Trong buổi sáng ngày 14/7/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Vietnamnet có bài "Dự thảo NQ về trí thức: Thiếu đột phá trong tư duy". Bài báo phản ánh: GS, TSKH, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Hoa Thịnh, Ủy viên Hội đồng Chính sách khoa học và Công nghệ quốc gia bàn về Dự thảo Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức.
Theo ông, để xây dựng đội ngũ trí thức, giáo dục phải được xem là khâu đột phá. Giáo dục hiện chưa đến mức không gỡ rối được mà do chủ trương chắp vá, vướng víu này khác. Cần nhất là tìm đúng và tìm trúng điểm để tháo gỡ.
Dự thảo thiếu sự đột phá trong tư duy và biện pháp cụ thể trong thực tiễn như đội ngũ trí thức mong đợi, dù đều đúng. Các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nêu ra trong đề án hầu hết là trùng lặp với các giải pháp đã đề ra trong các đề án hoặc nghị quyết khác về GD-ĐT, KH-CN, các hội nghề nghiệp và thu hút Việt kiều..
Tuy nhiên, nếu không được nghiên cứu công phu trên cơ sở đổi mới mang tính đột phá về tư duy, chỉ dừng lại ở những vấn đề chung nhất thì đề án sẽ không mang được hơi thở cuộc sống, không giải đáp được những yêu cầu cấp bách nhất về việc tạo một môi trường hình thành và phát triển tầng lớp trí thức. Nếu chỉ nhằm xây dựng đội ngũ lao động trí óc có trình độ chuyên môn cao thì chỉ cần thực thi các đề án đã có hoặc đang soạn thảo là đủ, không cần phải ra một nghị quyết mới.
Đề án cũng nhắc nhiều đến “những chính sách đặc thù” đối với đội ngũ trí thức nhưng lại chưa chỉ rõ đó là những chính sách cụ thể nào. Chỉ dừng ở việc nói chung chung sẽ dễ dẫn tới hiểu lầm, bởi ngành nào chẳng đòi hỏi chính sách riêng, đặc thù, phù hợp với ngành của mình.
Tôi cho rằng vấn đề cơ bản nhất, có tính chiến lược nhất và cũng là cấp bách nhất là giáo dục. Sự vận động của cuộc sống và xã hội đã và đang đặt ra cho giáo dục nhiều vấn đề cả về lí luận và thực tiễn, cả quan điểm chỉ đạo và tổ chức thực hiện… cần phải giải quyết. Nhiệm vụ của giáo dục chính là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ trí thức cho hiện tại và tương lai. Do đó, đây cần được xem là khâu đột phá. Thay vì một nghị quyết quá rộng, với quá nhiều giải pháp chung chung, Trung ương có thể xem xét tập trung hơn vào giải pháp cụ thể này. Trong đề án, nội dung giáo dục đào tạo vốn là trung tâm của việc xây dựng đội ngũ trí thức còn quá sơ sài, chưa xứng với tầm quan trọng của nó.
Báo cũng phản ánh: Sau 10 ngày ra quân xử lý vi phạm lòng đường, hè phố và hoạt động buôn bán hàng rong, UBND TP Hà Nội đã họp rút kinh nghiệm. Theo Phó chủ tịch Nguyễn Văn Khôi, để xảy ra tình trạng tái lấn chiếm vỉa hè, lòng đường, chủ tịch phường có thể bị kỷ luật.
Kết quả bước đầu, qua kiểm tra cho thấy, đa số các tuyến hè phố trong danh mục cấm cơ bản thông thoáng và đi vào nề nếp. Tại một số quận, số người dân kinh doanh, buôn bán hàng rong đã giảm gần 50%.
Còn Phó giám đốc Sở Công thương Hà Nội, Nguyễn Như Mai nhận xét, sau 10 ngày thực hiện quyết liệt, trước mắt có thể thấy hiệu quả cấm buôn bán hàng rong, kinh doanh lấn chiểm vỉa hè, lòng đường được chấn chỉnh và dần đi vào nề nếp. Bà Mai nhận định, mặc dù nhiều người dân buôn bán hàng rong đã bỏ nghề về quê nhưng qua phương tiện thông tin đại chúng, họ vẫn tiếp tục nghe ngóng diễn biến tình hình, nếu thuận lợi chắc chắn sẽ quay lại tiếp tục mưu sinh. Do đó, lực lượng liên ngành cần tiếp tục duy trì công tác tuyên truyền, tránh nhắc nhở qua loa, không kiên quyết xử lý vi phạm dẫn tới "nhờn" luật, tái vi phạm trật tự giao thông đô thị.
Cùng quan điểm, Phó chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Văn Khôi cho rằng, về lâu dài, các quận, huyện cần tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân tự giác chấp hành và bố trí lực lượng kiểm tra, xử lý thường xuyên, đồng bộ trong ngày.
Sau 10 ngày ra quân, lực lượng liên ngành đã xử lý hơn 8.000 trường hợp vi phạm quy định về sử dụng hè phố, lòng đường, tạm giữ 34 ôtô, 240 xe máy, 190 xe thô sơ, 23.000 biển quảng cáo, băng rôn; phá dỡ 1.600 bục bệ, cầu dẫn xe; dỡ bỏ 2.300 lều bạt, ô dù, mái che mái vẩy; giải tỏa 22 điểm kinh doanh buôn bán vật liệu xây dựng...
2. Báo Tiền phong phản ánh: Các ngân hàng vấp phải một loạt những khó khăn do chính sách thắt chặt tiền tệ. Trong khi đó, trước sức ép tâm lý của các cổ đông, hầu hết các Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) đều đặt mục tăng trưởng mạnh. Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm của họ có như kỳ vọng?
Kết thúc quý I/2008, ngay khi một số ngân hàng thương mại công bố kết quả hoạt động kinh doanh với mức lợi nhuận còn khá khả quan, một số chuyên gia đã cho rằng đó chỉ là kết quả của “sự nối dài” năm 2007, và khó khăn sẽ thực sự đến vào quý II/2008 cho đến hết năm.
Chính sách tiền tệ thắt chặt, khống chế tăng trưởng tín dụng, cuộc đua lãi suất nóng bỏng, TTCK và bất động sản u ám, dự báo đây là năm hết sức khó khăn của các ngân hàng.
Theo số liệu vừa tổng kết của NHNN, tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm 2008 của toàn ngành chỉ đạt 10%. Việc điều chỉnh lợi nhuận sẽ xảy ra? Theo Tổng giám đốc một ngân hàng TMCP có lợi nhuận không đạt so với kế hoạch đề ra, rất có thể trong cuộc họp sơ kết tháng 6/2008, Ban giám đốc ngân hàng sẽ họp xin ý kiến HĐQT rồi sau đó lấy ý kiến cổ đông thông qua việc giảm lợi nhuận.
“Các dự báo đưa ra cho thấy 6 tháng cuối năm nay sẽ còn khó khăn. Nguồn thu từ cho vay của NH sẽ giảm, các DN “co” lại kế hoạch sản xuất, kinh doanh vì lãi suất vay cao. Những yếu tố này sẽ gây áp lực lớn cho các ngân hàng về lợi nhuận và cổ tức.
Trong bối cảnh thị trường tiền tệ gặp khó khăn như hiện nay, điều chúng tôi quan tâm không chỉ riêng lợi nhuận mà còn là đảm bảo thanh khoản và phòng tránh rủi ro”- Ông này nói. Trước đó, trao đổi với Tiền phong, Tổng giám đốc một NH từ nông thôn lên đô thị cũng thừa nhận: Kết quả kinh doanh của ngân hàng không khả quan. Dù hy vọng ngân hàng sẽ đẩy mạnh hoạt động tăng nguồn thu vào những tháng cuối năm để đạt mục tiêu đề ra nhưng điều chỉnh lợi nhuận là điều khó tránh.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Theo đánh giá của Bộ Công thương, cho tới thời điểm hiện nay, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng cao hơn mục tiêu đặt ra. Cụ thể đã có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD (tăng 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước, đó là điện tử máy tính và gạo).
Trong số 8 mặt hàng này đã có 2 mặt hàng xuất khẩu đạt từ 4 tỷ USD trở lên là hàng dệt may và dầu thô đạt tới 5,6 tỷ USD. Tiếp đến là mặt hàng giày dép đạt kim ngạch gần 2,3 tỷ USD; thủy sản đạt 1,9 tỷ USD, gạo đạt 1,5 tỷ USD, sản phẩm gỗ đạt 1,4 tỷ USD, sản phẩm điện tử máy tính và cà phê đều đạt 1,2 tỷ USD. Một số mặt hàng mới có nhiều tiềm năng, liên tục đạt mức tăng trưởng cao như sản phẩm nhựa tăng 38,2%, sản phẩm đá quý và kim loại tăng 48,1%.
Tính đến hết tháng 6-2008, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt khoảng 29,7 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm 2007. Đây là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ nhiều năm gần đây (6 tháng 2007 tăng 19,4%; 6 tháng 2006 tăng 25,7%; 6 tháng 2005 tăng 17,4%). Trong đó kim ngạch xuất khẩu của các DN 100% vốn trong nước đạt 12,775 tỷ USD, chiếm 43% tổng kim ngạch cả nước, tăng 31,5% so với cùng kỳ; xuất khẩu của khu vực FDI đạt 16,92 tỷ USD, chiếm 57%, tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia thương mại, giá trị kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm tăng 7,16 tỷ USD so với cùng kỳ chủ yếu là do giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng tăng cao mà đó lại là các mặt hàng chủ lực, đáng kể như mặt hàng gạo giá tăng tới 80%; dầu thô tăng 69%; than tăng 64%; cà phê tăng 40%; cao su tăng trên 30%. Theo tính toán của các chuyên gia, mức tăng giá này đã làm kim ngạch xuất khẩu tăng thêm 3,7 tỷ USD.
4. Báo Thanh niên phản ánh: Chưa bao giờ giá muối cao như hiện nay. Tại Bạc Liêu, giá muối nguyên liệu đã tăng gấp 3 lần năm trước. Nhưng nhiều người vẫn cho rằng giá muối ở mức này chưa phải là "sốt" nếu so sánh với các mặt hàng thiết yếu khác.
Ông Nguyễn Thanh Hòa, Phó giám đốc Công ty cổ phần muối và thương mại Bạc Liêu, nhận định: "Giá muối hiện tại tăng cao hơn giá trị thật của nó". Hiện tại doanh nghiệp (DN) của ông Hòa vẫn phải thu mua muối trắng nguyên liệu giá từ 1.800 - 1.900 đồng/kg, tăng gần gấp 3 so vụ mùa năm trước. Tình hình này khiến DN của ông có thể phải điều chỉnh kế hoạch mua, giảm từ 12.000 tấn/năm xuống khoảng 9.000 tấn/năm.
Ông Lê Văn Đấu, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Công ty cổ phần muối Đông Hải, cho biết năm nay công ty ông dự kiến mua 2.500 tấn muối trắng nguyên liệu. Tuy nhiên cái khó là không chỉ giá muối tăng quá cao mà lãi vay ngân hàng cũng tăng rất mạnh. Đã vậy, các DN kinh doanh muối vừa sản xuất, vừa phải... dè chừng nguồn muối nhập từ bên ngoài.
Các cánh đồng muối Bạc Liêu những ngày này dù đã qua mùa thu hoạch nhưng vẫn còn rất nhiều muối trên đồng. Diêm dân dùng lá dừa nước làm mái che để bảo quản những đống muối to. Ông Sáu Thạo, một diêm dân ở huyện Đông Hải cho biết, ông làm 2 ha muối. Hồi đầu vụ, ông chỉ bán một phần để trang trải chi phí, còn lại ông dự trữ để chờ giá. Nhiều diêm dân cho rằng, ngay trong mùa vụ mà giá muối lên cao như thế thì qua thời gian này giá muối có thể còn tiếp tục lên. Tại xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải, từ khi muối có giá, nhiều DN muối đổ vốn mua muối dự trữ.
Ông Phạm Minh Quang, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Bạc Liêu nhận định: "Do giá muối cao, mùa vụ 2008 - 2009 diện tích muối ở Bạc Liêu có thể tăng thêm từ 200 - 300 ha. Sản lượng muối vụ mùa tới ước sẽ đạt đến 110.000 tấn. Tuy giá muối tăng cao chưa từng thấy nhưng thương lái và diêm dân không tranh thủ bán hết mà lại giữ muối chờ giá tiếp tục tăng cao hơn. Ngành chức năng tỉnh Bạc Liêu đang khuyến cáo người dân không nên ghìm muối chờ tăng giá. Bởi trước tình hình Chính phủ cho nhập muối như hiện nay, giá muối thời gian tới có thể sẽ hạ nhiệt".
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang web Baodatviet.vn có bài "Hàng trăm trẻ sơ sinh bị 'xuất ngoại". Bài báo phản ánh: Dư luận ở huyện Ý Yên, Nam Định, phẫn nộ trước thông tin, Giám đốc trung tâm trợ giúp nhân đạo có dấu hiệu mua trẻ sơ sinh bán ra nước ngoài dưới hình thức con nuôi.
Trong gian phòng chừng 12m2, ở Trung tâm trợ giúp nhân đạo, 11 cháu bé từ 2 đến 21 tháng tuổi nằm chờ đến lượt… xuất ngoại. Chị Hương, bảo mẫu cho hay, các cháu được “gom” về đây từ các huyện trên địa bàn tỉnh Nam Định. Chỉ vào bé trai kháu khỉnh tên là Định đang gào khóc, chị Hương cho biết, bé được đưa vào Trung tâm đợt giáp Tết vừa rồi, nặng 1,8 kg. Cạnh đó là bé Liên, 18 tháng tuổi, khi về Trung tâm, liên tục bị co giật, nay đã đỡ. Tuy trung tâm chỉ có 3 người chăm sóc 11 cháu, nhưng phần lớn các bé đều khỏe mạnh.
Bà Trần Thị Lương, Giám đốc trung tâm cho biết, kể từ khi đi vào hoạt động đến nay, Trung tâm nhận 112 trẻ sơ sinh, đều từ 2 đến dưới 36 tháng tuổi. Các cháu là những đứa trẻ bị bỏ rơi, một số thuộc diện sinh ngoài giá thú hoặc sinh con thứ ba. Các cháu được các Trạm trưởng y tế xã đưa về. Tuy nhiên, theo điều tra của Đất Việt, rất nhiều cháu có dấu hiệu bị trung tâm mua về.
“Do tôi được quy hoạch lên Phó Chủ tịch UBND huyện nên bị người ta tố cáo là khuyến khích sinh con thứ ba rồi mua về Trung tâm với giá 3 triệu đồng một cháu”, bà Lương thanh minh.
Bà Lương bị tố oan hay không, cơ quan công an sẽ xác định. Nhưng, một thực tế là Trạm trưởng Y tế xã Yên Tiến, thừa nhận được bà Lương trả từ 2 đến 4 triệu đồng cho mỗi cháu khi chuyển đến Trung tâm (năm 2007 chỉ hơn 2 triệu đồng, năm 2008 lên 3,5- 4 triệu đồng một cháu. Điều bấtthường là Trung tâm rất khó khăn trong việc tìm kinh phí nuôi các cháu. Vậy tại sao bà Lương lại bỏ tiền túi trả tiền cho Trạm trưởng Y tế.
Bà Lương cho biết, chỉ những cháu có nguồn gốc rõ ràng, sinh tại trạm y tế xã, có chứng sinh… trung tâm mới tiếp nhận. Tuy nhiên, trao đổi với Đất Việt, hai cán bộ xã (xin được giấu tên) ở Yên Lương, Yên Tiến thừa nhận họ “cả tin”, nghe lời cán bộ trạm y tế, đã chứng nhận, ký giấy khai sinh cho những cháu chưa rõ nguồn gốc. Mỗi trường hợp được cán bộ y tế bồi dưỡng khoảng 500.000 đồng. Hiện những người này xin trả lại khoản tiền đó.
Đến nay, có trên 60 trẻ sơ sinh được cán bộ Trạm y tế xã lập hồ sơ trái phép, hợp thức hóa nguồn gốc để “bán” cho bà Lương. Song, bà Lương phủ nhận việc chi tiền cho Trạm trưởng y tế và khẳng định trung tâm không có trách nhiệm thẩm tra, xác minh hồ sơ, nguồn gốc của trẻ sơ sinh. Theo bà, đến nay, đã có 101 cháu được các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài nhận làm con nuôi. “Toàn bộ các cháu được nhận làm con nuôi ở nước ngoài đều thông qua 3 tổ chức của nước ngoài.
Mỗi đợt nhận con nuôi, các tổ chức này “hỗ trợ” trọn gói cho Trung tâm khoảng 6.000 USD hoặc hơn 10.000 USD. “Số tiền này chúng tôi mua sữa, chăm sóc các cháu, tôi không tư túi,” bà Lương nói. Còn chuyện bà Lương có được lót tay các khoản tiền khác hay không, cơ quan điều tra Công an tỉnh Nam Định đang xác minh, làm rõ.
Công an tỉnh Nam Định vừa ra quyết định khởi tố vụ án làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước (làm giả hồ sơ trẻ sơ sinh tại Trung tâm hỗ trợ nhân đạo để cho người nước ngoài nhận làm con nuôi). Cơ quan này cũng khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với Vũ Đình Lợi, Trạm trưởng Y tế xã Yên Tiến, Phạm Công Lịch, Trạm trưởng Trạm y tế xã Yên Lương và một bị can tên Trần Trọng Lãm, trú tại Nam Định. Lãm tham gia thu gom trẻ sơ sinh để đưa về Trung tâm.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Quận 12, TP.HCM: Nhà bị kê biên vẫn được sang tên". Bài báo phản ánh: Trước khi xét xử, căn nhà là tài sản của bị can. Sau khi có bản án, căn nhà chuyển thành tài sản của cha mẹ người phải thi hành án.
Từ 1997 đến 2000, Huỳnh Anh Dũng (quận 12, TP.HCM) đã có nhiều hành vi lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tiền của những người mua bán đất với mình. Năm 2003, Dũng bị TAND TP.HCM phạt tù chung thân về tội lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, Dũng còn có nghĩa vụ bồi thường hơn hai tỷ đồng cho những người bị hại.
Giải quyết vụ án hình sự, Công an và TAND TP.HCM đã kê biên một căn nhà của Dũng. Khi xét xử, tòa tiếp tục kê biên 1/2 căn nhà và giải tỏa 1/2 căn nhà vừa để đảm bảo thi hành án (THA) vừa để cho những người trong gia đình có chỗ ở.
Cuối năm 2005, sau khi bản án có hiệu lực, cơ quan THA quận 12 đã ra quyết định thi hành phần bồi thường dân sự. Để có cơ sở THA, THA quận 12 đã xác minh, yêu cầu Dũng cung cấp giấy chủ quyền nhà, đất thì mới phát hiện căn nhà đó không còn là của Dũng nữa... Vào tháng 7-2004, UBND quận đã cấp chủ quyền nhà đất đó cho cha mẹ ruột của Dũng.
Thấy lạ lùng, THA quận 12 đã yêu cầu UBND quận 12 xem xét lại thủ tục cấp giấy tờ trên cho cha mẹ Dũng. Bởi lẽ phần nhà đang bị kê biên thì không ai được giao dịch, không biết trong hồ sơ có thể hiện việc căn nhà đang bị kê biên hay không, có việc làm giả hồ sơ, né kê biên để giao tài sản cho người khác hay không... Tuy nhiên, nơi đây chưa có phản hồi.
Song song với việc yêu cầu trên, THA quận 12 cũng nhờ TAND TP.HCM giải thích phần án đã tuyên. Theo cơ quan THA, bản án tuyên “tiếp tục duy trì kê biên 1/2 căn nhà và giải tỏa 1/2 căn nhà...” là chưa rõ ràng. Tòa phải xác định 1/2 căn nhà kê biên và 1/2 căn nhà được giải tỏa nằm ở vị trí nào, ranh giới ra sao. Chỉ khi tòa xác định được ranh giới cụ thể thì cơ quan THA mới có cơ sở để định giá và bán đấu giá nhà để đảm bảo THA. Năm 2007, do chờ mãi vẫn chưa được tòa trả lời, THA quận 12 lại tiếp tục gửi công văn đề nghị tòa giải thích rõ bản án để tiện việc thi hành. Nhưng đến nay, các thắc mắc trên vẫn chưa được giải đáp...
3. Báo Nhân dân có bài "Coi trọng hiệu quả công tác thi hành án dân sự". Bài báo phản ánh: Thi hành án dân sự là một khâu trong quá trình giải quyết vụ án. Việc xử án dù có khách quan, đúng đắn đến đâu, nhưng không được tổ chức thi hành nghiêm túc thì giá trị của bản án chỉ có ý nghĩa trên giấy. Thực trạng án tồn đọng, chậm được thi hành còn xảy ra khá phổ biến ở nhiều địa phương.
Bạn đọc Lý Phương Trinh (TP Hồ Chí Minh): Tình trạng án tồn đọng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do cơ chế, chính sách về thủ tục thi hành án chưa hoàn thiện; chế tài đối với người chây ỳ không chịu chấp hành án còn nhẹ; công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng thiếu chặt chẽ. Có trường hợp, việc thi hành án được tổ chức buổi sáng, thì ngay buổi chiều, đương sự chiếm đoạt lại tài sản của người được thi hành án. Ðội ngũ chấp hành viên ở nhiều nơi thiếu trách nhiệm với công việc, thậm chí, còn a dua, đồng lõa, tiếp tay cho đương sự trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Theo tôi, cần nghiêm khắc hơn trong việc đôn đốc thi hành án. Ðối với những trường hợp dây dưa, kéo dài nên khống chế thời hạn buộc phải chấp hành án. Quá thời hạn đó, đương sự không thực hiện thì chuyển hồ sơ đến cơ quan tố tụng để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bạn đọc Phạm Văn Chung (Kon Tum): Ðể giảm lượng án tồn, các cơ quan thi hành án ngoài việc vận dụng hiệu quả biện pháp nghiệp vụ, vận động người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ, cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng trong việc đưa tin các vụ việc thi hành án phức tạp, nhất là các việc cưỡng chế lớn. Như vậy sẽ tạo ra dư luận phê phán hành vi chây ỳ nghĩa vụ thi hành án. Qua đó, răn đe, giáo dục những người khác cần nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ, nếu chây ỳ, ngoan cố sẽ phải chịu hình thức cưỡng chế và trừng phạt theo quy định của pháp luật.
Bạn đọc Thanh Xuân (Nghệ An): Nhiều vụ việc, người phải thi hành án có đủ điều kiện về tài sản, nhưng vẫn cố tình trốn tránh nghĩa vụ bồi thường. Trong các trường hợp này, cơ quan thi hành án không bám sát địa bàn, không tích cực tác động để đương sự tự nguyện chấp hành án. Vụ ông Nguyễn Ðình Minh, ở phường Nghi Hòa (Cửa Lò, Nghệ An) lợi dụng sự nhẹ dạ của hàng chục người để chiếm đoạt tiền, thông qua thủ đoạn môi giới xuất khẩu lao động, xảy ra từ năm 2003. Trong số các nạn nhân có anh Nguyễn Xuân Thu, ở xóm 4, xã Diễn Xuân (huyện Diễn Châu) làm đơn ra tòa. Vụ việc được tòa án địa phương xét xử ngày 27-6-2006; buộc ông Minh phải bồi thường cho anh Thu 20 triệu đồng, nhưng đến nay, anh Thu hàng chục lần liên hệ với cơ quan thi hành án của TX Cửa Lò, mà chưa được giải quyết.
4. Báo Tuổi trẻ có bài "Quy hoạch treo: cơ sở pháp lý". Bài báo phản ánh: Qui hoạch “treo” ở nước ta không hiếm, nhưng “treo” tới 29 năm như trường hợp cồn Cái Khế, TP Cần Thơ thì có một không hai (xem TTCT ngày 29-6-2008). Sự việc bắt đầu từ quyết định 887 năm 1979 của UBND tỉnh Hậu Giang qui hoạch khu vực này để xây dựng sân vận động lớn nhất Đông Nam Á.
Đến nay chính quyền địa phương vẫn dựa vào quyết định trên để cho rằng cả khu vực cồn Cái Khế nằm trong qui hoạch. Có nghĩa là mấy trăm hộ dân cư ngụ tại đây, cũng như những người trót sinh trưởng và cư ngụ trên những khu qui hoạch khác, còn phải chịu khốn khó trong cuộc sống thường ngày.
Bức xúc vì khổ nên người ta thường chỉ “tố khổ”, ít ai quan tâm mổ xẻ vấn đề dưới lăng kính pháp luật bằng câu hỏi: cách quản lý liên quan tới qui hoạch sử dụng đất như vẫn làm lâu nay có cơ sở pháp lý không?
1) Xét theo quyền công dân, những nỗi khổ của dân ở cồn Cái Khế và ở các khu qui hoạch khác mọi người đều rõ. Nhìn từ mặt pháp lý, những nỗi khổ đó bắt nguồn từ sự tùy tiện hạn chế hoặc vô hiệu hóa quyền công dân đã được ghi trong hiến pháp và nhiều luật. Khó khăn trong đăng ký hộ khẩu, làm chứng minh nhân dân là gì nếu không phải là hạn chế quyền nhân thân sơ đẳng nhất của công dân. Hạn chế này đến lượt nó lại hạn chế các quyền công dân khác như quyền cư trú, quyền học tập, quyền có việc làm. Những khó khăn trong xin phép sửa chữa, xây dựng nhà ở, chuyển nhượng nhà đất là gì nếu không phải là vi phạm quyền công dân về nhà ở, về chuyển nhượng tài sản.
2) Xét ở khía cạnh quyền quản lý đất đai của các cấp chính quyền, quyền sử dụng đất là một quyền hiến định. Vậy mà chỉ với một quyết định qui hoạch của một cấp chính quyền địa phương cũng đủ làm quyền này bị tổn thương. Trong câu chuyện cồn Cái Khế, cần lưu ý rằng quyết định 887 ban hành năm 1979, thời gian có hiệu lực của hiến pháp thừa nhận bốn thành phần kinh tế: Nhà nước (toàn dân), tập thể, cá thể, tư sản dân tộc (điều 11) và tuyên bố bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất, tư liệu sản xuất của các thành phần ngoài quốc doanh (các điều 14, 15, 16). Vào thời điểm đó chế độ sở hữu đất toàn dân chưa xác lập (xem điều 12). Vậy mà UBND Hậu Giang qui hoạch tất cả đất đai cồn Cái Khế như là đất công, vô hiệu hóa các điều khoản về bảo hộ quyền sở hữu của các thành phần ngoài quốc doanh.
Phải đến hiến pháp 1980, hiến pháp thời kinh tế công hữu hóa, chế độ sở hữu đất toàn dân mới được xác lập (điều 19) và kèm theo đó là chế độ nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo qui hoạch (điều 20). Tuy nhiên phải tới năm 1988, Luật đất đai cụ thể hóa hiến pháp 1980 mới được ban hành. Đến lúc đó mới có những qui định về quyền quản lý đất đai của chính quyền địa phương, trong đó có qui định chính quyền cấp trên xét duyệt qui hoạch và kế hoạch sử dụng đất của cấp dưới. Như đã nêu, quyết định 887 được ban hành từ 1979. Không rõ sau Luật đất đai 1988, qui hoạch cồn Cái Khế có được Chính phủ xét duyệt không?
Điều 20 hiến pháp 1980 còn có một qui định rất quan trọng: “Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo qui định của pháp luật”. Có nghĩa là đất đai tuy đã là của toàn dân, nhưng việc sử dụng đất cơ bản vẫn là nguyên canh, nguyên cư, tức là những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất vẫn được tiếp tục sử dụng. Và nếu họ tiếp tục sử dụng cho tới khi hiến pháp 1992 có hiệu lực (ngày 15-4-1992) thì họ mặc nhiên được bảo lưu quyền sử dụng, tức là mặc nhiên được giao đất sử dụng ổn định lâu dài theo hiến pháp 1992 và Luật đất đai 1993. Nhưng cư dân cồn Cái Khế sử dụng đất từ 1980 đến nay vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất!
Những điều nêu trên cho thấy cả việc ban hành quyết định 887, cả việc sẽ tiếp tục thực hiện quyết định đó đều thiếu cơ sở pháp lý.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 14/7/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ.