I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tuổi trẻ có bài Các quốc gia phải liên kết để chống bạo lực gia đình. Bài báo phản ánh: Đó là một trong những ý kiến chung của trên 50 đại biểu là các nữ nghị sĩ đến từ hàng chục quốc gia tại hội thảo “Vai trò của nhóm nữ nghị sĩ trong xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình” tổ chức tại TP Huế trong hai ngày 14 và 15-12.
Tại cuộc hội thảo, bà Flor Rios - đại biểu Quốc hội Venezuela - cho biết ở Venezuela vấn đề phòng chống bạo lực gia đình đã được ghi trong hiến pháp. “Chúng tôi có các tòa án đặc biệt trên toàn quốc, có những mức phạt cao đối với người bạo hành, có những khuyến khích cho người phụ nữ tố cáo hành vi bạo hành” - bà Flor Rios nói.
Bà Bùi Thị Bình - phó chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, phó chủ tịch nhóm nữ nghị sĩ VN - nói: “Một trong những khó khăn, thách thức lớn được các nghị sĩ thừa nhận là do ảnh hưởng phong tục, tập quán và định kiến xã hội với phụ nữ chính là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến nạn bạo lực gia đình”.
2. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, theo công bố của Chính phủ, trong năm 2009 đầy khó khăn, thách thức, có 1% số hộ gia đình ở Việt Nam dự kiến sẽ thoát nghèo. Như vậy, sau gần 4 năm, Việt Nam đã đạt được sự bứt phá đáng kinh ngạc trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, với thành tựu tỷ lệ hộ nghèo giảm tới 9% từ 20% vào thời điểm cuối năm 2005. Tuy nhiên, khuất sau con số đầy ấn tượng trên đang lộ ra những mảng màu khác.
Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2008, được tiến hành cùng với Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định rằng, Việt Nam tiếp tục đạt được tiến bộ trong lĩnh vực giảm nghèo, tuy có sự khác biệt về phương pháp tính toán giữa WB và Chính phủ Việt Nam. Theo WB, tỷ lệ hộ nghèo năm 2008 là 14% so với tỷ lệ 12% của Chính phủ.
Chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Hà Nội, ông Martin Rama đồng ý rằng, bên cạnh những nỗ lực đáng ghi nhận của Chính phủ, việc Việt Nam giữ nguyên chuẩn nghèo suốt mấy năm qua, bất chấp tỷ lệ lạm phát qua từng năm khá cao, là một trong những nguyên nhân đạt được thành tích trên. Theo Quyết định số 170 của Thủ tướng Chính phủ, ký ngày 8-7-2005, chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 là 200.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng ở thành thị. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng của các năm 2006, 2007, 2008 và 2009 (dự kiến) lần lượt tăng là 6,6%, 12,6%, 23% và (dự kiến) 6%. Ngay từ tháng 7-2008, thời điểm diễn ra Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó có bàn về tam nông, đặc biệt là nông dân chiếm tỷ lệ nghèo nhiều nhất, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội lập phương án điều chỉnh chuẩn nghèo của nước ta áp dụng cho giai đoạn 2009-2010.
5 tháng sau đó, Bộ này đã trình lên Thủ tướng Chính phủ phương án nâng chuẩn nghèo lên 50% so với chuẩn nghèo năm 2005. Thế nhưng, phương án này không được phê duyệt. Vì sao? Theo các chuyên gia một trong những nguyên nhân chính là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế thế giới đối với nước ta, vì thế ưu tiên cần dành cho những đối tượng khác để vực dậy nền kinh tế thoát khỏi đáy suy giảm kinh tế.
Theo số liệu của Vụ trưởng Vụ Lao động, Văn hóa và Xã hội (Bộ Kế hoạch-Đầu tư), số hộ thuộc diện cận nghèo (cao hơn chuẩn nghèo đang áp dụng và thấp dưới chuẩn nghèo theo đề nghị điều chỉnh) là hơn 1 triệu hộ. Mới đây, một cuộc khảo sát, điều tra của một tổ chức trong nước phối hợp với hai tổ chức quốc tế tiến hành đã công bố, hiện nay trên cả nước có tới 7 triệu trẻ em đang sống ở mức nghèo. Sự “nghèo” ở đây, được mở rộng sang các lĩnh vực hưởng các chính sách về giáo dục, chăm sóc sức khỏe, học hành và vui chơi giải trí.
Cũng như khoảng cách giàu-nghèo ở người lớn, 7 triệu trẻ em nghèo chủ yếu rơi vào “vùng trũng” ở nông thôn, miền núi và vùng sâu, vùng xa. Tương tự, tỷ lệ trẻ em nghèo thường “rơi” vào các hộ nghèo ở nông thôn, miền núi, các dân tộc thiểu số. Cha mẹ nghèo, thu nhập thấp, trong bối cảnh suy giảm kinh tế, đời sống vô vàn khốn khó, thì đương nhiên con cái họ cũng cùng hứng chịu thiệt thòi về mọi phương diện so với trẻ em ở thành thị và những hộ gia đình có thu nhập trung bình, cao và ổn định.
Bàn về vấn đề tỷ lệ nghèo theo chuẩn hiện hành, Vụ trưởng Vụ Lao động, Văn hóa và Xã hội nhấn mạnh đến một thách thức không thể xem thường mà Trung Quốc, một nước cũng có tỷ lệ dân nghèo khá cao đã gặp phải và đang chịu hệ lụy. Đó là sự nghèo hiện không còn lại hiện tượng dàn trải trên diện rộng toàn quốc, mà quy tụ ở những địa bàn, những nhóm dân cư nhất định, đặc biệt ở những khu vực vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc thiểu số. Có những nơi hộ nghèo chiếm tới 95%, thậm chí “trăm phần trăm”.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Tiếp tục giải trình rõ về lương, thưởng, thu nhập của lãnh đạo Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng như những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của siêu doanh nghiệp này, hôm qua (15-12), trong buổi giao ban lãnh đạo các cơ quan báo chí, Phó Tổng Giám đốc SCIC Hoàng Nguyên Học đã xin được trình bày thêm. Theo ông Học, mức thu nhập của lãnh đạo SCIC 78,5 triệu đồng/tháng trong năm 2008 mà Kiểm toán Nhà nước nêu thực ra là tổng thu nhập chưa nộp thuế, bao gồm: tiền lương tháng 49,3 triệu đồng; lương và thưởng được điều chỉnh tăng thêm do vượt kế hoạch doanh thu 15,7 triệu đồng; các khoản lương, chi làm thêm giờ của năm 2007 nhưng trả vào quý I-2008 là 5,9 triệu đồng; các khoản làm thêm giờ, tiền đồng phục, tiền khoán sử dụng điện thoại 6,1 triệu đồng và tiền thưởng, ăn trưa trích từ quỹ phúc lợi 1,5 triệu đồng.
Đến tháng 7-2009, khi Kiểm toán Nhà nước vào cuộc và có ý kiến không tán thành một số khoản lương, thưởng, ban lãnh đạo SCIC mới tự động cắt toàn bộ khoản tăng lương, thưởng cũng như tiền làm thêm giờ của năm 2008. Như thế, thu nhập của lãnh đạo trong năm 2008 chỉ còn 49,3 triệu đồng/tháng (cao hơn một chút so với mức được duyệt là 40 triệu đồng/tháng). Sau khi nộp thuế, thực lãnh chỉ còn 36,4 triệu đồng.
Lãnh đạo SCIC cũng thừa nhận là qua báo cáo của Kiểm toán Nhà nước có ba vấn đề tồn tại. Thứ nhất, tổng công ty chưa cung cấp đầy đủ và phân tích cụ thể số liệu, tình hình cho đoàn kiểm toán, dẫn tới không phân định được thu nhập để tính thuế thu nhập cá nhân. Thứ hai, quỹ lương được phê duyệt là với quy mô 180 lao động. Thực tế SCIC chỉ có 130 cán bộ, nhân viên nhưng vẫn xài cả quỹ đó. Sau khi Kiểm toán Nhà nước có ý kiến, SCIC đã điều chỉnh giảm quỹ lương 2008 đi 3,8 tỉ đồng. Thứ ba, việc chi trả tiền lương làm thêm giờ trong một số trường hợp vượt quá quy định.
Vấn đề dư luận quan tâm là tính kinh tế, tính hiệu quả trong hoạt động của SCIC có tương xứng với mức lương chi trả cho lãnh đạo cũng như nhân viên tổng công ty. Giải trình, Phó Tổng Giám đốc Hoàng Nguyên Học dẫn ra một phần kết luận kiểm toán: “Qua hơn hai năm hoạt động, SCIC đã bước đầu thực hiện có hiệu quả cơ chế mới về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, chuyển từ phương thức cấp phát vốn sang đầu tư và kinh doanh vốn... Vốn đầu tư dàn trải tại nhiều doanh nghiệp đã bước đầu tập trung về một mối, tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung vốn đầu tư của nhà nước”.
Tuy nhiên, lượng hóa hiệu quả kinh tế đó thì năm 2008, tỉ suất lợi nhuận trước thuế tính trên vốn chủ sở hữu của SCIC chỉ đạt 12,4% - kết quả khá thấp. Ông Học giải thích, tỉ suất thấp là bởi SCIC mới bước đầu nhận chuyển giao doanh nghiệp nhà nước từ các bộ ngành, địa phương, trong đó tới 87% quy mô nhỏ, vốn điều lệ bình quân chưa đến 10 tỉ đồng. Gần một nửa số doanh nghiệp này chỉ đạt lợi nhuận dưới 10% và khá nhiều đơn vị còn thua lỗ...
4. Báo Lao động phản ánh: Nếu giảm tần suất báo cáo thuế từ 12 lần/năm xuống 4 lần/năm sẽ giúp tiết kiệm cho doanh nghiệp tới 650 tỉ đồng/năm, ứng với 325.000 doanh nghiệp. Nếu bãi bỏ thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề buôn bán thuốc bảo vệ thực vật sẽ giúp tiết kiệm được gần 31 tỉ đồng mỗi năm.
Sẽ có nhiều “giả thuyết” nữa đặt ra. Mỗi giả thuyết tương đương với một khoản chi phí cụ thể, đồng nghĩa với ngần ấy số tiền bạc của dân, doanh nghiệp được tiết kiệm. Lượng hóa lợi ích của đề án đơn giản thủ tục hành chính bằng mô hình chi phí chuẩn. Đó là một trong những nội dung được tổ công tác chuyên trách cải cách hành chính của Thủ tướng nhấn mạnh trong hội nghị tập huấn mới đây tại Hà Nội. Theo đó, sử dụng mô hình chi phí chuẩn làm công cụ tính toán nhằm phân tích chi tiết đến từng hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức trong việc tuân thủ các quy định về thủ tục hành chính sẽ giúp cơ quan quản lý nhà nước lượng hóa được lợi ích do đề án 30 (đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010) mang lại.
Áp dụng mô hình này, các bộ, ngành sẽ có cơ sở tính toán được lợi ích của việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, loại bỏ các thủ tục không cần thiết và chi phí quá lớn so với lợi ích đạt được, giảm bớt một số hoạt động trong thủ tục hoặc giảm tần suất thực hiện nhằm giảm chi phí tuân thủ. Lâu nay, sức ỳ của thủ tục hành chính phiền hà vẫn là trở lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Có khi là cơ hội đầu tư bỏ lỡ, doanh nghiệp ngán ngẩm. Có thể là những khoảng tối dung dưỡng cho một số công chức biến chất mặc sức hành dân. Nhưng trên hết là hình ảnh của một xã hội năng động hội nhập sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực trong cơ chế xin - cho, quan cách, rắm rối của mớ bòng bong ngàn lẻ một thủ tục chưa được giản lược.
Nhưng giản lược thủ tục hành chính, nói ra thì nhẹ như bấc, nhưng thực tế không đơn giản như là chuyện phát hành một loạt văn bản, cái sau phủ định cái trước, chỗ nào đi vào thực tế mà khiếm khuyết thì được quyết định lại cho hoàn hảo. Sự thể sẽ thế nào nếu người tiền nhiệm - “cha đẻ” của một nhóm thủ tục “hành là chính” - vẫn còn ảnh hưởng? Sẽ ra sao khi chính những con người vận hành thủ tục “hậu tinh giản” chưa đủ năng lực đảm nhiệm cái mới?
Tấn công vào thành trì của bảo thủ trì trệ, mà thủ tục hành chính phiền hà là một trong những cửa ải quan trọng, cần có sự chuẩn bị đầy đủ lực lượng, mà quan trọng là phương sách thuyết phục. Việc “quy thóc” tất cả những cái lợi nếu đem gỡ bỏ đi những đầu mục quy định không cần thiết, chính là cách làm vừa công khai minh bạch, vừa hiệu quả thiết thực, đánh đúng vào “tử huyệt” của sự vô lý tồn tại bấy lâu nay. Phương pháp luận nghe có vẻ nhà nông ấy, qua lần thể nghiệm này, nếu ổn càng cần được nhân rộng.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vneconomy có bài Xây dựng luật: “Vất vả” từ soạn thảo đến thực hiện. Bài báo phản ánh: Trung bình hàng năm số lượng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình Quốc hội chỉ đạt 75 - 80% kế hoạch. Đây là con số được nêu ra tại Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 55/2005/QH11 về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chiều 15/12, tại phiên họp thứ 26, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận nội dung này. Theo kết quả giám sát, trong những năm qua, việc chuẩn bị và trình các dự án luật, pháp lệnh vẫn trong tình trạng chậm so với tiến độ, kế hoạch đã đề ra. Năm 2008 Chính phủ có trách nhiệm trình Quốc hội 39 dự án luật nhưng đã có tới 9 dự án được rút khỏi chương trình đã được Quốc hội thông qua. Năm 2009, Chính phủ cũng xin hoãn, rút khỏi chương trình 7 dự án.
Kết quả giám sát cũng cho thấy, tình trạng nợ đọng các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật tuy đã giảm từ 60% (giữa năm 2006) xuống còn 10% (cuối năm 2007) song vẫn chưa được khắc phục triệt để. Trong 63 luật, 18 pháp lệnh, 1 nghị quyết của Quốc hội đã có hiệu lực thi hành còn 274/704 nội dung chưa được quy định chi tiết. Không ít trường hợp luật đã có hiệu lực hàng năm, nhưng văn bản quy định chi tiết vẫn chưa được ban hành. Trong khi đó, nhiều nơi phải chờ có văn bản này thì mới tổ chức thi hành luật, pháp lệnh. Thậm chí chỉ cần biết và áp dụng văn bản quy định chi tiết mà không áp dụng trực tiếp luật, pháp lệnh để thi hành.
Một trong những nguyên nhân chủ quan được Ủy ban Pháp luật chỉ ra là lãnh đạo một số cơ quan chủ trì và tham gia soạn thảo dự án luật chưa thực sự coi trọng và đầu tư thích đáng, thời gian công sức và nguồn lực cho nhiệm vụ quan trọng này. Vì vậy, bên cạnh kiến nghị nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật, ủy ban này còn đề nghị nghiên cứu xây dựng soạn thảo dự án luật, pháp lệnh theo hướng giao cho một cơ quan độc lập, chuyên trách. Thay vì giao cho các bộ, ngành như hiện nay. Cần có một cơ quan chuyên trách “gác cổng” cho Chính phủ và Quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Thuận nói. Tuy nhiên, hầu hết các ý kiến thảo luận cho rằng đề nghị này khó khả thi trong điều kiện nước ta hiện nay.
Liên quan đến những nội dung khác, đại diện Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa an nhân dân tối cao cũng như nhiều vị ủy viên Thường vụ đều nhất trí cao với đánh giá, kiến nghị của ủy ban Pháp luật. Là, cần đổi mới từ nhận thức đến cách thức làm luật. “Nếu không đổi mới thì không bao giờ chấm dứt được tình trạng như bây giờ, luật của Quốc hội ban hành mà có khi phải chờ ủy ban nhân dân xã có văn bản thì mới được thực hiện”, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu. Một số ý kiến khác cho rằng, sở dĩ có tình trạng luật “vất vả” đi vào cuộc sống là do quá trình chuẩn bị cho ra đời một dự án luật nhiều khi quá gấp gáp nên không đảm bảo chất lượng. Hơn nữa cả nhân lực và kinh phí dành cho công tác này đều chưa đáp ứng yêu cầu. “Bộ trưởng nhiều nước sinh ra là để hoạch định chính sách, trong khi ở nước ta phải điều hành trực tiếp. Có mưa bão phải đến tận nơi phát gói mỳ cho bà con không thì dễ mất uy tín lắm”, Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng chia sẻ.
2. Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 15-12, VKSND huyện Cam Lộ (Quảng Trị) cho biết đã gửi đơn đến giám đốc Sở Tư pháp tỉnh kiến nghị xem xét, kỷ luật luật sư Võ Đình Minh, Giám đốc Công ty Luật hợp danh Cộng Đồng, vì đã xúi giục bị cáo khai gian.
Theo kiến nghị của VKSND huyện Cam Lộ, luật sư Minh đã xúi giục bị cáo Đào Tâm Sự (trú xã Cam Thành, Cam Lộ) thay đổi lời khai trong vụ trộm cắp tài sản được TAND huyện Cam Lộ xét xử ngày 27-5. Trước đó, Sự đã thừa nhận kết quả điều tra của cơ quan Công an huyện Cam Lộ nhưng khi vụ án được đưa ra xét xử thì bị cáo phản cung và cho rằng việc khai báo tại cơ quan điều tra trước đó là do bị ép cung. Tuy nhiên, sau đó bị cáo Sự đã khai nhận việc mình phản cung là làm theo sự chỉ dẫn của luật sư Minh.
3. Trang web Saga.vn có bài Cần tiếp tục con đường tự do hóa lãi suất. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản luôn là đề tài nóng trên các các phương tin thông tin, đặc biệt nó đã trở thành “điểm nóng” trên diễn đàn Quốc Hội. Nhiều ý kiến không đồng tình với đề xuất của Ngân hàng Nhà nước và thậm chí còn phản ứng rất găy gắt, và đặt câu hỏi liệu rằng NHNN đang “kiên trì bảo vệ lợi ích của các tổ chức tín dụng?”. Lý do phản đối việc bỏ lãi suất cơ bản chủ yếu là: 1. Bộ luật dân sự phải điều chỉnh lãi suất cho vay của các tổ chức, cá nhân, trong đó có tổ chức tín dụng, là căn cứ để cơ quan tư pháp giải quyết các tranh chấp dân sự.
2. Các nền kinh tế lớn trên thế giới đều sử dụng công cụ lãi suất cơ bản.
3. Việc NHNN đề nghị bỏ lãi suất cơ bản là vì lợi ích cục bộ.
Tuy nhiên, cần xem xét những lập luận này có chính xác hay không? Để thấy rõ có cần thiết quy định lãi suất cơ bản trong Bộ luật dân sự hay không, nên xem lại tinh thần của Bộ luật dân sự đầu tiên của nước ta - Bộ luật Dân sự 1995. Điều 473 Bộ luật Dân sự 1995 quy định như sau: “Lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do NHNN Việt Nam quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Thời điểm Bộ luật dân sự 1995 ra đời NHNN đang điều hành lãi suất theo cơ chế trần lãi suất cho vay: NHNN công bố mức trần lãi suất và các NHTM chỉ được cho vay tối đa bằng mức trần lãi suất công bố. Thế thì tại sao Bộ luật Dân sự 1995 lại cho phép cho vay vượt qua 50% mức lãi suất cao nhất (tức lãi suất trần)? Đây chính là ý đồ của các nhà soạn thảo và cũng là tinh thần của Bộ luật Dân sự 1995, điều đó định rõ rằng Bộ luật Dân sự không điều chỉnh lãi suất cho vay của các NHTM mà chỉ là căn cứ để phán quyết các hoạt động cho vay “phi chính thức”, và lãi suất cho vay “phi chính thức” không được vượt quá 50% lãi suất cho vay chính thức cao nhất (lãi suất cao nhất mà tổ chức tín dụng cho vay đối với khách hàng và cũng là trần lãi suất). So sánh điều này với quy định về lãi suất cơ bản trong Bộ luật Dân sự năm 2000 thì sẽ thấy rõ quy định hiện nay là thiếu khoa học và thực tế, nó thiếu khoa học ở chỗ Bộ luật Dân sự 2000 không kế thừa tinh thần của Bộ luật Dân sự năm 1995, mà đơn giản chỉ sửa đổi về từ ngữ (khi không còn lãi suất trần để căn cứ thì sửa lại là lãi suất cơ bản), và không có suy xét thấu đáo về tác động của nó. Một điều nữa là hoạt động cho vay chính thức và “phi chính thức” đều được quy định một mức lãi suất tối đa như nhau.
Về lý do không bỏ lãi suất cơ bản vì “đây là tiêu chí để xác định nghĩa vụ dân sự” thì có lẽ hơi thiển cận. Nền kinh tế có biết bao nhiêu loại giá, và lãi suất cũng chỉ là một loại giá, không lẽ các hàng hóa khác đều phải có quy định về “giá cơ bản” trong Bộ luật Dân sự để các cơ quan tư pháp làm tiêu chí. Căn cứ để xác định lãi suất hợp lý khi xử lý tranh chấp dân sự thì có nhiều cách và đây là một phần nghiệp vụ cửa cơ quan Tư pháp, hoặc có thể chỉ cần một văn bản của NHNN hướng dẫn việc này, và Bộ luật Dân sự chỉ nên quy định một cách chung nhất. Nếu theo lập luận của đại biểu thì có lẽ Bộ luật dân sự phải quy định biên độ cho rất nhiều loại giá chứ không chỉ lãi suất?Thực tế trong thời gian qua, việc phải xác dịnh nghĩa vụ dân sự trong các tranh chấp dân sự thì không chỉ có lãi suất mà còn nhiều loại tài sản khác, và cơ quan tư pháp đều có thể xác định mà không cần đến quy định trong Bộ luật dân sự. Về việc cho rằng: “các nền kinh tế lớn đều dùng công cụ lãi suất cơ bản với mục tiêu góp phần điều tiết thị trường lãi suất” để so sánh với chúng ta là một sự nhầm lẫn vô cùng tai hại. Sự giống nhau ở đây có chăng chỉ là từ “lãi suất cơ bản” trong tiếng Việt. Công cụ lãi suất để điều tiết thị trường nhiều nước sử dụng các tên gọi khác nhau, nhưng được nhiều phương tiện truyền thông trong nước gọi chung là “lãi suất cơ bản”. Trong phạm vi bài viết không thể nói hết cơ chế điều hành của các nước phát triển trên thế giới, nhưng tựu trung lại “lãi suất cơ bản” ở các nước chỉ là lãi suất mang tính định hướng và không có bất kỳ sự ràng buộc nào ví dụ như biên độ... Ngân Hàng Trung Ương sẽ can thiệp để đạt được mức lãi suất định hướng bằng các công cụ thị trường chứ không có kiểu quy định mang tính hành chính như chúng ta. Và chắc chỉ có ở Việt Nam: một công cụ điều hành của Ngân Hàng Trung Ương được quy định trong Bộ luật Dân sự. Con đường tự do hóa lãi suất để xây dựng một thị trường tài chính vững mạnh đã được NHNN thực hiện từ khi có Pháp lệnh Ngân hàng. Từ thời gian đầu NHNN quy định cụ thể lãi suất tiền gửi và cho vay, đến “nới lỏng” hơn: quy định sàn lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay, rồi đến lãi suất cơ bản cộng biên độ, và cuối cùng là bỏ biên độ vào tháng 6/2002.Hơn ai hết NHNN hiểu rõ những nỗ lực khó khăn để tiến đến tự do hóa lãi suất, việc phải từ bỏ một công cụ hành chính mang tính áp chế mạnh và dễ thực hiện đối với NHNN nhưng lại gây nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh tế không phải là dễ dàng, và vì nếu lợi ích và sự thuận tiện của mình trong thực thi chính sách thì NHNN đã không thúc đẩy quá trình này. Thực tế công cụ lãi suất cơ bản “đã chết” từ khi NHNN bỏ biên độ, nhưng bước tiến đó đã bị kéo lùi bởi những quy định trong Bộ luật Dân sự. Năm 2008 NHNN đã chính thức áp dụng trở lại lãi suất cơ bản với biên độ theo quy định của Bộ luật Dân sự, đây là “bước lùi” lớn trên con đường tự do hóa lãi suất. Thực tế lãi suất cơ bản là một công cụ “hữu danh vô thực” nhưng NHNN đã không thể phát triển các công cụ điều hành lãi suất mang tính thị trường đủ mạnh để can thiệp khi cần thiết. Và năm 2008, khi đối mặt với một bên là những cáo buộc về việc không tuân thủ theo Bộ luật Dân sự, nhưng mặt quan trọng hơn là trước tình hình lãi suất có biến động mạnh cần phải can thiệp thì NHNN không thể có công cụ đủ mạnh, nên đành áp dụng trở lại lãi suất cơ bản với biên độ. Lẽ ra, NHNN nên chấm dứt những tranh cãi về việc không tuân thủ Bộ luật Dân sự từ những năm trước bằng cách công bố chấm dứt sử dụng công cụ lãi suất cơ bản để điều hành lãi suất, đồng thời đưa ra giải pháp tình thế để tiếp tục thực hiện theo quy định của Luật NHNN là: vẫn công bố lãi suất cơ bản, nhưng từ một công cụ điều hành lãi suất cơ bản sẽ trở thành một chỉ số về lãi suất, bằng việc thay đổi cách tính lãi suất cơ bản.
Điều đó có nghĩa là lãi suất cơ bản sẽ được tính bằng bình quân lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Và như thế chính lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng quyết định lãi suất cơ bản, và mức lãi suất này được các cơ quan Tư pháp tham chiếu để xử lý các khoản cho vay “phi chính thức”. Bên cạnh đó, NHNN phải phát triển các công cụ điều hành lãi suất thay thế đủ mạnh để điều tiết thị trường. Cõ lẽ cũng vì lý do là các công cụ thay thế chưa phát triển đủ mạnh nên NHNN không đưa ra được lý lẽ thuyết phục qua mấy lần đề nghị Quốc Hội bỏ quy định về lãi suất cơ bản. Các lý do của NHNN đưa ra không thuyết phục đại biểu Quốc Hội cũng là điều dễ hiểu. Bằng chứng thuyết phục nhất là NHNN phải chứng minh rằng: tự do hóa lãi suất không có nghĩa là Chính phủ (mà cụ thể là NHNN) không điều hành được lãi suất thị trường, và NHNN có những công cụ thay thế tốt hơn và đủ mạnh để can thiệp khi cần thiết mà không đem lại hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế như công cụ lãi suất cơ bản. Con đường tự do hóa lãi suất là tất yếu, và nếu Quốc Hội không thông qua đề xuất của NHNN thì chỉ làm chậm quá trình mà thôi, và sự chậm trễ này sẽ gây nên nhiều tác hại cho thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.