sở Quy hoạch Kiến trúc và lãnh đạo các cơ quan Viện KSND, TAND, CA, Sở Tư pháp TP về nhu cầu sử dụng đất xây dựng trụ sở mới, kế hoạch sửa chữa, nâng cấp trụ sở cũ các cơ quan tư pháp từ TP đến cơ sở, Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh yêu cầu các sở, ngành liên quan xem xét sớm kiến nghị của các cơ quan tư pháp, hỗ trợ thủ tục, hồ sơ về đất đai, GPMB, chuẩn bị đầu tư... đôn đốc các quận, huyện giới thiệu địa điểm xây dựng. Đối với toàn bộ trụ sở của CA phường, xã xuống cấp, UBND quận, huyện tự lo kinh phí sửa chữa, nâng cấp, nếu khó khăn thì báo cáo Sở Kế hoạch Đầu tư xem xét, giải quyết. Phó Chủ tịch nhấn mạnh, các cơ quan tư pháp, Sở Quy hoạch - Kiến trúc đẩy nhanh tiến độ, trong tháng 3 này phải cơ bản hoàn thành thủ tục, quy trình chuẩn bị đầu tư xây dựng để TP xem xét, quyết định.
5. Báo điện tử Đầu tư chứng khoán có bài Hình sự hoá các tội danh về chứng khoán. Bài báo phản ánh: Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cho biết, hầu hết đại biểu Quốc hội đều đồng tình với việc bổ sung tội danh trong lĩnh vực chứng khoán vào Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung). Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, nên ghép tội công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật khi chào bán, niêm yết hoặc giao dịch chứng khoán (Điều 181a) vào tội gian lận, lừa đảo trong giao dịch chứng khoán (Điều 181c), đồng thời quy định rõ hơn cấu thành cơ bản của các tội danh để bảo đảm tính khả thi và phân biệt với một số tội danh khác đã được quy định trong Bộ luật Hình sự. Được biết, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý cấu thành tội phạm của các tội danh về chứng khoán cho rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn.
Một số đại biểu Quốc hội đề nghị không nên bổ sung cụm từ “đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội danh này mà còn vi phạm” vào trong cấu thành cơ bản của các tội danh trên. Bà Lê Thị Thu Ba, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp cho rằng, các tội phạm về chứng khoán và thị trường chứng khoán là loại tội phạm rất mới, nên trước mắt chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi phạm tội đã phổ biến.
Theo dự thảo Bộ luật Hình sự mới nhất, các tội danh về chứng khoán chỉ còn lại 3 điều. Cụ thể, tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a): “Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm”.
Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b): “Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua, bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm”.
Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c): “Người nào thực hiện một trong các hành vi thao túng giá chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Hành vi thao túng giá chứng khoán bao gồm thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung - cầu giả tạo; giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán; sử dụng các biện pháp giao dịch khác”.
Người phạm 1 trong 3 tội về chứng khoán nêu trên còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 150 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Bà Thu Ba cho biết, ngoài 3 tội danh trên, các hành vi gian lận, lừa đảo khác ngoài hành vi công bố thông tin sai sự thật vẫn bị xử lý theo các tội danh khác của Bộ luật Hình sự, nhưng các hình thức xử lý không áp dụng như quy định của Điều 181a.
6. Báo Tuổi trẻ có bài Ireland ngừng nhận con nuôi VN. Bài báo phản ánh: Ireland quyết định không gia hạn hiệp định hợp tác con nuôi với VN sau khi thỏa thuận này hết hiệu lực vào ngày 1-5-2009, nhưng hai bên đang nỗ lực đi đến một thỏa thuận mới trước khi hiệp định hiện hành hết hạn.
Theo tin từ Văn phòng bộ trưởng phụ trách các vấn đề trẻ em và thanh niên của Ireland, nước này đã gửi cho phía VN dự thảo thỏa thuận mới về hợp tác con nuôi để thay thế cho thỏa thuận sắp hết hạn. “Cá nhân tôi và Chính phủ Ireland rất quan tâm đến việc ký kết thỏa thuận mới với VN” - Bộ trưởng Barry Andrews nói.
Trong thỏa thuận mới, những lĩnh vực mà quan trọng nhất có liên quan tới nguồn gốc và sự thích hợp của trẻ, sự đồng ý của bố mẹ nhận nuôi và đảm bảo không có việc thu tài chính bất hợp lý trong suốt quá trình. Tuy nhiên, nội dung mới của thỏa thuận dự thảo không được công bố cho tới khi có ký kết. Trong trường hợp một hiệp định mới không được ký kết trước ngày 1-5-2009, hai bên sẽ thảo luận một thỏa thuận tạm thời. Từ nay cho tới lúc đó, phía VN sẽ tiếp tục nhận hồ sơ xin con nuôi tới ngày 1-4-2009.
7. Báo điện tử Vietstock có bài "Đừng để nước đến chân mới nhảy". Bài báo phản ánh: Theo thống kê cuối năm 2008 thì các công ty tư vấn luật đứng đầu danh sách các doanh nghiệp trả thưởng cho nhân viên cao nhất. Từ giữa năm 2008 đến nay, trong khi phần lớn các doanh nghiệp hoạt động cầm chừng thì các văn phòng luật sư lại rất bận rộn.
Thông thường vào thời điểm kinh tế nhạy cảm (dù là lạm phát cao hay suy thoái), các doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn, vì thế tình trạng tranh chấp có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp càng gia tăng. Tuy nhiên, ở Việt Nam số lượng luật sư còn quá ít không thể đáp ứng nhu cầu (cả nước chỉ có khoảng 5.000 luật sư cho hơn 80 triệu dân và hơn 500.000 doanh nghiệp!). Do đó, các luật sư hiện nay chủ yếu tham gia tư vấn cho doanh nghiệp khi có vấn đề phát sinh nhiều hơn là tham gia tư vấn xây dựng quy trình hoạt động tránh rủi ro cho doanh nghiệp. Hơn nữa, chính bản thân các doanh nghiệp Việt Nam thường ít quan tâm đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật để áp dụng vào hoạt động thực tiễn, giảm thiểu rủi ro.
Tại Mỹ thì hầu như 100% doanh nghiệp đều có thuê luật sư tư vấn, và không ít các công ty có phòng pháp chế thuộc doanh nghiệp. Tại Việt Nam, qua khảo sát ngẫu nhiên 200 doanh nghiệp từ Bắc chí Nam hoạt động trong các lĩnh vực điển hình, chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài nắm cổ phần chi phối và các tổng công ty nhà nước có thành lập phòng pháp chế.
Với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần... có 7,5% các doanh nghiệp được hỏi ở phía bắc, 5% các doanh nghiệp được hỏi ở phía nam là có ký hợp đồng tư vấn luật thường xuyên với văn phòng luật sư, theo đó luật sư tham gia soạn thảo các quy định và các mẫu hợp đồng cho công ty. Chủ doanh nghiệp của khoảng 20% các doanh nghiệp được hỏi ở phía bắc và 25% các doanh nghiệp được hỏi ở phía nam có quan tâm và tự tìm hiểu các pháp luật liên quan trong quá trình xây dựng doanh nghiệp. Còn lại (khoảng 65-70%) các doanh nghiệp liên hệ với văn phòng luật sư chỉ để tra cứu văn bản pháp luật khi cần thiết, và các doanh nghiệp này chỉ hợp đồng thuê luật sư tham gia tố tụng khi có vụ việc. Các chủ doanh nghiệp này thậm chí không hề có bất kỳ quyển sách luật nào trong tủ sách của doanh nghiệp!
Chính do điều này mà khi có xảy ra tranh chấp thương mại, đầu tư hay lao động... các luật sư chỉ có thể tham gia sau khi “việc đã rồi”, luật sư có giỏi mấy cũng khó cứu doanh nghiệp thoát khỏi thiệt hại nếu việc đã sai từ khâu triển khai. Kết quả khảo sát này có thể làm “giật mình” các nhà hành pháp và tư pháp! Các chủ doanh nghiệp thường chủ quan, cho rằng việc “vô phúc đáo tụng đình” sẽ hiếm khi hoặc sẽ không xảy ra đối với doanh nghiệp của mình, vì vậy đa số ít quan tâm đến việc tìm hiểu luật. Đây chính là “con thiên nga đen” nguy hiểm, vì một khi sự vụ xảy ra, do không được dự liệu trước nên hậu quả mà nó mang đến sẽ khôn lường!
Khi tình hình kinh doanh khó khăn, tình trạng nợ khó đòi gia tăng, các tranh chấp lao động và tranh chấp phát sinh trong nội bộ hội đồng quản trị doanh nghiệp, hội đồng thành viên ngày càng nhiều. Nếu không có điều kiện thành lập phòng pháp chế, các chủ doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến việc tìm hiểu pháp luật để vận dụng vào hoạt động của doanh nghiệp. Để tránh rủi ro cho chính mình, các doanh nghiệp không nên để “nước đến chân mới nhảy”!
Ngay cả một người lái xe khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đều phải có bằng lái xe và phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm Luật Giao thông của mình. Quyết định của doanh nghiệp thường có liên quan đến số đông người bao gồm nhân viên, khách hàng, đối tác, và trong một số trường hợp, đến cả xã hội, như vậy trách nhiệm lèo lái một doanh nghiệp tất nhiên phải nặng nề hơn người lái xe. Vì vậy việc chủ doanh nghiệp cần tìm hiểu sâu về các luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp là điều rất cần thiết. Doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật sẽ vừa giúp được mình, vừa giúp được người. Bản thân doanh nghiệp đó sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí và thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng, tranh chấp lao động... Như vậy, số lượng vụ việc phải giải quyết bằng tố tụng tại tòa án sẽ không phải tăng lên tỷ lệ thuận với mức tăng số lượng doanh nghiệp, tòa án sẽ tránh được tình trạng bị quá tải và chất lượng tố tụng sẽ được cải thiện.
Trong rất nhiều tranh chấp lẽ ra các bên có thể tự giải quyết nếu có hiểu biết cơ bản về pháp luật thì các bên lại mất thời gian đưa nhau ra tòa. Thậm chí có trường hợp một lãnh đạo doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng tại TPHCM tuyên bố hùng hồn “không cần biết luật là gì, miễn tự thấy mình đúng là được”! Những suy nghĩ kiểu như vậy là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc doanh nghiệp phải tốn quá nhiều thời gian đi giải quyết tranh chấp thay cho việc tập trung phát triển doanh nghiệp để tăng tính cạnh tranh.
Đã có không ít lần lãnh đạo các doanh nghiệp có vốn nhà nước lấy cớ “kém hiểu biết về pháp luật” để xin được giảm nhẹ tội trong các vụ vi phạm kinh tế gây thất thoát tiền của Nhà nước! Vì vậy, nên chăng cần quy định các vị đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có vốn nhà nước) làm cam kết tìm hiểu và thực hiện theo pháp luật trước khi nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (cũng giống như người lái xe phải có bằng lái vậy!).
Rất nhiều vụ tranh chấp trong thực tế xuất phát từ việc các bên không nắm vững các quy định của pháp luật. Ví dụ, các thành viên sáng lập công ty TNHH thay vì tự nghiên cứu Luật Doanh nghiệp để soạn thảo điều lệ công ty phù hợp với ý chí của mình, thì lại đi thuê dịch vụ sử dụng điều lệ có sẵn của công ty khác đi đăng ký kinh doanh. Khi có tranh chấp giữa các thành viên góp vốn thì mới đi tìm lại xem điều lệ công ty ghi như thế nào về số thành viên đại diện bao nhiêu phần trăm số vốn điều lệ để thông qua quyết định!
Một số công ty thì tự ý soạn thảo nội quy công ty với các kiểu kỷ luật phạt vạ không phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động, đến khi có tranh chấp đình công, Liên đoàn lao động đến làm việc thì mới biết nội quy công ty không soạn thảo đúng theo Bộ luật Lao động.
Các công ty đều tham gia kinh doanh nhưng Luật Thương mại lại ít được tìm hiểu. Có công ty mua thiết bị máy móc nhưng do chưa dùng đến ngay nên không kiểm tra, quá sáu tháng mang ra dùng thì mới biết thiết bị không đạt chất lượng theo yêu cầu hợp đồng, lúc đó đã hết thời hạn khiếu nại theo điều 318 Luật Thương mại. Cho đến thời điểm này, rất nhiều công ty vẫn còn sử dụng tiêu đề khi ký hợp đồng mua bán “căn cứ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế” mặc dù Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã hết hạn từ ba năm nay! Các doanh nghiệp khi bị rối tung trong mạng nhện thủ tục hành chính, thay vì sử dụng luật khiếu nại tố cáo để tự bảo vệ mình thì do thiếu hiểu biết pháp luật nên phải chọn con đường lòng vòng tốn kém chi phí!
Đây là thời điểm các doanh nghiệp cần tập trung cơ cấu lại doanh nghiệp, đối phó với khủng hoảng. Việc tìm hiểu các luật liên quan để áp dụng vào quá trình cơ cấu lại là việc cần làm ngay để xây dựng nền tảng hoạt động vững chắc cho doanh nghiệp. Làm được như vậy, các doanh nghiệp không những có thể tự giúp chính mình, mà còn giúp cho môi trường kinh doanh chung được lành mạnh hơn, phù hợp hơn với xu thế hội nhập quốc tế.
8. Báo điện tử Vnexpress có bài Hà Nội yêu cầu thu hồi văn bản bị 'tuýt còi'. Bài báo phản ánh: UBND Hà Nội vừa yêu cầu Sở Giao thông vận tải thu hồi ngay văn bản ban hành trái luật bị Cục Đường bộ "tuýt còi". Đề nghị Sở tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp theo nội dung công văn của Cục Đường bộ đã gửi. Thành phố cũng giao Sở Giao thông vận tải có trách nhiệm mời Cục Đường bộ Việt Nam họp để thống nhất những nội dung kiến nghị của Sở, báo cáo UBND thành phố và Bộ Giao thông vận tải.
Trước đó, sau khi nhận được phản ánh của một loạt các sở Giao thông vận tải "kêu" về văn bản vừa được ban hành của Sở Giao thông Hà Nội,Cục Đường bộ đã có văn bản kiến nghị Bộ Giao thông Vận tải đề nghị UBND Hà Nội chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra thu hồi văn bản 89 vì trái quy định và gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Cục cũng đề nghị Bộ Giao thông Vận tải yêu cầu UBND Hà Nội chỉ đạo Sở Giao thông Vận tải hướng dẫn các doanh nghiệp vận tải có liên quan không thực hiện các nội dung trái quy định tại văn bản đã ban hành. Trao đổi với VnExpress.net, ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó giám đốc Sở Giao thông Vận tải Hà Nội cho rằng, Hà Nội là đô thị đặc biệt, có những đặc thù về tổ chức giao thông. Trước khi Bộ Giao thông Vận tải ban hành quyết định 16 về vận tải khách bằng ôtô tuyến cố định, hợp đồng, Sở đã kiến nghị yêu cầu các bến xe trên địa bàn khi ký hợp đồng cho các phương tiện của doanh nghiệp vận tải vào bến đón trả khách phải có ý kiến của Sở Giao thông vận tải Hà Nội.
Do kiến nghị của Sở Giao thông công chính Hà Nội (nay là Sở Giao thông vận tải) không nhận được phản hồi nên để tránh tái diễn tình trạng quá tải như những năm trước tại bến xe Giáp Bát, Lương Yên..., Sở đã thực hiện một số giải pháp đã kiến nghị trên và văn bản 89 đã ra đời. Phản bác lại ý kiến trên của Sở Giao thông vận tải, ông Trần Ngọc Thành, Vụ phó Vụ Vận tải Bộ giao thông vận tải cho rằng, khi cơ quan quản lý không trả lời những đề xuất trái với quy định đã ban hành, không có nghĩa là cơ quan kiến nghị được phép thực hiện đề xuất. "Nếu sở nào, địa phương nào cũng đề xuất được thực hiện quy định trái văn bản pháp quy của nhà nước thì công tác quản lý sẽ ra sao?", ông Thành nói. Đây là lần thứ hai trong năm, các văn bản của Hà Nội bị các cơ quan trung ương phản bác vì cho rằng, trái quy định, gây phiền hà.
Đầu tháng 2, Cục Kiểm tra văn bản Bộ Tư pháp đã có văn bản cho rằng, quyết định 51 cấm vận chuyển, buôn bán gia súc, gia cầm trên xe máy, xích lô, xe đạp là không có căn cứ, biểu hiện của "ngăn sông, cấm chợ". Sau đó, UBND Hà Nội đã họp bàn và quyết định tiếp tục cho phép người dân dùng xe máy để chở gia súc, gia cầm.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 16/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.