Điểm tin báo chí sáng ngày 11/3/2009

11/03/2009
Trong buổi sáng ngày 11/3/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Chiều qua (10-3), tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tiếp ông Jitendra Sharma, Chủ tịch Hội Luật gia dân chủ thế giới (IADL).
Ông Jitendra Sharma thông báo IADL và Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đang nỗ lực phối hợp tổ chức tòa án công luận quốc tế ở Paris (Pháp) dự kiến vào tháng 5 sắp tới. Một số luật sư nổi tiếng thế giới đã nhận lời tham gia. Chủ tịch IADL khẳng định IADL quyết tâm vận động sự ủng hộ của quốc tế đối với nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Tòa án công luận quốc tế ở Paris là bước đi đầu tiên trong chiến dịch này. Ông Jitendra Sharma cũng cho biết IADL đang phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam chuẩn bị đại hội Luật gia dân chủ thế giới diễn ra tại Hà Nội vào tháng 6 tới.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh việc đưa vấn đề đòi công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam ra tòa án công luận quốc tế là việc làm của những người yêu chuộng hòa bình, công bằng xã hội.
Báo cũng phản ánh:Để triển khai gói kích cầu về thị trường nông thôn, Bộ Công thương cho biết sẽ phối hợp với một số công ty thương mại tổ chức ba đoàn thí điểm bán hàng lưu động tại các huyện, xã nông thôn. Sản phẩm chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu với giá cả phù hợp.
Dự kiến chương trình này sẽ triển khai trong tháng 3 và kéo dài hết năm 2010. Mỗi tháng, mỗi đoàn tổ chức hai đợt bán hàng lưu động, mỗi đợt kéo dài năm ngày. Bộ Công thương còn dự kiến tổ chức phiên chợ bán hàng cho công nhân tại các khu công nghiệp và phiên chợ cuối tuần tại các khu đô thị lớn.
Ngoài chương trình bán hàng trên sẽ có chương trình hỗ trợ năng lực của doanh nghiệp; tổ chức các hội chợ nông sản, đặc sản cấp vùng, miền và chương trình truyền thông cho hàng Việt với tinh thần kêu gọi người Việt dùng hàng Việt. Tổng kinh phí cho gói kích cầu hàng tiêu dùng khoảng 52 tỷ đồng.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 10-3, Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan liên quan về những khó khăn bất cập khi thi hành Luật Đất đai năm 2003.
Nhiều vấn đề được các sở, ngành, quận, huyện quan tâm bàn luận là: cách phân loại đất; quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất; tài chính đất đai; xác nhận chủ quyền sử dụng đất; trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các ý kiến đều cho rằng có những điều khoản quy định trong Luật Đất đai mâu thuẫn với nhiều luật khác. Ngoài ra, một số quy định của Luật liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… khó thực hiện trong thực tế, nhất là với một đô thị loại đặc biệt như Hà Nội. Nguyên nhân do hiện có đến bốn loại giấy khác nhau: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cũ - mới, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở (sổ hồng) cũ - mới. Các giấy tờ này được đăng ký ở nhiều cơ quan, thực hiện với nhiều loại giấy khác nhau, khiến người dân liên tục phải ở trong thế "chạy theo". Việc cấp giấy hai chứng nhận với đất và nhà cũng gây rất nhiều khó khăn trong việc tham gia giao dịch mua bán bất động sản... Vấn đề đã được người dân kêu rất nhiều, báo chí phản ánh nhiều, nhưng vẫn chậm có sự thay đổi. Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Nội cho biết, hiện nay trên địa bàn Hà Nội còn khoảng 65.000 trường hợp đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người dân không đến nhận vì chưa nộp được lệ phí trước bạ theo giá đất mới (cao hơn từ 8 đến 15 lần giá đất năm 2004). Vì vậy, Sở Tài nguyên - Môi trường đề nghị nghiên cứu sửa đổi theo hướng được ghi nợ cả lệ phí trước bạ, thuế chuyển quyền khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở lần đầu để tạo điều kiện cho người dân được nhận giấy chứng nhận.
Tổng hợp ý kiến các đại biểu, Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội Ngô Thị Doãn Thanh cho rằng, việc sớm sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật là rất cần thiết để phù hợp với thực tế và sự phát triển. Trong đó, việc cấp "sổ đỏ", cần thống nhất cấp 1 loại giấy chứng nhận cho cả nhà và đất mới có thể tháo gỡ được những vướng mắc trong công tác cấp giấy chứng nhận ở địa phương hiện nay.     
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Bộ Tư pháp thổi còi Bộ Nông nghiệp". Bài báo phản ánh: Ngày 9-3, Cục Kiểm tra văn bản QPPL (Bộ Tư pháp) đã có công văn gửi Bộ NN&PTNT đề nghị bộ này tự kiểm tra lại Văn bản 1492/CN-TĂCN ban hành ngày 31-12-2008 về việc kiểm tra melamine trong nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Trước đó, Báo Nhân Dân có ý kiến của Tổng cục Hải quan cho rằng công văn trên của Bộ NN&PTNT “còn nhiều điểm trái với quy định của các văn bản hiện hành, do đó không thể thực hiện được”. Cụ thể, công văn đề nghị Tổng cục Hải quan chỉ đạo các cơ quan hải quan “lấy mẫu xác suất kiểm tra melamine của các loại nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu thuộc nhóm có nguy cơ nhiễm melamine”. Trong khi đó, Luật Hải quan quy định công chức hải quan chỉ lấy mẫu để phục vụ quản lý hải quan chứ không có nhiệm vụ lấy mẫu kiểm tra melamine của các loại nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Một nội dung khác trong công văn “Trong khi chờ kết quả phân tích, cho phép doanh nghiệp được làm thủ tục thông quan và niêm phong các lô hàng nhập khẩu; các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ được phép sử dụng các lô hàng nhập khẩu trên khi có kết quả phân tích melamine phù hợp với quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”. Viết như vậy, người đọc sẽ hiểu là cơ quan hải quan niêm phong hàng hóa sau khi đã thông quan để chờ kết quả kiểm tra. Điều này không phù hợp với quy định tại Nghị định 154/NĐ-CP.
Công văn 1492 yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu phải có văn bản cam kết với cơ quan hải quan về melamine trong nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi nhập khẩu. Điều này cũng không phù hợp với Nghị định 154 vì hồ sơ hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu không có giấy tờ này.
Cục Kiểm tra văn bản QPPL đề nghị Bộ NN&PTNT làm rõ hai nội dung. Thứ nhất, Công văn 1492 tuy ban hành dưới hình thức văn bản hành chính cá biệt nhưng nội dung công văn có chứa quy phạm pháp luật hay không? Thứ hai, nội dung công văn có trái với các văn bản đã dẫn ở trên hay không?...
Báo cũng có bài "Sửa đổi Bộ luật Hình sự: Hiếp dâm sẽ thoát án tử hình?". Bài báo phản ánh: Hôm qua (10-3), hội nghị của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của QH tiếp tục thảo luận về việc sửa đổi Bộ luật Hình sự. Vẫn còn nhiều tranh luận chung quanh 17 điều luật mà ban soạn thảo đề nghị QH bỏ hình phạt tử hình.
Trong số 17 điều được đề nghị bỏ khung phạt tử hình, UBTVQH chỉ đồng tình với tám điều, trong đó có Điều 111 về tội hiếp dâm. Đại diện Bộ Công an, Thứ trưởng Trần Đại Quang, đề nghị giữ lại hình phạt tử hình đối với tội này để đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn. Đồng tình, Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý và đại biểu Nguyễn Văn Tuyết phân tích: Tội hiếp dâm gây tổn hại sức khỏe, thương tật từ 61% trở lên, gây tự sát, chết người thì không thể bỏ tội tử hình được.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận cho rằng: Áp dụng án tử hình xuất phát từ nhận thức xã hội và phong tục tập quán. Các nước châu Á sử dụng nhiều hình phạt này là từ quan niệm “máu trả nợ máu”. Mình sửa lần này là để xây dựng văn hóa, nâng cao tính nhân văn của xã hội. Theo ông: “Nếu kẻ phạm tội chỉ hiếp dâm không thôi, không có hành vi giết người, cướp của mà tử hình thì cũng phân vân. UBTVQH cho rằng “Đối với những người phạm tội hiếp dâm thì hình phạt tù chung thân là đủ tính nghiêm khắc và vẫn đảm bảo răn đe, phòng ngừa chung. Trường hợp người phạm tội vừa hiếp dâm vừa giết người hoặc cướp tài sản thì tùy mức độ phạm tội mà áp dụng hình phạt tử hình về tội giết người hoặc tội cướp tài sản”. Ông Thuận kiến nghị rằng luật nên giữ theo hướng thực thi hình phạt phải nghiêm, chung thân là chung thân chứ không phải là đi tù mười năm rồi ra.
UBTVQH đưa ra phương án đối với Điều 194 về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thành hai điều luật: Điều 194a về tội tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (bỏ hình phạt tử hình); Điều 194b về tội mua bán trái phép chất ma túy (giữ hình phạt tử hình). Thứ trưởng Trần Đại Quang cho rằng: Hiện nay, tình hình phạm tội ma túy diễn biến phức tạp hơn bao giờ hết. Đúng là có nhiều trường hợp người tham gia mang vác, vận chuyển mà không ý thức được hành vi phạm tội hoặc không biết đó là ma túy. Nhưng hiện nay có những vụ vận chuyển rất lớn, có vụ như vừa rồi phát hiện lên đến 8,9 tấn cần sa mà không giữ hình phạt này thì thiếu tính răn đe. “Nên giữ nguyên quy định của Điều 194” - ông Quang kiến nghị. Ông Thuận và ông Lý đồng tình với quan điểm này.
Không thống nhất với các ý kiến trên, Phó Viện trưởng VKSND tối cao Hoàng Nghĩa Mai đề nghị Điều 194 phải thiết kế lại làm sao đó cho hợp lý. Theo ông Mai, lý do khó xác định, bóc tách hành vi vận chuyển, tàng trữ với hành vi buôn bán là không thuyết phục. Ông Mai cho rằng những đối tượng vận chuyển lớn thường nằm trong đường dây mua bán ma túy khép kín, những đối tượng vận chuyển thuê mà không biết đó là ma túy thì trên thực tế cũng không khó chứng minh. Trong khi đó, quy định khung tử hình đối với những người vận chuyển, tàng trữ mà không nhận thức được hành vi thì rất áy náy. “Mục đích của chúng ta khi bỏ án tử hình không chỉ để giảm đi số lượng các điều luật mà là giảm hình phạt trên thực tế. Xét về ý nghĩa đó thì chúng ta chưa đạt được, vì tuy Bộ luật Hình sự 1999 đã giảm 15 điều quy định hình phạt tử hình so với Bộ luật Hình sự 1985 nhưng số hình phạt tử hình trên thực tế không giảm mà còn tăng. Câu hỏi đặt ra là cứ xử hình sự thật nặng thì có giải quyết được vấn đề không? Trong khi đó, chúng ta chưa lường hết được hậu quả về mặt xã hội” - ông Mai băn khoăn.
Về kiến nghị quy định trách nhiệm hình sự đối với với người đứng đầu pháp nhân gây ô nhiễm môi trường, UBTVQH cho rằng tội phạm gây ô nhiễm môi trường thường được thực hiện một cách có tổ chức, do những người trong doanh nghiệp cấu kết với nhau để thực hiện hành vi phạm tội. Nếu trường hợp người đứng đầu doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn trường hợp người này không trực tiếp phạm tội mà chỉ tham gia với tư cách người tổ chức (chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy), người xúi giục thì tùy tính chất, mức độ sẽ bị xử lý với vai trò là đồng phạm.
Theo đó, UBTVQH chỉ đạo sửa Điều 182 tội gây ô nhiễm môi trường theo hướng “thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường, phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác” thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, đề nghị bỏ dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính...” ra khỏi quy định này.
Báo cũng cho biết: Hôm qua (10-3), tại Hà Nội, Cục Công nghệ thông tin (CNTT) Bộ Tư pháp đã làm lễ ra mắt và ký biên bản ghi nhớ hợp tác phát triển ứng dụng CNTT với Tổng Công ty Viễn thông quân đội. Tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nói việc ra đời Cục CNTT là phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Theo Quyết định 2276/QĐ-BTP của bộ trưởng Bộ Tư pháp, Cục CNTT có nhiệm vụ tham mưu, giúp bộ trưởng thống nhất quản lý hoạt động ứng dụng CNTT trong toàn ngành và cung cấp dịch vụ CNTT theo quy định của pháp luật.
2. Báo điện tử Vietnamnet có bài "Pháp giúp Việt Nam đào tạo giảng viên lĩnh vực công chứng". Bài báo phản ánh: Chiều 10/3, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính và Chủ tịch danh dự Hội đồng Công chứng tối cao Cộng hòa Pháp Jean-Paul Decorps đã ký biên bản hợp tác năm 2009.
Theo đó, trong lĩnh vực đào tạo, một khóa tập huấn sẽ được tổ chức trong năm 2009 tại Việt Nam dành cho giảng viên đào tạo công chứng viên hành nghề trong các văn phòng công chứng của Việt Nam. Nội dung chương trình tập huấn sẽ được Bộ Tư pháp và Hội đồng Công chứng tối cao Pháp cùng nhau thỏa thuận. Hội đồng Công chứng tối cao Pháp hỗ trợ việc tìm hiểu môi trường tổ chức hành nghề công chứng ở Pháp cho các công chứng viên hành nghề trong các văn phòng công chứng. Hội đồng Công chứng tối cao Pháp sẽ tổ chức một chuyến khảo sát tại Pháp cho một nhóm chuyên gia Việt Nam (tối đa 7 người) để nghiên cứu thực tiễn hoạt động của các hội đồng công chứng cấp tỉnh, cấp vùng và của các hiệp hội công chứng; hỗ trợ soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Công chứng.
Hội đồng Công chứng tối cao Pháp sẽ tài trợ 15.000 euro cho Bộ Tư pháp Việt Nam để xây dựng Báo cáo đánh giá điều kiện kinh tế, kỹ thuật để chuyển đổi phần mềm công chứng hiện đang sử dụng sang hoạt động trong môi trường WEB.
3. Báo Kinh tế và đô thị có bài "Nhiều chuyển biến trong công tác thi hành án dân sự". Bài báo phản ánh: Qua 3 năm (2005 - 2008) thực hiện Nghị quyết số 49 về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 của Hà Nội, công tác thi hành án dân sự của thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ quan thi hành án đã giải quyết 53.268 việc/61.094 việc có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 87,1%, với tổng số tiền và giá trị hiện vật phải thi hành đạt tỷ lệ 65,7%.
Để đạt được kết quả đó, Ban chỉ đạo công tác thi hành án dân sự của thành phố cũng như các quận, huyện đã thường xuyên chỉ đạo các cơ quan thi hành án đẩy nhanh tiến độ thi hành án; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và đề nghị những ngành liên quan hỗ trợ giải quyết những vụ án phức tạp, tồn đọng, kéo dài. UBND TP cũng đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án trên địa bàn: phân cấp, chuyển giao án có giá trị dưới 500 nghìn đồng cho UBND xã, phường, thị trấn đôn đốc thi hành; kiểm tra tình hình tiếp nhận, quản lý và xử lý tang vật… Bên cạnh đó, Viện Kiểm sát các cấp cùng với ngành Tư pháp, Công anphối hợp chặt chẽ, tư vấn giải quyết nhiều vụ việc phức tạp. Nhờ đó, trong 3 năm qua, công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực. Một số quận, huyện làm tốt công tác thi hành án có giá trị dưới 500 nghìn đồng như quận Cầu Giấy, quận Ba Đình, huyện Sóc Sơn với tỷ lệ giải quyết trên 90% vụ việc.
Tuy nhiên, theo đánh giá của ngành, để công tác thi hành án đạt hiệu quả cao hơn vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh nguyên nhân nội tại như năng lực, trình độ nghiệp vụ của cán bộ thì trong một số vụ việc, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa thống nhất, có trường hợp cơ quan điều tra chưa thực hiện việc kê biên, phong tỏa, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản. Một số bản án tòa tuyên không cụ thể, khó thi hành, đặc biệt về bất động sản; hay việc xét miễn, giảm tiền phạt, án phí đạt tỷ lệ không cao do công tác tuyên truyền chưa sâu rộng.
Hiện việc quản lý Nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự đang còn nhiều vướng mắc, bất cập dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao. Bộ Tư pháp quản lý về biên chế, tiền lương và kinh phí, trong khi đó việc thi hành bản án tại các địa phương có sự gắn bó mật thiết với các chính sách kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Bên cạnh đó, các cơ quan thi hành án cũng cần sự hỗ trợ của chính quyền địa phương về trang thiết bị, đất đai, ngân sách để thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, chính quyền địa phương cần có thẩm quyền quản lý Nhà nước với lĩnh vực này để đạt hiệu quả cao hơn. Và, để góp phần hạn chế án tồn đọng, cần sớm xây dựng các quy định cụ thể về thời gian tiến hành thủ tục thi hành án dân sự như tố tụng hình sự; đối với những việc khi xác minh không có điều kiện thi hành sẽ tạm đình chỉ và định kỳ xác minh. Có như vậy mới phân định được việc thi hành án chậm và thực hiện đúng hay không các quy định của pháp luật.
Trong năm 2009, bên cạnh nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chấp hành viên cùng vớiviệc Luật Thi hành án dân sựcó hiệu lực từ 1/7 cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho cơ quan chuyên môn thực hiện hiệu quả hơn, khắc phục tình trạng án tồn đọng kéo dài.
4. Báo điện tử Diễn đàn doanh nghiệp có bài Lấy ý kiến DN thông qua VCCI: Sẽ hợp lý và hiệu quả hơn. Bài báo phản ánh: “Việc tiếp tục quy định Nghị định 161/2005/NĐ-CP về quy trình bắt buộc lấy ý kiến cộng đồng DN thông qua VCCI đối với những dự án, dự thảo văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của DN trong Nghị định là cần thiết, hợp lý và không tạo ra mất cân bằng với các nhóm đối tượng chịu tác động của văn bản pháp luật khác”. Đó là khẳng định của ông Trần Hữu Huỳnh – Trưởng Ban Pháp chế VCCI trong cuộc trao đổi với DĐDN về quy trình lấy ý kiến cộng đồng DN thông qua VCCI.
- Được biết VCCI đã có Văn bản số 0151/PTM-PC báo cáo bổ sung lấy ý kiến DN qua VCCI trong Nghị định hướng dẫn Luật Ban hành văn vản quy phạm pháp luật (BHVBQPPL) gửi Thủ tướng Chính phủ. Ông có thể cho biết tại sao lại cần có quy định lấy ý kiến cộng đồng DN thông qua VCCI trong khi không có quy định tương tự cho từng nhóm đối tượng khác?
Chúng ta cần thiết phải có một quy trình lấy ý kiến cộng đồng DN thông qua VCCI là bởi: Nhóm văn bản pháp luật về kinh doanh và DN là nhóm văn bản lớn về số lượng và quan trọng về tác động. Bên cạnh đó, quy trình này là cần thiết trong xây dựng hệ thống chính sách pháp luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mô hình ba bên Nhà nước – Xã hội – DN. Quy trình này cũng là điều kiện để các nhóm chủ thể khác thể hiện tiếng nói, quan điểm của mình trong mối quan hệ hài hòa với DN. Hơn thế nữa, quy trình này còn là yếu tố quan trọng để thực thi có hiệu quả quy định về việc lấy ý kiến cộng đồng đối với các dự thảo văn bản pháp luật trong Luật BHVBQPPL, phục vụ cho chiến lược phát triển của đất nước là “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm”. Ngoài ra quy trình này cũng phù hợp với thông lệ và thực tiễn trên thế giới.
Tóm lại, việc tiếp tục quy định Nghị định 161/2005/NĐ-CP về quy trình bắt buộc lấy ý kiến cộng đồng DN thông qua VCCI (tổ chức đại diện cho toàn bộ cộng đồng DN VN) đối với những dự án, dự thảo văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của DN trong nghị định là cần thiết, hợp lý và không tạo ra mất cân bằng với các nhóm đối tượng khác chịu tác động của văn bản pháp luật.
- Vậy ông có thể cho biết trong quy trình này thì nội dung nào là quan trọng nhất?
Nội dung quan trọng nhất là phải quy định rõ nghĩa vụ của các Ban soạn thảo, của VCCI trong việc tổ chức lấy ý kiến DN, hiệp hội DN thuộc các thành phần, ngành hàng khác nhau để thu hẹp tối thiểu sự xung đột, đạt được sự đồng thuận tối đa vì lợi ích chung của quốc gia. Ngoài ra, một trong những nội dung quan trọng khác của quy trình này là các nhóm chủ thể khác có điều kiện để thể hiện tiếng nói, quan điểm của mình trong mối quan hệ hài hòa với DN.
Thực tế cho thấy, quy trình lấy ý kiến đối với các văn bản pháp luật về hoạt động kinh doanh mà VCCI thực hiện trong thời gian qua (theo Nghị định 161/2005/NĐ – CP) là không bó hẹp về việc lấy ý kiến các DN và hiệp hội DN. Trên thực tế, VCCI đóng vai trò là đầu mối tập hợp các ý kiến của nhóm chủ thể này (đối tượng tác động trực tiếp), đồng thời với các chủ thể khác có mối liên quan (các chuyên gia nghiên cứu, các nhà khoa học, các đại diện người tiêu dùng, người lao động, các nhà hoạt động thực tiễn, các luật sư...), từ đó tiến hành cân nhắc, xử lý, hài hòa các lợi ích liên quan. Vì vậy các ý kiến được VCCI chuyển tải cho các cơ quan soạn thảo thực tế là ý kiến của cộng đồng DN và các nhóm lợi ích khác đã được điều chỉnh để hài hòa thành lợi ích chung vì sự phát triển bền vững.
- Với kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới thì quy trình này sẽ tạo điều kiện gì cho DN, thưa ông?
Rất nhiều nước trên thế giới đã chú trọng đến nhóm đối tượng là DN trong quá trình lấy ý kiến cộng đồng đối với các dự thảo văn bản pháp luật. Ngoài ra, ở nhiều nước, việc bắt buộc đánh giá tác động của văn bản pháp luật (tác động dự báo Regulatory Impacts Assessment – RIA khi văn bản còn là dự thảo; và tác động thực tế Regulatory Impacts Evaluasion – RIE khi văn bản đã được thông qua và thực thi) bằng việc khảo sát thực tế lấy ý kiến của nhóm đối tượng chịu tác động tập trung chủ yếu vào DN. Lý do được đưa ra là đây là nhóm văn bản rất quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội và chính trị tại các nước đó.
Hiện nay ở nước ta, các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh và DN cũng đang chiếm phần lớn trong hệ thống các văn bản pháp luật. Xét về cả số lượng và tác động thì đây là nhóm văn bản pháp luật quan trọng. Nếu nó được soạn thảo cẩn trọng, bám sát thực tiễn thì khi được ban hành sẽ tác động trực tiếp và lâu dài đến hoạt động kinh doanh của DN, từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cũng như sự phát triển của một số ngành, thậm chí là cả nền kinh tế. Đó là chưa kể đến những tác động dây chuyền đối với các nhóm chủ thể khác như người lao động, người tiêu dùng... Sắp tới, chúng tôi kiến nghị Chính phủ cần ban hành văn bản quy định quy trình đánh giá hiệu quả của các văn bản pháp luật sau khi được áp dụng trong thực tế (RIE).
Trên đây là điểm báo sáng ngày 11/3/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm