Trong buổi sáng ngày 17/11/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Khoa học và đời sống phản ánh: Việc Hà Nội được Hiệp hội đô thị bình chọn là một trong những đô thị sạch khiến giới khoa học cũng như người dân ngỡ ngàng. Phải công nhận, Hà Nội đã có rất nhiều nỗ lực trong việc gìn giữ thành phố xanh, đẹp, nhưng nếu nói sạch thì không hẳn đã đúng. KH&ĐS đã tham vấn ý kiến một số nhà khoa học cũng như lấy phiếu thăm dò từ người dân.
PGS.TS Nguyễn Đình Hòe - Chủ nhiệm bộ môn Quản lý Môi trường, khoa Môi trường, ĐH KHTN Hà Nội: Hà Nội sạch thì mức độ ô nhiễm thế nào mới là bẩn? Trước hết, cần xác định Hà Nội được nhận danh hiệu Sạch với tiêu chí gì? Bởi bản thân từ sạch bao hàm rất nhiều tiêu chí, bao gồm cả rác, không khí, nước thải, khí bụi... Trong vấn đề này, có thể Hiệp hội các đô thị Việt Nam cho rằng Hà Nội sạch, nhưng các nhà khoa học khác lại cho đó là bẩn, là chuyện thường. Tuy nhiên, nhận xét đó phải được nhìn nhận vào sự thực. Theo đánh giá của tôi, nếu đưa ra tiêu chí dựa trên số thùng rác/số lượng người dân thì xin hỏi: Có nhiều thùng rác nhưng tỷ lệ dân bỏ rác vào thùng như thế nào? Nếu Hiệp hội các đô thị Việt Nam tuyên dương Hà Nội sạch thì mức độ ô nhiễm thế nào nữa mới là bẩn? Xin đừng lấy danh hiệu che mắt người dân, đó là tự sĩ!
PGS.TS Nguyễn Quang Viên - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Kỹ thuật Xây dựng, ĐH Xây dựng Hà Nội: Hà Nội ô nhiễm quá nhiều! Ở phương diện khoa học, nhiều người thấy Hà Nội đang có rất nhiều khiếm khuyết, những hình ảnh không đẹp mắt. Bản thân tôi đã đi nhiều thành phố và cũng thấy rằng: Hà Nội còn quá ô nhiễm, thậm chí ô nhiễm nhiều nhất. Rất nhiều nơi đi đường mọi người phải đeo khẩu trang hoặc lấy tay che mặt; Lòng đường bị đổ rác bừa bãi... Tuy nhiên, ở một phương diện nào đó, cũng có thể hiểu được về danh hiệu này: Không thể nói Thủ đô không sạch, không thể nói Hà Nội thua Bắc Ninh...
… KH&ĐS đã phát 100 phiếu thăm dò dư luận, nội dung đánh giá trên 3 mức độ: Hà Nội sạch, chưa sạch, rất không sạch. Đối tượng thăm dò ngẫu nhiên. Kết quả cho thấy, có 58/100 phiếu đánh giá môi trường Thủ đô Hà Nội chưa sạch, 41/100 phiếu cho rằng rất không sạch và chỉ có duy nhất 01/100 phiếu đánh giá Hà Nội sạch. Trong đó, có rất nhiều ý kiến của người dân phản ánh tình trạng ô nhiễm bụi và không khí nặng nề tại các tuyến đường như Nguyễn Trãi, Khuất Duy Tiến, Phạm Văn Đồng, đường 32... Đặc biệt ô nhiễm từ khói xe và nước thải, rác thải ở nhiều nơi, nhiều lúc cũng khiến người dân bức xúc lên tiếng. "Vấn nạn" quy hoạch thiếu đồng bộ khiến đường vừa làm xong đã bị phá hủy bởi bên thi công lắp đặt ống nước hoặc lắp dây cáp điện... quá trình "làm đường và đào đường" tái đi tái lại khiến bụi bặm ngày càng gia tăng ở khắp nơi trong thành phố, với những lý do trên khiến ông Trần Quang, số 274B Khâm Thiên, Hà Nội đã đánh giá môi trường thủ đô vào loại rất không sạch.
2. Báo Tiền phong phản ánh: UBND TP Sóc Trăng vừa chỉ đạo, trừ của cán bộ công chức 10 ngày lương tháng 12 để ủng hộ quỹ Vì người nghèo. Một tháng lương được tính 26 ngày nên 10 ngày lương là hơn 38% lương tháng. Cán bộ công chức nhận được thông báo đều hoang mang, nhiều người cho biết, sẵn sàng ủng hộ người nghèo nhưng nên trừ mỗi tháng một ngày lương. Một giáo viên ở trường THCS phường 6 cho biết, giáo viên còn bị truy thu thêm tiền bảo hiểm thất nghiệp vào lương tháng 12 cho cả năm 2009, nên tháng 12 sẽ khó sống. Ở huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), mỗi cán bộ công chức bị trừ tiền lương để ủng hộ quỹ Vì người nghèo theo mức: Giáo viên 300.000 đồng, thành viên ban giám hiệu nhà trường 700.000 đồng, cán bộ lãnh đạo cấp huyện 700.000-1.000.000 đồng, cán bộ xã 400.000-500.000 đồng.
Theo thông tin của Tiền Phong, UBND tỉnh Sóc Trăng quy định, trong năm 2009, mỗi cán bộ công chức ủng hộ ba ngày lương cho quỹ Vì người nghèo.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 8-11, chính quyền tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) đã quyết định thành lập Ủy ban thôn đảo Vĩnh Hưng và Triệu Thuật, tức đảo Phú Lâm và đảo Cây thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngày 16-11, trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước quyết định này của phía Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao, bà Nguyễn Phương Nga nói: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam phản đối quyết định này của phía Trung Quốc. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên.
Trước sau như một, Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 nhằm giữ gìn hòa bình và ổn định trên Biển Đông và khu vực”.
4. Báo Lao động phản ánh: UBND TPHCM đã chấp thuận việc xúc tiến nghiên cứu triển khai dự án thu phí ôtô vào trung tâm thành phố. Công ty cổ phần công nghệ Tiên Phong là đơn vị nghiên cứu dự án, đề xuất ứng dụng hệ thống thu phí tự động ERP theo mô hình Singapore.Tổng giám đốc đơn vị này cam kết dự án sẽ giảm được nạn kẹt xe.
Tìm giải pháp để giảm đại nạn kẹt xe cho TPHCM là việc làm đương nhiên. Thành phố này đã triển khai nhiều giải pháp nhưng không hiệu quả, ùn tắc giao thông ngày càng trầm trọng hơn. Khi đưa ra dự án trên, đã có nhiều ý kiến không đồng tình nhưng UBND TP vẫn chỉ đạo thực hiện, đủ thấy quyết tâm của thành phố rất cao. Tuy nhiên, quyết tâm chưa hẳn đã tích cực khi đặt nó vào một việc mà yếu tố khả thi quá thấp. Có những việc có thể hạn chế lập tức nạn kẹt như hoàn thành cấp tốc các công trình hạ tầng, giải tỏa các lô cốt, kết nối các cầu đường, xây dựng các tuyến xe buýt, metro hiện đại để người dân có điều kiện thay thế phương tiện xe máy, nhưng đáng tiếc là không được làm tốt. Những công trình xây dựng này là tài sản chung của xã hội, phục vụ cho cộng đồng lâu dài.
Còn hệ thống thu phí tự động, đầu tư 700 tỉ đồng chỉ để thu tiền người dân để hoàn vốn và thu lợi cho nhà đầu tư. Số tiền đó không tăng thêm được một cây cầu, một con đường, một tuyến xe buýt. Với điều kiện cơ sở hạ tầng và thực trạng giao thông của TPHCM hiện nay, bỏ tiền triển khai lắp đặt hệ thống thu phí ôtô mà không đầu tư cấp tốc cho các phần việc nói trên là lựa chọn khá vội vàng. Doanh nghiệp đầu tư dự án khẳng định sẽ giảm kẹt xe là một cam kết rất bản lĩnh. Nhưng sau khi thu phí người dân, kẹt xe không giảm thì liệu có quy trách nhiệm được cho những người cho phép triển khai dự án và nhà đầu tư?
Chắc chắn là không, mà lúc đó sẽ có hàng nghìn lý do để đổ lỗi cho nạn kẹt xe, còn dự án thu phí tự động ERP hoàn toàn vô can. Người ta có thể đổ cho triều cường ngập nước làm kẹt xe, xe máy quá nhiều làm kẹt xe, dân số tăng nhanh khiến kẹt xe, hoặc do ý thức chấp hành giao thông của người dân thấp dẫn đến kẹt xe. Xưa nay các giải pháp giảm ùn tắc giao thông đưa ra đều phá sản, có ai đứng ra nhận trách nhiệm và tự trọng đứng ra nói một lời từ chức đâu?
Người ta có thể tự an ủi bằng cảm giác rằng, nhà đầu tư bỏ ra 700 tỉ đồng chứ không phải tiền ngân sách, nên cứ làm thử. Nhưng tất cả đều quên một điều là nhà đầu tư sẽ thu lại từ túi người dân. Lấy tiền của dân ra thử nghiệm một giải pháp của chính quyền thì tội nghiệp dân quá!
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tiền phong có bài Một đám đất, tám sổ đỏ 'cãi nhau'. Bài báo phản ánh: Vụ cấp sổ đỏ này xảy ra tại xã Nam Thái Sơn (Hòn Đất, Kiên Giang) có lẽ là điển hình cho sự tắc trách của cán bộ cơ sở trong quản lý đất đai.
Vợ chồng ông Phạm Văn Thuần và bà Vũ Thị Bảy, sau thời gian dài tham gia chiến trận, bị thương, năm 1975 về sinh sống tại xã Nam Thái Sơn (Hòn Đất, Kiên Giang). Họ khai hoang và mua thêm của các hộ dân xung quanh, được tổng cộng hơn 5,2 ha đất làm lúa. Ông bà có bảy người con, lớn sinh năm 1971, út sinh năm 1984, nay tổng cộng 29 con cháu, sinh sống nhờ vào đám đất. Đột ngột, ngày 7/7/1994, UBND huyện Hòn Đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy xanh) cho hai anh em Lê Văn Sơn và Lê Văn Non, mỗi người 1,5 ha trên đất của gia đình ông Thuần. Ông Sơn và ông Non, khi biết chính quyền cấp sai, không khiếu nại mà đem sổ xanh đi thế chấp ngân hàng, vay mỗi người ba triệu đồng.
Sau 15 năm, vốn gốc và lãi tính đến tháng 10/2009 thành hơn 20 triệu đồng. Hai sổ xanh trong ngân hàng cũng “hóa thành” sổ đỏ, dù ông Sơn và ông Non không yêu cầu. Tiếp theo, một buổi chiều cuối năm 1994, hai cha con ông Phạm Văn Thuận và Phạm Văn Cảnh cầm hai sổ xanh, mỗi sổ 2 ha do UBND huyện Hòn Đất cấp, đến nhà ông Thuần... đòi đất. Biết UBND huyện cấp sai, hai cha con ông Thuận ra về. Nhưng ông Thuận đổi sổ xanh thành sổ đỏ và năm 1997 phát đơn kiện đòi đất, TAND huyện Hòn Đất thụ lý.
TAND huyện và tỉnh, đều phán theo sổ đỏ của UBND huyện Hòn Đất. Ông Thuần kháng nghị lên giám đốc thẩm. Sau nhiều lần “sửa chữa bổ sung bản án” rồi “đính chính rõ nội dung bản án”, “thu hồi quyết định thi hành án” do tòa tuyên sai vị trí đất, văn bản sai sót, chưa phù hợp với qui định của pháp luật nhưng vẫn không đi đến sự thật. Mới đây, ngày 28/9/2009, Thi hành án huyện Hòn Đất lại gửi giấy yêu cầu ông Nguyễn Văn Thuần “tự nguyện thi hành án” trả cho cha con ông Thuận, Cảnh 4 ha đất.
Trong khi ông Thuần còn khiếu nại, không thực hiện bản án vô lý của tòa, ngày 20/8/2008, UBND huyện Hòn Đất lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Thuần, diện tích hơn 5,2 ha đất, là toàn bộ đám đất mà gia đình ông đã khai phá và sử dụng gần 36 năm. Trong đó, có 4 ha huyện cấp sai cho cha con ông Thuận và đang được tòa án thụ lý giải quyết. Vợ chồng ông Thuần sau khi được cấp sổ đỏ, đã chia cho ba người con, mỗi người bình quân 1,6 ha, chỉ giữ lại hơn 0,4 ha để dưỡng già.
Như vậy, một đám đất diện tích hơn 5,2 ha, đã được UBND huyện Hòn Đất cấp đến tám cái sổ đỏ, từ năm 1994 đến nay. Gồm hai sổ cho anh em Sơn và Non (3 ha), hai cái cho cha con ông Thuận, Cảnh (4 ha), bốn cái cho gia đình ông Thuần (hơn 5,2 ha). Tổng cộng diện tích được cấp sổ lên đến hơn 12,2 ha, gấp hơn hai lần diện tích thực tế.
Ông Lê Văn Nin, Bí thư chi bộ, Trưởng ấp Thái Tân nói: “Nguồn gốc đất của ông Thuần tôi rõ vì tôi là dân cố cựu ở đây. Cán bộ xã thiếu thực tế, báo cáo chung chung và huyện đã đo vẽ trên giấy để cấp đất mà thành ra rối rắm. Tòa xử cũng không xác minh cụ thể mà phán quyết theo hồ sơ sai lạc của xã, huyện”. Gia đình ông Thuần đang tiếp tục kêu cứu, kiến nghị TANDTC xem xét công minh.
2. Báo Hà Nội mới có bài Vì sao không thể thi hành án?. Bài báo phản ánh: Tại Hà Nội đang có nhiều vụ án không thể thi hành, tồn đọng, gây bức xúc kéo dài nhiều năm. Nguyên nhân hầu hết là do án tuyên không khả thi, cơ quan chức năng không phối hợp...
Cách đây 15 năm (ngày 28 và 29-9-1995), TAND TP Hà Nội xét xử vụ án "Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng", xảy ra tại khu vực Đầm Hồng, Đầm Sen (xã Khương Đình, nay thuộc phường Khương Đình và Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội) đối với Nguyễn Sĩ Sơn (với vai trò Chủ tịch UBND phường Khương Đình) đã cùng cấp dưới bán hàng chục nghìn mét vuông đất trái phép tại khu vực Đầm Hồng, Đầm Sen. Ngoài hình phạt tù với các bị cáo, bản án còn quyết định: "Thu hồi toàn bộ số đất khu vực Đầm Hồng, Đầm Sen và 2.500m2 đất các bị cáo đã mua đi bán lại bất hợp pháp, giao cho chính quyền địa phương quản lý và giải quyết theo thẩm quyền...". Ngay sau đó, Thi hành án dân sự (THADS) TP Hà Nội đã ra quyết định thi hành án. Thế nhưng đến nay, vụ việc vẫn giẫm chân tại chỗ, trở thành một trong những vụ án "điểm" của Hà Nội về tồn đọng, kéo dài. Nguyên nhân: Do... bản án!
Chấp hành viên Mai Trọng Đạo, trực tiếp phụ trách vụ việc trên cho biết, theo cáo trạng, hai đầm này rộng 60 mẫu Bắc bộ (khoảng 21,6ha). Khu đất mênh mông là thế, lại giáp ranh hai phường Khương Trung và Khương Đình nhưng bản án lại không tuyên cụ thể, rõ ràng về mốc giới và diện tích đất phải thu hồi. Cơ quan THADS đã gửi công văn đề nghị Tòa án Hà Nội giải thích bản án và nhận được trả lời: "Căn cứ vào lời khai của những người mua đất thì toàn bộ diện tích đất các lô A, B, C, D, E, F các bị cáo mua bán bất hợp pháp. Số đất 2.500m2 cấp cho E26 Phòng không, Nguyễn Văn Hiếu đã chia thành các lô A, B, C, D để bán..." và "Các tài liệu có trong hồ sơ không thể hiện mốc giới diện tích đất mà Nguyễn Sĩ Sơn và đồng phạm đã mua bán bất hợp pháp".
Trước sự giải thích "mù mịt" trên, cơ quan THADS đã đi tìm bản đồ địa chính của khu vực Đầm Hồng, Đầm Sen, những mong đây là cơ sở để thi hành bản án. Lần nữa, Tòa án Hà Nội lại trả lời: "Sau nhiều năm bản án có hiệu lực, tại những diện tích đất các bị cáo đã có hành vi phạm tội đã thay đổi rất nhiều về tình hình xây dựng và sử dụng... Về bản đồ địa chính khu vực Đầm Hồng, Đầm Sen do Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cung cấp cho cơ quan THADS, Tòa án Hà Nội thấy đây không phải là tài liệu được dùng để điều tra, truy tố, xét xử nên không có cơ sở để phúc đáp yêu cầu của cơ quan Thi hành án". Nghĩa là, thật sự Tòa cũng... chịu không thể xác định được cụ thể mốc giới của phần đất đã tuyên thu hồi! Dù Tòa có lý khi không căn cứ vào bản đồ địa chính (vì không có trong hồ sơ vụ án khi xét xử), nhưng khi xét xử, cơ quan này đã không thu thập bản đồ địa chính để có cơ sở xác định mốc giới cụ thể của thửa đất!
Qua khảo sát thực địa, do biến động trong quản lý đất đai, vị trí, ranh giới, mốc giới khu đất trên bản đồ và thực địa không thể xác định được. Không ít hộ dân đã dùng giấy tờ giao đất, biên lai thu tiền đền bù hoa màu để chuyển nhượng qua nhiều chủ. Năm 2006, phường Khương Đình và Khương Trung đã thống kê có 171 hộ dân đang sử dụng nhà, đất tại Đầm Hồng, Đầm Sen. Các hộ dân này sau khi mua đất trái phép đã xây nhà và không ít công trình được xây kiên cố, thậm chí xây trước khi Tòa xét xử, nhưng Tòa cũng "quên" không tuyên buộc tháo dỡ hoặc xử lý cụ thể với các hộ xây dựng trái phép này!?
Không thể tìm ra phương án nào để... đo đất mà thi hành, THADS Hà Nội đành "chào thua", làm văn bản gửi Bộ Tư pháp, UBND TP Hà Nội đề xuất cho phép thu hồi quyết định thi hành án! Đồng thời, đề nghị UBND TP Hà Nội giao quận Thanh Xuân lập phương án thu hồi, giải phóng mặt bằng để quản lý, sử dụng đất theo hướng phục vụ mục đích công cộng. Theo cơ quan Thi hành án, chỉ có cách này thì mới thu hồi lại được diện tích đất công nói trên.
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam có bài Lai Châu: thiếu cơ sở pháp lý giải quyết khiếu nại, tố cáo đông người. Bài báo phản ánh: Đến nay, tỉnh Lai Châu đã giải quyết dứt điểm 33/34 vụ khiếu nại, tố cáo đông người; không có vụ việc đã giải quyết hết thẩm quyền còn khiếu nại, tố cáo.
Theo ông Lò Văn Giàng, Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, nội dung khiếu nại, tố cáo đông người có tính chấp phức tạp tập trung chủ yếu liên quan đến công tác đền bù, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng nhưng chính sách về lĩnh vực này thường xuyên có sự thay đổi. Luật khiếu nại, tố cáo lại không quy định khiếu nại, tố cáo đông người, trong khi yêu cầu thực tiễn phải giải quyết nên thiếu cơ sở pháp lý vận dụng giải quyết đơn.
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhân dân ở địa phương còn chưa phù hợp, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nên nhận thức và hiểu biết pháp luật của công dân chưa đầy đủ, dễ bị lôi kéo, xúi giục để đi khiếu nại, tố cáo. Công tác quản lý Nhà nước đối với một số lĩnh vực đất đai, tài nguyên môi trường còn có sai sót, bất cập; một số cán bộ công chức có biểu hiện sa sút phẩm chất đạo đức, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.
Để giải quyết hiệu quả khiếu nại, tố cáo đông người, UBND tỉnh Lai Châu đã đề nghị thực hiện tách Luật khiếu nại, tố cáo thành 2 luật; quy định thống nhất thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai trong Luật Đất đai với quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong Luật Khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, sớm bổ sung pháp luật về đất đai, bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho phù hợp với thực tiễn.
4. Trang web VTC news có bài Luật sư Phạm Hồng Hải: "Chắc chắn là tội giết người...". Bài báo phản ánh: "Với phạm tội chưa đạt, bị cáo nhận mức án bằng 2/3 hành vi giết người đã đạt (bình thường mức án này khoảng 20 năm tù giam)... Luật sư Phạm Hồng Hải, nguyên Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội nhận định như vậy về mức án dành cho hung thủ vụ án dùng kim khâu bao đâm lút đầu cháu bé 40 ngày tuổi. Theo ông Hải, cần khởi tố ngay vì chứng cứ đã rõ.
- Hiện vẫn chưa có tin cơ quan công an khởi tố vụ án, bị can đối với vụ án này. Quan điểm của ông xung quanh tội danh của hung thủ trong vụ án này thế nào?
- Về mặt chủ quan phải truy tố về tội giết người. Với một cháu bé mới 40 ngày tuổi mà dùng chiếc kim khâu bao tải dài đến 8cm đâm vào đầu mà rất may là cháu bé thoát chết. Rõ ràng ở đây, hung thủ đã mang tính chất trả thù (giết người vì động cơ đê hèn - pv). Các bác sĩ nói rồi phải 5-10 năm sau vẫn còn và phát hiện di chứng như VTC News nói có thể động kinh.
- Dư luận cho rằng, án chuyển qua nhiều cấp do cơ quan điều tra còn đang băn khoăn với cả tội danh cố ý gây thương tích, thưa ông?
- Theo tôi, đây là một tội ác và chắc chắn là tội giết người chứ không thể là cố ý gây thương tích. Thà cào má hay lấy kim chọc vào tai, đây lại là dùng cả chiếc kim khâu dài đâm vào đầu cháu bé. Giết người chưa đạt nhưng có để lại di chứng. Lấy ví dụ, một người dùng búa đập vào đầu nhưng rất may nạn nhân có võ và thoát chết thì không thể nói động cơ, mục đích chỉ là đánh cho đau. Vì ai cũng biết đập vào đầu là có nguy cơ gây tử vong. Ngược lại, không thể nói lấy con dao chém vào chân là giết người được. Còn chứng minh hậu quả cho cháu bé là chuyện khác. Từ các phân tích như thế, chắc chắn đó là hành vi giết người.
- Trong trường hợp nếu là tội danh giết người, có tình tiết nào tăng nặng đối với hung thủ không, thưa ông?
- Hung thủ đã giết người vì ghen tuông là động cơ đê hèn. Thứ hai là phạm tội với trẻ em. Đó là hai tình tiết có thể thấy rõ.
- Với kinh nghiệm bào chữa tại các phiên tòa, theo ông nếu đưa ra xét xử, hung thủ sẽ đối diện với mức án bao nhiêu năm tù, thưa ông?
- Theo khung 1, tội giết người. Thấp nhất là 10-12 năm tù.
- Tức là kể cả hai tình tiết tăng nặng là giết trẻ em và giết người vì động cơ đê hèn, thưa ông?
- Vấn đề là hung thủ chưa giết người thành công, tức là phạm tội chưa đạt. Thông thường, với phạm tội chưa đạt, bằng 2/3 hành vi giết người đã đạt (bình thương với mức án khoảng 20 năm). Ngoài ra, bị cáo còn phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân khi để lại di chứng suốt đời.