Trong buổi sáng ngày 19/9/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 18-9, tại Hà Nội, Bộ Công an (cơ quan T.Ư thực hiện Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN) tổ chức hội nghị quan chức cao cấp các nước ASEAN lần thứ ba với sự tham dự của 10 đoàn đại biểu các nước trong khu vực.
Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN được ký vào năm 2004 tại Kuala Lumpur (Malaysia), được sáu nước thành viên ASEAN phê chuẩn và là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự giữa các nước Ðông - Nam Á, thể hiện sự nhất trí và quyết tâm chung của các nước ASEAN trong hợp tác phòng, chống tội phạm (PCTP) trong khu vực, nhất là tội phạm xuyên quốc gia. Các đoàn đại biểu tham dự hội nghị đã trao đổi ý kiến, thảo luận, nhằm tổng kết, đánh giá quá trình ký kết, tham gia hiệp định; qua đó xác định những khó khăn, vướng mắc và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hiệp định.
Thượng tướng Lê Thế Tiệm, Thứ trưởng Công an nhấn mạnh, việc tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để ngăn chặn và chống lại các loại tội phạm khủng bố quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tham nhũng, buôn lậu, tội phạm về ma túy, mua bán người qua biên giới, sản xuất và lưu hành tiền giả, cướp biển, lừa đảo quốc tế... có ý nghĩa rất quan trọng đối với cộng đồng quốc tế nói chung, cộng đồng ASEAN nói riêng.
Hội nghị là cơ hội tốt để chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, làm rõ và sâu sắc hơn các khía cạnh pháp lý của vấn đề và đưa ra giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả công tác tương trợ tư pháp về hình sự trong toàn ASEAN.
2. Báo Người lao động phản ánh: Việc thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) tồn tại nhiều hạn chế, cả số lượng và chất lượng ký kết còn rất thấp so số lượng doanh nghiệp (DN) và CĐ cơ sở.
Mới khoảng 45%-50% DN có vốn đầu tư nước ngoài và 55%-60% DN khu vực DN dân doanh ký kết TƯLĐTT. Thực trạng này được Tổng LĐLĐ VN cùng các chuyên gia Viện Friedich Ebert (FES, Đức) nêu lên trong hội thảo “So sánh các mô hình thương lượng tập thể và kinh nghiệm CĐ quốc tế”, ngày 18-9 tại Hà Nội. “Độ dài của TƯLĐTT không quan trọng bằng nội dung bên trong. TƯLĐTT lên tới mấy chục trang nhưng hoàn toàn là sao chép luật, không có ý nghĩa đối với người lao động (NLĐ). Trong khi, chỉ cần vài điều khoản có lợi cho NLĐ trong một trang giấy mới là thứ NLĐ cần”- ông Mai Đức Chính, Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ VN, nhìn nhận.
Các chuyên gia Viện FES nhận định, tại VN, TƯLĐTT chưa được ở 4 điểm: chủ sử dụng lao động không hợp tác; nội dung chưa thiết thực, có lợi; CĐ can thiệp chưa tốt và triển khai thực hiện chưa được.
Trong khi đó, cán bộ CĐ cơ sở không đủ sức đảm đương được tất cả nhiệm vụ này. Thực tế, các DN chưa tôn trọng sự hợp tác với Ban Chấp hành CĐ trong quá trình thương lượng và ký kết TƯLĐTT. Theo lãnh đạo Tổng LĐLĐ, trong dự thảo điều lệ CĐ sửa đổi sắp trình Đại hội X CĐ VN, sẽ tăng cường vai trò của CĐ cấp trên, tăng cường hỗ trợ CĐ cơ sở trong thương lượng. Tổng LĐLĐ đang có kế hoạch triển khai thí điểm ở một số địa phương lớn như Hà Nội, TPHCM. Theo đó, các địa phương này phải thành lập một đội chuyên gia nắm rõ thông tin kinh tế, luật pháp để giúp CĐ cơ sở trong việc thương lượng.
3. Báo Vnexpress phản ánh: Vedan Việt Nam vừa có công văn gửi Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên Môi trường, khẳng định, nước thải sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của công ty được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường.
Công văn được ông Chen Ping Huei, Phó tổng giám đốc Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam, ký ngày 17/9. Theo đó, công ty này sử dụng hai nguồn nước với những mục đích riêng: để làm mát máy móc và phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Mỗi ngày Vedan khai thác 75.000 m3 nước từ sông Thị Vải để làm mát máy móc. Lượng nước này sau đó sẽ được dẫn qua hệ thống mương hở dể hạ nhiệt độ trước khi thải ra sông.
Cũng trong báo cáo của mình, Vedan khẳng định đã chấp hành việc xây dựng các hệ thống xử lý nước thải cũng như nộp phí môi trường. Từ 1993 đến nay, Vedan đã xây dựng 3 hệ thống xử lý nước thải có tổng số vốn đầu tư 3,5 triệu USD với công suất thiết kế đủ đảm bảo việc xử lý khối lượng nước thải của toàn bộ nhà máy. Công ty này còn dự kiến đưa vào sử dụng một hệ thống xử lý nước thải mới trị giá 500.000 USD vào cuối năm nay.
Trước đó, Đoàn kiểm tra của Cục Cảnh sát môi trường (Bộ Công an) và Bộ Tài nguyên môi trường đã đưa ra những bằng chứng về hàng loạt sai phạm nghiêm trọng của Vedan. Trung bình mỗi tháng Vedan xả 45.000 m3 dịch thải sau khi lên men xuống sông Thị Vải, chưa kể hơn 5.000 m3 xả trực tiếp ra sông mỗi ngày chưa qua xử lý.
Đại tá Lương Minh Thảo, Cục phó Cảnh sát môi trường cho biết, hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn (mà Vedan công bố) được xây dựng song song với hệ thống xả trộm nhưng chủ yếu hoạt động cầm chừng để ngụy trang và đối phó với đoàn kiểm tra. Chất thải được xả ra vào ban đêm, thường 8-12h tối, qua các cống ngầm sâu 7-8 m dưới lòng sông.
Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Phạm Khôi Nguyên nhận định, những vi phạm của Vedan là nghiêm trọng, tinh vi và kéo dài nhiều năm nay, nếu bằng nghiệp vụ thanh tra môi trường thì không thể bắt quả tang.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tiền phong có bài "Những phiên tòa “nói không” với... lẽ phải - Phó Chánh án giúp tẩu tán tài sản kê biên". Bài báo phản ánh: Không hiểu do cố ý hay nghiệp vụ có vấn đề, Phó Chánh án TAND thành phố Huế Huỳnh Kim Đào đã ra quyết định trái pháp luật, công nhận thỏa thuận chia tài sản cho người đang chịu thi hành án (THA) dân sự nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài sản.
Hội đồng giám đốc thẩm đã xác định đây là việc làm vi phạm nghiêm trọng về tố tụng dân sự. Qua 12 năm có hiệu lực THA, nhưng người thắng kiện vẫn cứ trắng tay.
15 năm trước, trong một thương vụ làm ăn tại Quảng Tây - Trung Quốc, ông Vương Gia Bân đã bán cho bà Trần Thị Đoan (trú tại 67 Ông Ích Khiêm - Huế) 100 tấn bột mì trị giá 158.000 nhân dân tệ. Khi nhận đủ 100 tấn bột mì chuyển về Việt Nam, bà Đoan đã không chịu trả tiền, cũng không đổi cây mây cho ông Bân như từng giao ước. Không đòi được nợ, ngày 22/7/1996, ông Vương Gia Bân khởi kiện bà Đoan ra tòa. Phiên sơ thẩm do TAND tỉnh Thừa Thiên - Huế xét xử ngày 29/11/1997 tuyên buộc bà Trần Thị Đoan phải trả cho ông Vương Gia Bân 399,333 triệu đồng Việt Nam.
Ngày 29/12/1997, cơ quan THA tỉnh Thừa Thiên - Huế ra quyết định thi hành án, tiếp đến là quyết định cưỡng chế kê biên tài sản gồm 1/2 ngôi nhà số 67 Ông Ích Khiêm (tài sản chung giữa vợ chồng bà Trần Thị Đoan và ông Mai Văn Lép). Nhưng đã 12 năm trôi qua, vụ kiện vẫn chưa thể thi hành án. Tổng số tiền cả gốc lẫn lãi suất buộc phải trả hiện đã lên đến hơn 1 tỷ đồng.
Sở dĩ bà Đoan tránh được việc trả nợ trong nhiều năm qua là nhờ sự giúp sức của quan chức ngành tòa án thành phố. Bởi sau khi có quyết định cưỡng chế của cơ quan THA tỉnh Thừa Thiên - Huế, bà Đoan và chồng đã đưa nhau ra TAND thành phố Huế xin thỏa thuận ngôi nhà 67 Ông Ích Khiêm - Huế thành tài sản riêng của ông Lép.
Việc chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại, có dấu hiệu trốn tránh nghĩa vụ về tài sản, trái với quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân gia đình, nhưng vẫn được Thẩm phán Huỳnh Kim Đào -Phó Chánh án TAND thành phố Huế- nhắm mắt tuyên chấp nhận việc thỏa thuận của vợ chồng bà Đoan. Theo đó, tài sản nhà và đất được xác định giá trị 552,626 triệu đồng, bà Đoan “thỏa thuận” giao cho ông Lép 477,760 triệu đồng, chỉ nhận về mình 80,396 triệu đồng.
Một điều gây trở ngại nữa cho việc THA, đó là tài sản đất và nhà tại 67 Ông Ích Khiêm lại nằm ở khu vực giải tỏa Thượng thành Huế, được nhà nước đền bù, hỗ trợ theo diện giải tỏa. Dựa vào “lá bùa” do Phó Chánh án Huỳnh Kim Đào “ban phát” và sự thờ ơ của các cơ quan chức năng, ông Lép đã được giải quyết chi trả ngay 477,760 triệu đồng tiền đền bù giải tỏa ngôi nhà 67 Ông Ích Khiêm, số tiền còn lại là 80,396 triệu đồng (phần bà Đoan) do biết chắc dù có nhận cũng bị cưỡng chế THA nên bà này cố tình “quên” luôn.
Chưa hết, mặc dù biết bà Đoan đang chịu THA dân sự, nhưng chính quyền thành phố Huế vẫn chấp nhận để người này nhường quyền sử dụng chung lô đất số 21, rộng 119,6m2, tại KQH tái định cư Hương Sơ lại cho ông Mai Văn Lép. Sau khoảng nửa tháng, ông Lép đã nhanh chóng được UBND thành phố Huế chấp nhận chuyển quyền sở hữu lô đất này cho con gái của vợ chồng bà Đoan là Mai Trần Ngọc Lan (SN 1986). Những tài sản có giá trị lớn liên quan đến bà Đoan đến đây xem như được “dọn sạch” nhằm thoát THA.
Thắng kiện vẫn kiệt quệ, trắng tay
Việc bà Đoan tìm cách trốn tránh THA trong nhiều năm qua rõ ràng là vi phạm pháp luật, với sự tiếp tay của cán bộ các cơ quan thực thi pháp luật tại TT- Huế. Ngày 28/1/2008, Hội đồng Giám đốc thẩm đã ra Quyết định số 01/2008/TCDS-GĐT nêu rõ, việc tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án công nhận sự thỏa thuận phân chia tài sản khi hôn nhân đang tồn tại và không có tranh chấp chia tài sản là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự, trái với Luật Hôn nhân gia đình; đồng thời tuyên hủy quyết định thỏa thuận phân chia tài sản nêu trên.
Thời điểm này, ông Vương Gia Bân dù thắng kiện nhưng vẫn đang trắng tay, hoàn cảnh kinh tế trở nên kiệt quệ, vì cơ quan THA không còn biết cưỡng chế cái gì từ bà Đoan khi toàn bộ tài sản đã được “hô biến” thành sở hữu của người khác ngay trong thời gian bà Đoan chịu quyết định THA. Quá bức xúc và uất ức, ông Vương Gia Bân đang có đơn đề nghị khởi tố vụ án, nhằm làm rõ trách nhiệm của Thẩm phán Huỳnh Kim Đào và một số cán bộ thành phố Huế.
2. Báo Quân đội nhân dân có bài "Cần sớm thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật". Bài báo phản ánh: Cách đây hai năm, ngày 10-11-2006, do nợ ngân hàng, Công ty cổ phần Quan hệ quốc tế và Đầu tư sản xuất (CIRI - gọi tắt là Công ty CIRI) đã ký hợp đồng cam kết chuyển nhượng lô đất C/D 13 ở khu đô thị mới quận Cầu Giấy (Hà Nội) cho Công ty cổ phần xây dựng Vạn Niên (gọi tắt là Công ty Vạn Niên). Ngay sau khi hợp đồng được ký kết, Công ty Vạn Niên đã thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các điều khoản của hợp đồng, chuyển vào tài khoản của Ban quản lý dự án quận Cầu Giấy hơn 65 tỷ đồng. Đây là toàn bộ số tiền mà Công ty CIRI phải trả cho Ban quản lý dự án theo quyết định phê duyệt trúng đấu giá.
Lô đất này Công ty CIRI đã trúng đấu giá trước đó gần một năm nhưng do không có tiền để trả nên phải rao bán với giá thấp hơn giá chuyển nhượng cho Công ty Vạn Niên sau một thời gian dài không có doanh nghiệp nào mua. Lẽ ra theo hợp đồng, 5 ngày sau khi nhận tiền, Công ty CIRI phải hoàn thành các thủ tục để các cơ quan chức năng xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Vạn Niên, song đến tận tháng 8-2007, khi đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, họ vẫn không bàn giao cho Công ty Vạn Niên mà lại đi… rao bán chính lô đất đó qua các tổ chức môi giới và trên mạng internet. Công ty Vạn Niên đã nhiều lần liên hệ với lãnh đạo Công ty CIRI yêu cầu thực hiện hợp đồng nhưng không được phúc đáp. Vì vậy, Công ty Vạn Niên buộc phải khởi kiện ra tòa.
Sau hai lần hòa giải, Công ty CIRI dù thừa nhận nghĩa vụ hợp đồng nhưng lại không thực hiện. Đến ngày 18-3-2008, TAND quận Đống Đa (Hà Nội) đã đưa vụ án ra xét xử. Bản án số 03/2008/KDTM-ST của TAND quận Đống Đa tuyên nêu rõ: Buộc Công ty CIRI thực hiện đúng hợp đồng cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất; giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Vạn Niên”; nộp án phí... Sau khi có bản án sơ thẩm, Công ty CIRI đã kháng án lên TAND thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, TAND thành phố Hà Nội có công văn triệu tập hai lần phía CIRI đều vắng mặt không có lý do chính đáng, buộc TAND thành phố Hà Nội phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Kế đó, CIRI gửi đơn tới Chánh án TAND thành phố Hà Nội xin hoãn thi hành án để xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật rồi liên tục gửi đơn để thúc ép. Trong khi Thi hành án quận Đống Đa đang chuẩn bị tiến hành cưỡng chế thi hành án vào ngày 8-7-2007 theo quyết định cưỡng chế thi hành án thì ngày 7-7-2008, ông Chánh án TAND thành phố Hà Nội đã ban hành công văn 107/GĐ - TA đề nghị hoãn việc thi hành án. Về đề nghị hoãn thi hành án của ông Chánh án TAND thành phố Hà Nội, Viện KSNDTC đã có công văn số 2079/VKSNDTC - V10 khẳng định: “Việc đề nghị hoãn thi hành án của Chánh án TAND thành phố Hà Nội không phải là văn bản pháp lý bắt buộc Trưởng thi hành án dân sự quận Đống Đa thực hiện”. Cục Thi hành án (Bộ Tư pháp) cũng có văn bản chỉ đạo: “Công văn của TAND thành phố Hà Nội không phải là căn cứ để ra quyết định hoãn thi hành án”.
Ông Chu Đức Long, Tổng giám đốc Công ty Vạn Niên cho biết: Chúng tôi đã mua lô đất trong bối cảnh Công ty CIRI nợ nần, rao bán mà không có người mua. Sau đó, CIRI chối bỏ hợp đồng chủ yếu vì giá đất tăng. Nhưng theo Điều 389 của Bộ luật Dân sự và Điều 11 của Luật Thương mại thì việc ký hợp đồng là tự do, tự nguyện cam kết, các thỏa thuận hợp pháp sẽ có hiệu lực pháp luật và buộc hai bên phải tuân thủ. Sau khi ký hợp đồng, nếu một bên tự thấy là bị thua thiệt cũng không thể đương nhiên chối bỏ nghĩa vụ của hợp đồng.
Dư luận cho rằng, việc ông Chánh án TAND thành phố Hà Nội ra công văn đề nghị hoãn thi hành án là không đúng pháp luật. Việc tống đạt công văn này lại được thực hiện ngoài giờ hành chính, do cán bộ TAND thành phố Hà Nội mang đến nhà ông Trưởng thi hành án quận Đống Đa giao, chứ không phải chuyển qua đường công văn hợp pháp. Về vấn đề này, căn cứ vào quy định của pháp luật và hồ sơ trong vụ án, Viện KSNDTC, Cục quản lý thi hành án đã xác định: TAND thành phố Hà Nội không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm vụ án nói trên mà phải do Chánh án TAND tối cao, hoặc Viện trưởng VKSNDTC thực hiện.
Mới đây, cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội vừa ra công văn số 763/THA – PNV yêu cầu Trưởng thi hành dân sự quận Đống Đa buộc Công ty CIRI phải thi hành bản án số 03/KDTM – ST ngày 18-3-2008. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của Công ty Vạn Niên, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng đôn đốc, kiểm tra tổ chức thi hành bản án một cách nghiêm túc theo đúng thủ tục pháp luật.
3. Báo Vietnamnet có bài "Chuyên gia Pháp nhận kỷ niệm chương Vì sự nghiệp tư pháp". Bài báo phản ánh: Ngày 18/9, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã trao tặng kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp tư pháp” cho 3 chuyên gia Pháp, trong đó có 2 Chủ tịch danh dự Hội đồng công chứng tối cao Pháp.
3 chuyên gia Pháp được tặng kỷ niệm chương là các ông Michel Cordier, Chủ tịch danh dự Hội đồng công chứng tối cao Pháp, nguyên thành viên Ủy ban định hướng nhà pháp luật Việt - Pháp), Jean Paul Decorps, Chủ tịch danh dự Hội đồng, thành viên Ủy ban định hướng và Jack Hoeckel, Giám đốc kỹ thuật dự án hiện đại hóa ngành công chứng Việt Nam.
Trong khuôn khổ hợp tác song phương, Hội đồng Công chứng tối cao Pháp đã liên tục cử các chuyên gia đến làm việc với Bộ Tư pháp Việt Nam thông qua các chương trình, dự án xây dựng văn bản qui phạm pháp luật về công chứng và một số văn bản có liên quan, đào tạo công chứng viên, trao đổi thông tin và triển khai việc tin học hóa lĩnh vực công chứng.
Chiều 18/9, Ban điều phối Việt - Pháp dự án hiện đại hóa ngành công chứng Việt Nam cũng đã họp tổng kết 5 năm chương trình triển khai trên diện rộng tin học hóa công chứng giai đoạn 3, với sự hỗ trợ của Quỹ đoàn kết ưu tiên của Pháp (FSP).
Giám đốc nhà Pháp luật Việt - Pháp Nguyễn Văn Bình đánh giá: "Về cơ bản, những mục tiêu chính đề ra cho dự án đều đã đạt được, với việc ra đời Luật Công chứng, các văn phòng công chứng (tư) được xã hội đón nhận và hình thành đội ngũ công chứng viên không phải là công chức". "Dù dự án kết thúc nhưng phía Việt Nam vẫn mong muốn được Pháp tiếp tục hỗ trợ hoàn thiện các văn bản pháp lý liên quan lĩnh vực công chứng và đào tạo công chứng viên", ông Bình nói.
Về phần mình, Chủ tịch danh dự Hội đồng Công chứng tối cao Pháp Jean Paul Decorps bày tỏ hy vọng Việt Nam "sẽ hoàn thiện những văn bản luật, đặc biệt về đạo đức hành nghề công chứng".
Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp Trần Thất cho hay, hiện quan tâm số 1 của Việt Nam là xây dựng đề án chiến lược phát triển ngành công chứng từ nay đến năm 2020. Dự kiến Bộ Tư pháp sẽ trình đề án này trong năm 2009.
Báo cũng có bài "Góp ý Luật Quốc tịch: Nhập quốc tịch Việt Nam cần 5 hay 8 năm?". Bài báo phản ánh: Tại buổi làm việc sáng 18/9, đại biểu Quốc hội Hà Nội cho rằng, các quy định trong dự án Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) cần cụ thể để dễ áp dụng.
Góp ý cho dự thảo Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi), đa số ý kiến đại biểu cho rằng luật nên đưa ra những quy định mềm dẻo hơn, mở rộng trường hợp cho phép công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài và những người nhập tịch Việt Nam nhưng vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài. Nhiều ý kiến cũng băn khoăn quy định người mang quốc tịch Việt Nam phải “biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam” và “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam”.
Đại biểu cho rằng quy định như vậy rất chung chung, không rõ thế nào là "biết tiếng Việt" hay mức nào là mức "đảm bảo cuộc sống tại Việt Nam". Do vậy, cần cụ thể hơn để tạo điều kiện cho đối tượng áp dụng. Nhiều quy định khác cũng không rõ ràng, dễ gây hiểu nhầm như “người xin thôi quốc tịch Việt Nam chưa được thôi quốc tịch Việt Nam nếu thuộc một trong những trường hợp: đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc một nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc công dân Việt Nam.
Phó Chủ tịch Hội Luật gia Hà Nội Nguyễn Hồng Tuyến không đồng tình với quy định một người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Việt Nam chỉ cần cư trú tại Việt Nam 5 năm trở nên. Theo ông, thời hạn này quá ngắn và quy định tối thiểu nên từ 8 đến 10 năm. Trong khi đó, ông Tuyến đồng tình quy định "những người gốc Việt Nam về nước đầu tư muốn trở lại quốc tịch Việt Nam vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài. Người thôi quốc tịch Việt Nam nhưng không được nhập tịch nước khác được phép trở lại đăng ký quốc tịch Việt Nam. Đây là cách làm hợp lý, cũng là để thúc đẩy phát triển kinh tế và thương mại".
Tuy nhiên, việc chuyển từ nguyên tắc một quốc tịch cứng sang nguyên tắc quốc tịch mềm dẻo sẽ làm phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến việc thực hiện và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
Ông Chu Sơn Hà nói: "Những người Việt Nam ở nước ngoài có được thực hiện những quyền và nghĩa vụ hay không, như quyền bầu cử, ứng cử, thực hiện nghĩa vụ quân sự?"
Đối với những công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài và định cư ở nước ngoài, do chưa có quy định về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ, nên các ý kiến góp ý cần có quy định cụ thể hơn đối với các công dân này.
Theo số liệu của Bộ Tư pháp, 9 năm qua, số người được thôi quốc tịch Việt Nam là 61.460 người, trong khi đó số người xin nhập quốc tịch Việt Nam là 674 người. Số lượng xin trở lại quốc tịch Việt Nam cũng tăng trong những năm gần đây. Tổng số người được trở lại quốc tịch Việt Nam đến nay là 51 người.
4. Báo Thanh niên có bài "Trưởng phòng Công chứng số 1 Cần Thơ xin từ chức". Bài báo phản ánh: Ông Phan Hữu Thành, Trưởng phòng Công chứng số 1 (là chồng của bà Võ Hoàng Minh Khoa) đã nộp đơn xin từ chức vào chiều 17.9 và đã được lãnh đạo Sở Tư pháp TP Cần Thơ chấp thuận. Ông Dương Đình Bình, Chánh văn phòng Sở Tư pháp, cho biết Sở đang làm công văn đề nghị UBND TP Cần Thơ miễn nhiệm chức danh Trưởng phòng Công chứng số 1; đề nghị Bộ Tư pháp miễn nhiệm chức danh Công chứng viên và đề nghị Đảng ủy Sở Tư pháp cho thôi chức Bí thư Chi bộ Phòng Công chứng số 1 đối với ông Thành.
Trong một diễn biến khác, sáng ngày 16.9 vừa qua, Cơ quan CSĐT - Công an TP Cần Thơ đã triệu tập ông Trần Hoàn Kiếm, Công chứng viên Phòng Công chứng số 2 ( Sở Tư pháp TP Cần Thơ) đến cơ quan CSĐT để làm rõ một số vấn đề liên quan đến việc bà Khoa bị nhiều người dân tố cáo có hành vi lừa đảo với số tiền trên 26 tỉ đồng.
Theo hồ sơ vụ việc thì nhiều động sản và bất động sản mà bà Khoa giao dịch trong thời qua (kể cả cầm cố, thế chấp cho ngân hàng) đã được công chứng, chứng thực tại Phòng công chứng số 2, trong đó có căn nhà số 86/33 đường Lý Tự Trọng, phường An Cư, quận Ninh Kiều của ông Chung Hồng Bảo.
Được biết chiều ngày 17.9, ông Nguyễn Thanh Vững, Phó chủ tịch UBND quận Ninh Kiều cũng đã có văn bản hỏa tốc số 2223/UBND-TD, đề nghị Phòng Tài nguyên - Môi trường quận, UBND 13 phường cùng các cơ quan có liên quan tạm thời không xác nhận hồ sơ chuyển dịch tất cả tài sản của bà Võ Hoàng Minh Khoa theo yêu cầu của cơ quan điều tra, chờ kết quả giải quyết của cơ quan cấp thẩm quyền.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 19/9/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ.