Trong buổi sáng ngày 18/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 17-12, Hội nghị sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo trong cả nước đã diễn ra tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.Sau một năm triển khai thực hiện Nghị quyết 30a đã huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao. Bước đầu, các chính sách trợ giúp người nghèo về nhà ở; nâng mức khoán khoanh nuôi, bảo vệ rừng; trợ giúp gạo cho hộ nghèo thôn, bản biên giới cùng các chính sách khác được triển khai có kết quả đã tạo sự chuyển biến một bước về đời sống của người dân trên địa bàn các huyện nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình của 62 huyện nghèo đã giảm được 4%, từ 47% (năm 2008) xuống còn 43% (năm 2009).
Theo báo cáo của Bộ LÐ -TB và XH, đến ngày 30-11-2009, các huyện đã khởi công xây dựng 59.731 căn nhà, trong đó 36.313 căn đã hoàn thành và bàn giao cho hộ nghèo sử dụng. Trong việc khoán chăm sóc, bảo vệ và giao đất trồng rừng, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đã có gần 73.000 hộ được hưởng lợi, với tổng diện tích giao khoán hơn 399.000 ha rừng. Hơn 7.000 hộ nghèo ở các thôn, bản giáp biên giới được trợ giúp hơn 2.800 tấn gạo. Chính sách xuất khẩu lao động đã triển khai thí điểm tại 28 huyện nghèo của 10 tỉnh, đã có hơn 2.900 lao động đăng ký đi làm việc ở nước ngoài, trong đó khoảng 2.500 lao động trúng sơ tuyển. Tính đến nay, gần 1.000 lao động đã xuất cảnh sang các thị trường Ma-lai-xi-a, Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất..., với mức thu nhập ổn định từ 4 đến 6,5 triệu đồng/tháng. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, 41 Tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp đã nhận giúp đỡ 62 huyện nghèo, đến tháng 11-2009, 38/41 doanh nghiệp cam kết hỗ trợ cho 62 huyện nghèo tổng số tiền 2.103 tỷ đồng trong giai đoạn 2009-2010 (riêng năm 2009 là 697 tỷ đồng).
Phó Thủ tướng nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị quyết 30a nhằm xóa nghèo nhanh và bền vững cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phải đạt được sáu mục tiêu đã đề ra về đời sống, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Ðể đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của các huyện nghèo xuống dưới 40% vào cuối năm 2010, các địa phương cần tập trung thực hiện 11 giải pháp đồng bộ, xây dựng nông thôn mới ở các huyện nghèo. Trong năm 2010, ưu tiên hoàn thành việc phân khu chức năng các xã nghèo, bao gồm các khu hành chính, trường học, y tế, khu sản xuất, phát triển làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... Các tỉnh có huyện nghèo, xã nghèo cần đặc biệt quan tâm đào tạo nguồn nhân lực cán bộ cơ sở, đào tạo nghề cho người lao động. Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần phát huy vai trò, tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp ở các huyện nghèo phát triển, giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho nhân dân sở tại.
2. Trang web Chính phủ phản ánh: Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương hoàn thành công tác lập, phê duyệt quy hoạch khoáng sản, công tác khoanh định khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản. Cùng với đó là yêu cầu các địa phương tiếp tục rà soát và xử lý các giấy phép hoạt động khoáng sản đã cấp, cũng như nhắc nhở việc cấp mới phải bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật. Cụ thể với 7 tỉnh: Cao Bằng, Bình Thuận, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Định, Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Long, Phó Thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh này phải chỉ đạo rà soát việc ủy quyền cấp phép khai thác khoáng sản cho UBND cấp huyện, Sở Tài nguyên và Môi trường để thu hồi hoặc điều chỉnh phù hợp.
Đối với UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đặc biệt là các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Thừa Thiên Huế, Thái Nguyên, An Giang, Quảng Bình, Phú Yên, Quảng Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Dương, Đắk Lắk, theo Phó Thủ tướng là cần thực hiện các giải pháp hữu hiệu để tiếp tục giải tỏa hoạt động khai thác khoáng sản trái phép, ngăn chặn nguy cơ tái diễn, kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm, đồng thời kiểm điểm và làm rõ trách nhiệm của lãnh đạo địa phương trong việc để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản kéo dài.
Chỉ đạo trên của Phó Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản trên cả nước, đồng thời ngăn chặn các sai phạm trong hoạt động khoáng sản hiện đang diễn ra ở một số địa phương.
Theo kết quả tổng kiểm tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành mới đây, tình hình hoạt động khai thác khoáng sản ở một số địa phương còn có tồn tại cần sớm được xử lý, giải quyết. Ở một số địa phương, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác khoáng sản chưa toàn diện, bao quát hết, thậm chí có nơi người dân địa phương rủ nhau đi khai thác khoáng sản trái phép, công tác cấp phép hoạt động khoáng sản chưa chặt chẽ, nhiều báo cáo tác động môi trường chưa đáp ứng yêu cầu,...
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: "Có nên công khai thông tin tài chính một tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt" là vấn đề nhận được ý kiến khác nhau trong phiên thảo luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) ngày 17-12 về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi).
Trước các ý kiến (trong kỳ họp Quốc hội vừa qua) đề nghị cho phép ngân hàng nước ngoài cho vay để đầu tư chứng khoán dài hạn, cơ quan soạn thảo vẫn đề nghị giữ nguyên như dự thảo là không cho ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu vì mức độ rủi ro rất lớn, có thể gây mất an toàn đối với từng tổ chức tín dụng và toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng. Việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn từ dân cư để cho vay kinh doanh, đầu tư cổ phiếu có mức độ rủi ro cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn của hệ thống ngân hàng.
Song, Thường trực Ủy ban Kinh tế của QH đã bác lại lập luận này. Theo quan điểm của Ủy ban này, thực chất, cho vay kinh doanh chứng khoán là loại hình cho vay ngắn hạn, mang tính thương mại đơn thuần. Do vậy, nên cho phép các ngân hàng thương mại cho vay kinh doanh cổ phiếu. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, Ủy ban Kinh tế của QH đề nghị Ngân hàng Nhà nước phải định ra điều kiện, giới hạn mà các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép cho vay vào hoạt động này.
4. Báo Thanh niên phản ánh: Theo báo cáo tài chính năm 2008, tính đến 31.12.2008, tổng tài sản, nguồn vốn của SCIC là 40,718 nghìn tỉ đồng. Trong đó, nợ phải trả là 27,3 nghìn tỉ đồng, vốn chủ sở hữu 13,4 nghìn tỉ đồng... Điển hình của việc sử dụng nguồn vốn thiếu hiệu quả của SCIC xảy ra ở Quỹ Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp T.Ư, quỹ này được Thủ tướng Chính phủ giao SCIC quản lý. Ở thời điểm 31.12.2008, theo tính toán của KTNN, quỹ có số vốn là 26,7 nghìn tỉ đồng, trong khi báo cáo của SCIC chỉ có 25,7 nghìn tỉ đồng.
SCIC đã mang vốn của quỹ này đi gửi tại các ngân hàng thương mại lấy lãi. Số tiền lãi thu được sau đó bị SCIC chủ động tách ra khỏi quỹ. Qua kiểm tra, KTNN đã đưa toàn bộ số tiền lãi ngân hàng bổ sung vào quỹ. Sự điều chỉnh này đã giúp Quỹ Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp T.Ư tăng thêm 1.006 tỉ đồng (trong đó, lãi dự thu 838 tỉ đồng, lãi tiền gửi ngân hàng hạch toán nợ phải trả 167 tỉ đồng), đạt số vốn lên tới 26,762 nghìn tỉ đồng. Theo KTNN, việc “gửi ngân hàng lấy lãi” của SCIC “chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của SCIC được Nhà nước giao”. Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận định: “Việc đem toàn bộ vốn từ Quỹ Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp T.Ư giao cho SCIC quản lý gửi vào các ngân hàng thương mại thu lãi hằng tháng làm cho hiệu quả khai khác, sử dụng vốn chưa cao”.
Việc quản lý, điều hành tại SCIC bộc lộ nhiều yếu điểm. Báo cáo kết quả giám sát của UB Thường vụ Quốc hội còn chỉ ra một tồn tại khác của SCIC, đó là việc giao cho SCIC quản lý phần vốn nhà nước tại 892 doanh nghiệp, trong đó phần lớn là doanh nghiệp quy mô nhỏ, phân bổ ở nhiều địa phương trong cả nước là chưa phù hợp với nguồn lực và khả năng của SCIC. KTNN đã kiểm tra, chọn mẫu việc quản lý và hạch toán doanh thu cổ tức tại 55/100 doanh nghiệp nhóm B, qua đó phát hiện việc hạch toán thiếu tại 7 doanh nghiệp 44,6 tỉ đồng. Đối với công tác tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, việc phân phối tiền thù lao và tiền thưởng của cán bộ SCIC tham gia kiêm nhiệm Chủ tịch HĐQT, ban kiểm soát tại doanh nghiệp với tỷ lệ 60% vào quỹ công đoàn, 40% cho người kiêm nhiệm là chưa đủ cơ sở.
Về quản trị điều hành, SCIC chưa thực hiện xây dựng định mức lao động đối với từng loại công việc và chưa có giải trình cụ thể cơ sở xây dựng đơn giá tiền lương. Trong quá trình thực hiện, chỉ tiêu về hệ số cấp bậc và mức lao động định biên có sự thay đổi lớn, vượt quy định nhưng SCIC chưa báo cáo giải trình. SCIC cũng chưa kê khai và nộp kịp thời thuế thu nhập cá nhân...
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo điện tử VnMedia có bài Văn hóa pháp luật trong hoạt động luật pháp. Bài báo phản ánh: Đó là nội dung quan trọng được nêu ra trong buổi tọa đàm “Văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp” do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp chủ trì tổ chức... PGS.TS Nguyễn Đăng Dung - ĐHQG Hà Nội cho biết: “So sánh nội dung của Luật Thanh niên vừa được Quốc hội thông qua với những bản dự thảo đầu tiên của luật này người ta có thể thấy thời gian dành cho việc soạn thảo dự luật này cho đến khi được Quốc hội thông qua đúng 15 năm”. Nhưng thực tế không ít thanh niên Việt Nam không biết đến sự tồn tại của Luật Thanh niên vì sự ra đời của nó hầu như không ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Vậy, tại sao thời gian dành cho quy trình soạn thảo, xem xét, thông qua một dự án luật lại kéo dài đến như vậy. Xây dựng thì khó nhưng tại sao luật lại không có được “chỗ đứng” trong chính những đối tượng mà nó điều chỉnh. Phải chăng vấn đề mấu chốt ở đây chính là văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp?
Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, văn hóa pháp luật trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam có thể được hiểu một cách cụ thể là các giá trị của các hoạt động này của Nhà nước, tức là những giá trị được hình thành trong quá trình xây dựng và ban hành các Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). So với trước đây, thì Luật Ban hành VBQPPL với chặng đường của mình đã đạt được thành công trong việc xác định thế nào là VBQPPL cũng như quy trình hình thành nên nó. Và, hệ thống VBQPPL là một trong những biểu hiện của văn hóa pháp luật. Nhưng, bên cạnh đó, vẫn còn những vấn đề cần phải nghiêm túc nhìn nhận. Đó là, việc lãng phí thời gian trong hoạt động lập pháp không chỉ thể hiện ở việc thời gian soạn thảo dành cho một đạo luật kéo dài, mà còn là sự thiếu tính kịp thời để phản ứng nhanh nhạy với những đòi hỏi của thời cuộc. Theo ông Dung, nguyên nhân trước hết của tình trạng này chính là tính cứng nhắc của việc làm luật theo chương trình hàng năm hoặc theo từng nhiệm kỳ Quốc hội. Các dự án luật nằm chờ đến lượt mình trong một dãy dài danh sách các dự án được liệt kê trong chương trình lập pháp. Với quan niệm phải có đủ luật để điều chỉnh tất cả các mối quan hệ trong xã hội, chương trình lập pháp của chúng ta là sự “nhồi nhét” các dự án với những lập luận rất kêu về tính cần thiết phải được ban hành. Thế nhưng, chặng đường để đi từ những lập luận đó đến những nội dung cụ thể trong dự thảo còn rất dài và tiêu tốn nhiều thời gian...
Bên cạnh đó, cách thức tổ chức và năng lực soạn thảo cũng là nguyên nhân làm cho thời gian soạn thảo đã dài lại càng dài hơn. Việc thiếu giai đoạn phân tích và quyết định rành mạch về chính sách cũng góp phần làm cho thủ tục xin ý kiến nhân dân về các dự án luật, vốn được coi là công đoạn hy vọng làm cho nội dung của các dự án luật trở nên gần gũi và dễ chấp nhận hơn đối với công chúng, trở nên hình thức và tốn kém. Đối với người dân - vốn đã ít quan tâm đến chuyện Nhà nước, nay lại bị buộc phải đọc tràng giang đại hải những quy phạm không có nội dung, chính sách rõ ràng quả là chuyện đánh đố - ông Dung cho biết thêm.
Về vấn đề này, TS. Hoàng Thị Ngân - Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức hành chính Nhà nước và công vụ - Văn phòng Chính phủ cho biết, văn hóa pháp luật của cán bộ, công chức chính là trạng thái tốt của ý thức pháp luật. Theo đánh giá của TS. Hoàng Thị Ngân: “Hiện nay, ý thức pháp luật của cán bộ công chức còn không ít hạn chế, vì thế, một số bộ phận công chức đã có sự sa sút, thoái hóa về đạo đức, thậm chí dẫn đến việc vi phạm pháp luật không những gây ra sự không hài lòng cho người dân mà còn dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện". Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hiện nay trong các trường chuyên nghiệp vấn đề giảng dạy đạo đức ít được chú trọng, ở khâu tuyển dụng các cơ quan tuyển dụng cũng chỉ đòi hỏi nhiều loại chứng chỉ mà bỏ qua việc xem xét đạo đức, ứng xử.
Theo TS. Hoàng Thị Ngân, để thay đổi được vấn đề, nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ, công chức, không thể chỉ được giải quyết qua một số biện pháp có tính chuyên biệt mà còn phải đặt trong tổng thể giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động công vụ. Cần thiết phải đưa được ra các chuẩn mực đạo đức công chức, đánh giá nghiêm túc kết quả làm việc và đạo đức công vụ của cán bộ công chức, kiên quyết loại bỏ những công chức yếu kém (do năng lực hoặc do thái độ làm việc) ra khỏi hệ thống. Nhưng thực tế hiệnnày, việc này khó thực hiện được tại rất nhiều cơ quan Nhà nước. Hầu hết cán bộ, công chức đều được đánh giá, phân loại tốt và hoàn thành nhiệm vụ.
Theo quy định, nếu bệnh nhân bảo hiểm y tế khám vượt tuyến thì phải thanh toán trực tiếp 100% chi phí khám chữa bệnh với bệnh viện, sau đó mang hóa đơn về thanh toán với cơ quan bảo hiểm xã hội. Và để được cơ quan bảo hiểm thanh toán viện phí theo đúng chế độ, phiếu thu của bệnh nhân BHYT phải có đủ 7 chữ ký của 7 bộ phận khác nhau. Chính quy định này đã làm mất rất nhiều thời gian của bệnh nhân. Nhiều người bệnh đã phải xếp hàng vào khám, giờ lại phải xếp hàng chờ chữ ký để ra viện.
Anh Hoàng Tuấn Anh (ở Bạch Mai, Hà Nội) cho biết, vì đứa con gái 3 tuổi của anh bỗng đau bụng quằn quại và sốt cao nên gia đình vội đưa cháu vào cấp cứu vào bệnh viện Nhi Trung ương. Sau khi phải chờ đợi khá lâu, con anh mới đến lượt được khám và cấp cứu. Đến đầu giờ sáng hôm sau, tình trạng sức khoẻ của cháu đã ổn định và được các bác sỹ cho ra viện. Tưởng như vậy là gia đình có thể thở phào nhẹ nhõm và yên tâm ra về, nhưng đến lúc đi thanh toán mới thì còn sốt ruột hơn vì khâu xếp hành chờ xin đủ 7 chữ ký. Thế là anh phải cho cháu về buổi sáng và đến chiều mới đến làm thủ tục thanh toán tiếp.
Tương tự như vậy, chị Nguyễn Thị Hiền (ở Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội) đưa con gái 9 tuổi đi mổ ruột thừa. Chị phàn nàn: Để được hưởng chế độ bảo hiểm y tế, trên phiếu thu của con tôi phải có đủ 7 chữ ký, từ chữ ký của bệnh nhân, kế toán thanh toán đến chữ ký của bác sĩ điều trị, y tá hành chính, giám định viên bảo hiểm y tế, phòng Kế hoạch Tổng hợp của bệnh viện. Chạy đi chạy lại không biết bao nhiêu lượt tôi mới có đủ ngàn ấy chữ ký. Sốt ruột quá, tôi hỏi lại y tá còn bị mắng xơi xơi.
Những người gặp phải cảnh như anh Tuấn Anh, Chị Hiền không hiếm. Chị Nguyễn Thanh Hương (Thanh Trì, Hà Nội) sau khi nằm điều trị bệnh sốt xuất huyết tại Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương cũng phải xuất viện trước rồi đến ngày hôm sau mới tới viện thanh toán, vì khâu thủ tục bảo hiểm y tế phải qua quá nhiều bước. Hôm sau vào thanh toán chị phải đến thật sớm và cũng chờ đến trưa mới thanh toán xong. Theo chị, đúng là kiểu thủ tục “hành là chính”.
Theo ông Vũ Quý Hợp, Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp, Bệnh viện Nhi Trung ương thì có đến 4/7 chữ ký yêu cầu để được thanh toán bảo hiểm y tế là không cần thiết. Việc này chỉ làm rắc rối thêm cho cả người bệnh lẫn nhân viên thu phí của bệnh viện. Ông Hợp cho rằng, theo lý thuyết, bệnh nhân phải ký vào để xác nhận đã sử dụng những dịch vụ nào từ bệnh viện. Bác sỹ điều trị xác nhận lại đã dùng những dịch vụ nào cho bệnh nhân này. Y tá hành chính xác nhận là đã tổng hợp đầy đủ. Tuy nhiên, thực chất nhiều bệnh nhân không có chuyên môn nên không thể biết quá trình điều trị bác sỹ đã sử dụng những thuốc gì, do đó có thể bỏ, không cần bắt bệnh nhân ký.
Ngoài ra, chữ ký của y tá hành chính cũng không cần thiết vì thao tác này đơn thuần cũng chỉ là tổng hợp lại danh mục các dịch vụ đã sử dụng nên không có ý nghĩa gì cả. Cả chữ kỹ của bác sỹ điều trị cũng lại không cần thiết. Khi giám định lại để tiến hành thanh toán theo chế độ bảo hiểm y tế, mỗi bệnh nhân đều phải có phiếu thu, giấy tờ vào viện, ra viện cùng hồ sơ bệnh án. Trong bệnh án đã thể hiện đầy đủ chuyên môn: bác sỹ đã dùng gì, dùng như thế nào, liều lượng bao nhiêu. Vì vậy, theo ông Hợp, có thể chỉ cần chữ ký của phòng Tài chính kế toán, của giám định viên bao hiểm y tế (đến từ cơ quan chi trả bảo hiểm) và Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp là được.
Liên quan đến việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, bà Tống Thị Song Hương, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế) cũng thừa nhận nhiều bất cập của luật Bảo hiểm y tế mới sau mấy tháng triển khai. Và bất cập lớn nhất được phản ánh từ nhiều bệnh viện và người bệnh chính là thủ tục thanh toán để được hưởng bảo y tế quá rườm rà. Bên cạnh đó còn có một số bất cập như: Chưa kịp in thẻ Bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi, một số dịch vụ kỹ thuật và thuốc bảo hiểm y tế không nằm trong danh mục dành cho đối tượng này, khó xác định đối tượng được hưởng các loại thuốc ngoài danh mục thanh toán của cơ quan bảo hiểm, khó xác định bệnh nhân tai nạn giao thông có phạm luật hay không…
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Gỡ vướng BLDS: Cho sở hữu nhà từ thời điểm công chứng?. Bài báo phản ánh: Ngày 17-12, tại TP.HCM, Bộ Tư pháp đã tổ chức hội nghị tổng kết thi hành Bộ luật Dân sự (BLDS) phần liên quan đến quyền sở hữu và hợp đồng. Trong ngày đầu tiên, các đại biểu đã tập trung mổ xẻ những quy định chưa rõ ràng, không phù hợp hoặc chồng chéo về quyền sở hữu mà nóng nhất là sở hữu bất động sản.
Theo luật sư Phan Trung Hoài (Đoàn Luật sư TP.HCM), gần đây tranh chấp giữa các hộ dân với các nhà đầu tư tại các khu chung cư, căn hộ cao cấp diễn ra khá phổ biến (The Manor, Tản Đà, Mỹ Vinh...). Nội dung tranh chấp tập trung chủ yếu vào vấn đề sở hữu chung, riêng liên quan đến các phần như tầng hầm để xe, phòng sinh hoạt cộng đồng, hành lang công cộng... Đến nay, những tranh chấp này vẫn chưa ngã ngũ vì vẫn chưa bên nào dám chắc quan điểm pháp lý của mình là đúng. Cụ thể, BLDS chưa hề có quy định nào liên quan đến vấn đề xác định sở hữu tài sản chung, riêng trong các chung cư. Còn Luật Nhà ở thì quy định về sở hữu riêng trong nhà chung cư lại chung chung. Cạnh đó, nếu phân tích theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng thì chủ đầu tư cũng có thể có quyền sở hữu riêng một khu vực, công trình trong nhà chung cư.
Trên thực tế, điển hình nhất hiện nay là việc tranh chấp quyền sở hữu liên quan đến tầng hầm giữ xe. Theo đó, giá trị đầu tư cho các tầng hầm này rất lớn nhưng nhà đầu tư không tính trong giá thành bán căn hộ. Vì vậy ở Hà Nội đã có trường hợp chủ đầu tư phải lập barie để chặn xe ôtô của các hộ dân chưa đóng phí như thỏa thuận. Còn ở TP.HCM, nhiều hộ dân cư đã phản đối mức phí giữ xe tại tầng hầm khu căn hộ cao cấp quá cao so với quy định của UBND TP. Tuy nhiên, bảng phí được xây dựng từ năm 2005 này đã thực sự lạc hậu. Phần lớn các khu chung cư, căn hộ cao cấp khi thực hiện dịch vụ trông giữ xe với mức phí thỏa thuận cũng không đủ bù đắp phần chi phí đã bỏ ra. Vì vậy, một số chủ đầu tư đã có văn bản xin UBND TP điều chỉnh, xem xét hướng dẫn lại mức phí so với mặt bằng thực tế hiện nay nhưng chưa nhận được hồi âm.
Tại các khu căn hộ cao cấp, cũng vì pháp luật chưa quy định rõ nên các bên vẫn còn xảy ra tranh cãi về phí quản lý chung. Khi mới đưa vào hoạt động thì chi phí vận hành do nhà đầu tư chịu nhưng khi có sự phát sinh đòi hỏi có sự đóng góp của các hộ dân thì lại dẫn đến tranh cãi. Đến nay, Sở Xây dựng TP.HCM mới đang đưa ra tham khảo về mức phí này. “Phần sở hữu chung hay riêng sẽ chỉ được phân định rạch ròi khi nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở cho các căn hộ và phần sở hữu riêng cho nhà đầu tư” - luật sư Hoài kết luận. Đồng tình, PGS-TS Dương Đang Huệ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật kinh tế-dân sự - Bộ Tư pháp, nói nếu chỉ sửa chữa, bổ sung vài điều luật thì không thấm tháp vào đâu so với tình hình thực tế hiện nay. Sắp tới, Bộ Tư pháp sẽ kiến nghị lên Quốc hội về việc phải có luật quản lý nhà chung cư mới điều chỉnh được đầy đủ vấn đề này.
Một vấn đề được các đại biểu bàn tán khá sôi nổi là quyền sở hữu nhà được chuyển giao từ thời điểm nào. Theo Điều 168 BLDS, bên mua, nhận, tặng cho... được công nhận quyền sở hữu nhà kể từ thời điểm đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, Luật Nhà ở lại cho phép bên nhận chuyển nhượng được sở hữu nhà từ thời điểm hợp đồng được công chứng (đối với cá nhân), hoặc từ thời điểm giao nhận (đối với cơ quan, tổ chức). Tình trạng này dẫn đến nhiều bất cập trong quá trình thi hành các phán quyết của tòa đối với các giao dịch mua bán và xử lý tài sản bị kê biên, bán đấu giá.
Theo ông Đỗ Quốc Dũng (Phòng Công chứng số 4, TP.HCM), vì quy định chồng chéo này mà ông đã gặp nhiều trường hợp dở khóc dở cười. Ví dụ, có những người ra công chứng hợp đồng mua bán nhà xong liền lập tức ra công chứng bán ngay cho người khác khi chưa đăng ký và họ dựa vào Luật Nhà ở để đấu lý. “Tôi chỉ còn biết giải thích rằng... Luật Đất đai quy định phải đăng ký quyền sử dụng đất nên không thể công chứng. Nhưng nếu họ nói chỉ bán nhà thôi thì tôi chẳng biết giải thích thế nào”. Từ đó, ông Dũng cho rằng các luật khác nên quy định theo BLDS để dễ dàng áp dụng.
Ngược lại, TS Dương Anh Sơ (Trường Đại học Quốc gia TP.HCM) lại cho rằng BLDS nên sửa đổi theo hướng xác lập quyền sở hữu kể từ thời điểm công chứng như Luật Nhà ở. Theo TS Dương, việc đăng ký chỉ là để quản lý về mặt nhà nước mà thôi. Nếu sau khi chứng thực mà người dân không đi đăng ký trong thời gian hạn định thì đã có chế tài rồi.
Báo cũng có bài Dự Luật Tiếp cận thông tin: Cần chế tài nếu không cung cấp thông tin. Bài báo phản ánh: Chiều 17-12, Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp cùng Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức tọa đàm về vai trò của báo chí với quyền tiếp cận thông tin.
Nhà báo lão thành Hữu Thọ nói: “Để thông tin được đa dạng, nhiều chiều, người làm báo phải có trách nhiệm cung cấp thông tin từ nhiều nguồn. Trong đó nguồn quan trọng nhất là từ cơ quan công quyền. Thế nhưng theo cảm nhận của tôi, cơ quan công quyền ở bất kỳ nước nào cũng không muốn cung cấp thông tin”. Ông Thọ cho biết ngay từ năm 1947, Hồ Chủ tịch cũng đã nhắc đến “sự im lặng đáng sợ” của các cơ quan công quyền lúc bấy giờ. Tức là từ khi đó, các nhà báo đã gặp phải sự-im-lặng-đáng-sợ. Ông nói tiếp: “Cần có một phương pháp luận khác khi xây dựng dự án Luật Tiếp cận thông tin. Còn cầu toàn, chờ đầy đủ công cụ, đầy đủ dữ liệu thì “kiếp sau mới có luật””. “Đọc dự luật lần này, tôi vừa mừng vừa chưa yên tâm. Mừng vì trong luật đã đề cập thời hạn cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp thông tin cho người có yêu cầu. Chưa yên tâm vì chưa nói rõ lý do trì hoãn, từ chối. Mà trên đời có hàng trăm, hàng ngàn lý do. Giám sát việc trì hoãn, từ chối này thế nào? Nếu sử dụng cơ chế nội bộ kiểm soát nhau sẽ không bao giờ kiểm soát được vì không ai tự phô ra cái kém của mình. Còn nếu lập một cơ quan riêng thì phức tạp” - nhà báo Hữu Thọ nói.
Tổng biên tập báo Tiền Phong Đoàn Công Huynh dẫn lại câu chuyện giữa tuần trước tại cuộc gặp mặt của Thủ tướng với giới luật sư. Lúc ấy, các luật sư có nêu: Làm thế nào luật sư có thể tiếp cận thông tin để tham gia hiệu quả vào tố tụng hình sự? “Ở đây, ai giỏi hơn luật sư trong việc tự bảo vệ họ? Ai giỏi hơn luật sư trong việc vận dụng luật? Vậy mà họ cũng không tiếp cận được thông tin thì dân và nhà báo tôi e là khó. Vì thế, dự luật cần bổ sung thật sắc nét chế tài khi không thực hiện việc cung cấp thông tin”.
Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam Lê Quốc Trung cho rằng cần đề cập đến vị trí, trách nhiệm của báo chí cao hơn trong Luật Tiếp cận thông tin. Dự luật đã xác định báo chí là một phương tiện để công bố công khai, rộng rãi thông tin nhằm mục đích bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, lợi ích cộng đồng... vẫn chưa đủ. “Cần xác định thêm trách nhiệm của báo chí trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân. Thực tế rất nhiều trường hợp công dân yêu cầu cung cấp thông tin qua cơ quan báo chí vì bản thân họ không biết phải liên hệ ở đâu. Từ đó có thể bổ sung vào dự luật hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu báo chí và nên giao cho báo chí trách nhiệm giám sát việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin...