I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam điện tử có bài: Nhận bảo đảm bằng tài sản: “Cầm vàng mà sợ vàng rơi”…. Bài báo phản ánh: Bộ luật Dân sự quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như một nội dung của quan hệ nghĩa vụ và hợp đồng, song cách quy định này đã làm phát sinh nhiều vướng mắc, bất cập, thậm chí trong nhiều trường hợp đẩy bên nhận bảo đảm bằng tài sản luôn trong tâm trạng “cầm vàng mà sợ vàng rơi”…
Theo thông lệ quốc tế, bên nhận bảo đảm có quyền tuyệt đối, trực tiếp và ngay tức khắc đối với TSBĐ khi việc bảo đảm đó được công khai hóa (tức là đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật). Việc này cho phép bên nhận bảo đảm có quyền tối cao trong việc thu hồi TSBĐ để xử lý thu hồi nợ, ngay cả khi TSBĐ đó đang thuộc quyền chiếm giữ, kiểm soát và chi phối của các chủ thể khác. Tuy nhiên, Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS) chỉ ra, BLDS Việt Nam lại chưa bảo đảm tốt nguyên lí này dẫn tới còn lúng túng trong quy định về quan hệ bảo đảm vật. Với các quy định bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp nhưng thực tế do BLDS thiếu cơ sở pháp lý để thực thi nên nếu bên thế chấp cố tình thực hiện việc chuyển dịch quyền sở hữu tài sản thế chấp thì bên nhận thế chấp rất khó có thể có quyền truy đòi tài sản thế chấp.
Trong một số trường hợp, quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm vẫn chưa được bảo vệ thỏa đáng, như: trường hợp TSBĐ bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có cần phải tìm hiểu thông tin hoặc đăng ký tại Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm để công khai hóa các thông tin liên quan đến tài sản đó không? Nếu không đăng ký để công khai hóa thì người dân sẽ không có đầy đủ thông tin cần thiết phục vụ cho việc thiết lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản.
“Việc quy định rõ ràng, chính xác và công bằng quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, trong đó bao gồm cả cơ quan nhà nước có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch dân sự” – chuyên gia về pháp luật dân sự nhận định.
Ngoài ra, các nhà kinh tế chỉ ra BLDS chưa tạo cơ chế cho chủ nợ có bảo đảm thực thi tốt nhất quyền xử lý đối với TSBĐ trong thời gian nhanh nhất nhằm giải phóng nợ xấu. Theo đó, BLDS quy định trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý TSBĐ theo phương thức do các bên đã thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, việc xử lý TSBĐ thường mất nhiều thời gian và tuỳ thuộc vào thiện chí của chủ sở hữu tài sản. Nếu không xử lý được TSBĐ theo thỏa thuận thì việc khởi kiện ra Toà án thường mất rất nhiều thời gian với thủ tục phức tạp, gia tăng nhiều chi phí cho các bên trong quá trình giải quyết. Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường: “BLDS chưa giải quyết được vấn đề này do pháp luật về tố tụng ở Việt Nam chưa áp dụng thủ tục rút gọn đối với những tranh chấp liên quan đến việc xử lý TSBĐ theo hướng Tòa án cho phép xử lý TSBĐ ngay khi có đủ hai căn cứ: hợp đồng bảo đảm hợp pháp; bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng cam kết. Bất cập trong việc thu giữ, xử lý TSBĐ đang là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu của các TCTD. Do vậy, việc BLDS (sửa đổi) sẽ được Quốc hội tiếp tục cho ý kiến vào ngày mai (24/10) có giải quyết được những bất cập đã được chỉ rõ trong Báo cáo tổng kết thi hành BLDS 2005 liên quan đến TSBĐ hay không sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng và sự ổn định của các giao dịch bảo đảm trong tương lai.
2. Báo điện tử VOV có bài: Lãi suất cơ bản: “Lạt mềm” buộc chặt... Bài báo phản ánh: Vấn đề nên hay không nên tồn tại khái niệm lãi suất cơ bản trong hệ thống luật có thể sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người.
Hiếm có điều luật nào được cân nhắc kỹ lưỡng và tranh luận sôi nổi, đa chiều như Điều 476 của Bộ luật Dân sự. Cũng là điều dễ hiểu, bởi vấn đề nên hay không nên tồn tại khái niệm lãi suất cơ bản trong hệ thống luật có thể sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người dân trong quan hệ tín dụng thường ngày, đặc biệt là vai trò điều chỉnh hành vi trên thị trường “tín dụng đen”.
Sau lần chỉnh lý tại kỳ họp Quốc hội thứ 9 (đầu năm 2015), tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội gần đây, vấn đề quy định lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản lại tiếp tục được đưa ra bàn thảo và đã nhận được không ít ý kiến trái chiều, tuy nhiên ngẫm ra, chiều nào cũng có lý!
Do còn nhiều ý kiến khác nhau, Uỷ ban thường vụ Quốc hội để hai phương án để xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hộitrong kỳ họp này. Phương án 1: Quy định mức lãi suất cố định ngay trong Bộ luật Dân sự là tối đa 20%/năm của khoản tiền vay. Phương án 2: Giữ như quy định của dự thảo trình Quốc hội, vẫn sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu, đồng thời xác định quy định về trần lãi suất của Bộ luật Dân sự sẽ không được áp dụng trong trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác.
Với phương án 1, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính – Ngân sách Phùng Quốc Hiển phân tích, phương án này có mặt tích cực là không phải sử dụng lãi suất cơ bản nhưng có tình huống lạm phát vượt quá mức cho phép thì người cho vay sẽ bị thiệt. Ví dụ, CPI của 2011 lên tới 18,75% , thì lãi suất thực tế sẽ phải đạt 21% mới dương. Vì thế, đề nghị để quy định của luật có tính lâu dài thì chúng ta nên quy định mức tối đa là 30%. Và nếu vượt mức 30% này thì sẽ khép vào tội cho vay nặng lãi.
Về phương án 2, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng - đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo luật cho hay: Vì Luật Ngân hàng nhà nước vẫn quy định có lãi suất cơ bản và khi nào thấy cần thiết thì Ngân hàng Nhà nước công bố. Mặt khác, các bộ luật dân sự trước và hiện hành vẫn lấy lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu. Còn việc nâng mức quy định từ 150% lên 200% là do trượt giá.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhận xét, phương án 1 “cứng” hơn, phương án 2 “mềm mại” hơn. Phương án 2 buộc phía Ngân hàng Nhà nước phải công bố lãi suất cơ bản. Nếu luật đề ra yêu cầu vẫn phải có lãi suất cơ bản thì thể hiện như phương án 2 là đúng với thực tế hơn. Tuy nhiên, nếu lạm phát như mức hiện nay thì quy định lãi suất cố định đến 30% là quá rộng đối với “tín dụng đen”.
Xem ra một phương án “mềm mại” sẽ phù hợp với nền kinh tế thị trường hơn là một phương án “cứng”. Ở phương án 2, tuy “cứng” ở phần đầu, đó là “giữ như quy định của dự thảo trình Quốc hội, vẫn sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu” nhưng lại “mềm” ở phần sau: “Đồng thời xác định quy định về trần lãi suất của Bộ luật Dân sự sẽ không được áp dụng trong trường hợp luật khác có liên quan có quy định khác”.
3. Báo Pháp luật và Xã hội có bài: Giám định lại hàm lượng heroin: Kỳ 2: Những vấn đề nảy sinh khi thực hiện thông tư liên tịch. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, việc xét xử các vụ án liên quan đến ma túy kéo dài, bị tuyên hủy do phải giám định lại hàm lượng heroin. Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND TC, Thông tư liên tịch số 17 của Bộ Công an, TANDTC, VKSND, Bộ Tư pháp hướng dẫn về vấn đề này nhưng thực tế lại vướng.
Theo đó, Thông tư liên tịch 17 hướng dẫn cách thức, phương pháp tính, quy đổi định lượng ma túy, định lượng xác định cấu thành tội phạm đối với các hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy, tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án về ma túy. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết về định lượng, tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy; là căn cứ để xác định khung hình phạt áp dụng và mức hình phạt tương ứng với trọng lượng do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, giúp cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng dễ dàng áp dụng, tránh được sự tùy tiện khi áp dụng.
Nhưng thực tiễn áp dụng nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch 17 về định lượng ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự còn nhiều vướng mắc trong quá trình vận dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể: Về việc giám định hàm lượng chất ma túy, theo quy định của pháp luật, trong mọi trường hợp khi thu giữ được các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất. Nhưng phần lớn các vụ án về ma túy không được giám định hàm lượng mooc-phin vì chỉ có Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an mới tiến hành được. Thế nên, trong các kết luận giám định của cơ quan giám định ở địa phương, việc xác định định lượng ma túy nêu chưa rõ ràng.
Việc giám định hàm lượng chất ma túy đối với ma túy tổng hợp ở thể rắn, thể lỏng, các chất ma túy mới như “ma túy đá”, “nước biển” hay giám định hàm lượng chất ma túy chứa trong thuốc tân dược, thuốc gây nghiện tại nhiều địa phương cũng chưa có sự thống nhất và phải chờ kết quả phân tích, giám định của cơ quan chuyên môn. Việc giám định hàm lượng chất ma túy còn gặp khó khăn do chưa có đủ trang thiết bị kỹ thuật để giám định. Đối với dung dịch có chứa thuốc phiện, sái thuốc phiện thì việc xác định công thức quy đổi ra trọng lượng thuốc phiện ban đầu rất khó bởi không rõ loại thuốc phiện đó trong thành phần của nó chứa bao nhiêu % mooc-phin. Một số cơ quan tiến hành tố tụng đã không bóc tách hàm lượng chất ma túy trong các loại thuốc độc gây nghiện hay thuốc hướng tâm thần mà quy đồng trọng lượng của các viên thuốc lắc, thuốc chứa chất độc nghiện, thuốc hướng tâm thần thành trọng lượng chất ma túy làm căn cứ để xác định khung hình phạt khiến việc đánh giá tính chất, mức độ phạm tội trong các vụ án chưa chính xác.
Vấn đề tính trọng lượng ma túy, quá trình giám định cho thấy, có vụ án căn cứ vào hàm lượng (tinh chất) ma túy nhưng có vụ án lại căn cứ trọng lượng thực tế (gồm tinh chất và tạp chất) thu giữ được để xem xét trách nhiệm hình sự.
Đáng chú ý, hành vi tàng trữ và vận chuyển trái phép chất ma túy không nguy hiểm bằng hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Trong khi đó, Điều 194 BLHS lại quy định định lượng chất ma túy và hình phạt đối với các hành vi của người vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt chất ma túy với hành vi của người buôn bán chất ma túy là như nhau nên thực tiễn còn khó khăn cho việc xác định tội danh, áp dụng hình phạt. Thông tư liên tịch 17 chỉ quy định chi tiết về định lượng tối thiểu xác định cấu thành tội phạm đối với các hành vi vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy; không quy định định lượng tối thiểu đối với hành vi mua bán. Do đó, cần quy định định lượng tối thiểu chất ma túy được mua bán để xác định cấu thành tội phạm. Một khó khăn nữa, BLHS quy định trọng lượng chất ma túy được xác định bằng đơn vị gram, kilogram. Trong thực tế có vụ án ma túy không thu giữ được tang vật mà chỉ dựa trên lời khai của các đối tượng xác định trọng lượng chất ma túy bằng đơn vị bánh, cây, chỉ, phân… mà chưa xác định và quy đổi thành đơn vị tính theo quy định của BLHS nên không đủ căn cứ để định tội.
Qua công tác giám đốc việc xét xử, TAND TC thấy còn nhiều trường hợp HĐXX chỉ căn cứ vào kết quả giám định về trọng lượng của các chất nghi là chất ma túy để kết tội các bị cáo mà không yêu cầu xác định hàm lượng chất ma túy trong các chất thu được đó. Điều này đồng nghĩa với việc, áp dụng không đúng quy định của BLHS và hướng dẫn của liên ngành dẫn đến hậu quả có thể xét xử oan, sai.
Để khắc phục tình trạng này, TAND TC có Công văn số 234/TANDTC-HS ngày 17-9-2014 yêu cầu, Chánh án TAND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương; Chánh án TAND huyện, quận, thị xã, TP trực thuộc tỉnh; Chánh án TAQS các cấp cần quán triệt và triển khai thực hiện đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 17 về việc bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất ma túy trong các chất thu giữ nghi là chất ma túy, để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999.
II- PHẢN HỒI CHÍNH SÁCH
1. Báo Hải quan online có bài: Bất cập trong kiểm tra chất lượng hàng hóa. Bài báo phản ánh: Bộ Tài chính đang đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ khảo sát để đánh giá ưu, nhược điểm của hai mô hình bộ máy tổ chức kiểm tra chất lượng hàng hóa, từ đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ để tổ chức lại bộ máy kiểm tra đảm bảo hiệu quản quản lý.
Những bất cập trong hệ thống văn bản liên quan đến kiểm tra chất lượng đang dẫn đến thực trạng hồ sơ DN phải nộp khi đăng ký kiểm tra nhiều và chủ yếu thực hiện thủ công. Tỷ lệ kiểm tra, lấy mẫu trên diện rộng với hầu hết các lô hàng NK để phân tích, thử nghiệm. Có DN phản ánh việc kiểm tra từ khi DN mới thành lập (đã 6-7 năm) không phát hiện lô hàng nào vi phạm nhưng vẫn phải kiểm tra đều đặn 100% các lô hàng NK.
2. Báo Hải quan online có bài: Vẫn vướng nhiều về phế liệu nhập khẩu. Bài báo phản ánh: Từ ngày 27-10-2015, Thông tư 41/2015/TT-BTNMT ngày 9-9-2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất chính thức có hiệu lực. Thông tư 41 ra đời nhằm đáp ứng nguyên liệu sản xuất của các doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro tác động đến môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Tuy nhiên, các DN có sử dụng phế liệu để làm nguyên liệu sản xuất trong các ngành thép, giấy, nhựa… cho rằng với những quy định như Thông tư 41 thêm thủ tục hành chính, gây khó khăn cho DN trong việc nhập khẩu phế liệu khi họ phải từ nhà máy ở các địa phương ra cơ quan Trung ương để làm thủ tục xin giấy phép.
3. Trang Diễn đàn cạnh tranh quốc gia.vn có bài: Lại thêm “giấy phép con” trong dự thảo của Bộ Y tế. Bài báo phản ánh: Hiện Bộ Y tế đang lấy ý kiến về dự thảo Thông tư quy định về quản lý hóa chất gia dụng, hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế.
Góp ý về dự thảo này trên cơ sở các ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đặc biệt lưu ý đến nội dung về giấy phép khảo nghiệm đối với các hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn sản xuất trong nước. Theo VCCI, yêu cầu doanh nghiệp phải được xin phép thì mới được tiến hành khảo nghiệm, sau đó mới được phép đăng ký lưu hành có thể được xem là một loại “giấy phép con” (bên cạnh giấy đăng ký lưu hành) và là một hình thức của điều kiện kinh doanh. Trong khi đó, theo Luật Đầu tư 2014, văn bản cấp Bộ như Thông tư này không phép được ban hành về điều kiện kinh doanh. Như vậy, quy định này là chưa phù hợp với quy định tại Luật Đầu tư. Mặt khác, theo quy định tại Nghị định 187/2013/NĐ-CP thì hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn sản xuất trong nước được quản lý dưới hình thức cấp đăng ký lưu hành, không có quy định nào liên quan tới việc cấp giấy phép khảo nghiệm đối với loại hàng hóa này. Do đó, quy định này là chưa phù hợp với quy định tại Nghị định 187.
III- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Lao động có bài: Đề nghị cắt tiền hội họp, đi nước ngoài để tăng lương. Bài báo phản ánh: Ngày 22.10, Quốc hội (QH) thảo luận tại tổ về tình hình kinh tế - xã hội; chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG), nhiều đại biểu (ĐB) cho rằng, không thể cứ “lỡ hẹn” tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức. Cho nên phải tiết kiệm chi thường xuyên, cắt các khoản lễ tiết, hội họp, đi nước ngoài để tăng lương cho khu vực này…
Theo báo cáo của Chính phủ, với tình hình ngân sách nhà nước (NSNN) hiện nay, không có nguồn để tăng lương cơ sở cho cán bộ công chức khu vực NN trong năm tới. Như vậy việc tăng lương cơ sở trong khu vực này “lỡ hẹn” tới 4 năm.
ĐB Nguyễn Văn Minh (TPHCM) cho biết, tiếp xúc cử tri năm 2014, ông đã hứa với cử tri là cố gắng chờ đến 2015 để tăng lương. Song theo kế hoạch 2016, Chính phủ khó cân đối được nguồn tiền để tăng lương nên ông đã không dám trả lời cử tri về vấn đề nhạy cảm này nữa. ĐB Bùi Quang Vinh - Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cho hay, mặc dù báo cáo Chính phủ cho thấy thu ngân sách năm 2016 sẽ tăng cao hơn dự toán năm 2015 hơn 60.750 tỉ đồng song tình hình ngân sách năm 2016 vẫn rất căng thẳng vì áp lực chi, trong khi đó con số thực để phân bổ chỉ còn 45.000 tỉ đồng. Với “thông điệp” của Bộ trưởng Vinh, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng tỏ ra bất ngờ: “Chưa vay đã trả lấy gì mà cân đối! Đấy là chưa nói năm nay chúng ta chưa có đồng nào tăng lương. Nói hay thế mà một đồng lương cũng không có là như thế nào?”.
ĐB Trần Du Lịch (TPHCM) cũng cho rằng, với tình hình khó khăn hiện nay, QH cần bàn thẳng vào việc cắt giảm những khoản nào để giảm chi thường xuyên thay vì đề xuất tăng lương. Theo ông, tuyệt đối không thể vay để tăng lương. “Hàng chục năm, chúng ta đi vay nhưng cuối cùng thu chỉ đủ chi thường xuyên, còn chi đầu tư phát triển phải đi vay tất! Trong khi đó, bộ máy vẫn cứ phình ra. Đồng tiền vay được nhưng không đẻ được!” - ông bức xúc. Theo ông, phải cắt giảm những khoản chi tiêu lãng phí như tiếp khách, hội họp…
2. Báo Lao động đưa tin: Sáng 22/10, TAND TPHCM đã đưa ra xét xử vụ chiếm đoạt gần 1.000 tỉ đồng của Nhà nước tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) chi nhánh 6, TPHCM. Đây là vụ án điểm đầu tiên trong 8 vụ án điểm của cả nước, mà theo Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng yêu cầu đưa ra xét xử trước Đại hội XII của Đảng.
Cáo trạng truy tố 11 bị cáo về 3 tội danh “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Theo cáo trạng, tổng số tiền mà 11 bị cáo gây thiệt hại cho Nhà nước là hơn 966 tỉ đồng, bằng nhiều thủ đoạn lập hồ sơ “ma”, hợp đồng không tài sản thế chấp, hoặc tài sản thế chấp tạm thời nhưng lại sau khi giải ngân lại mang đi thế chấp vay ở ngân hàng khác…
3. Báo điện tử Nhân dân đưa tin:
- TTXVN và các hãng tin nước ngoài dẫn thông báo của cảnh sát Phi-li-pin cho biết, một vụ tiến công bằng súng tại một nhà hàng ở TP Xê-bu của Phi-li-pin đã khiến Phó lãnh sự và một nhân viên tài chính của Lãnh sự quán Trung Quốc tại Xê-bu thiệt mạng, Tổng lãnh sự bị thương. Cảnh sát Phi-li-pin thu giữ một khẩu súng lục bán tự động tại hiện trường và khẩn trương điều tra. Phía Trung Quốc chưa đưa ra bình luận.
- Tại các cuộc tiếp xúc, làm việc với Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Phạm Quang Vinh trong chuyến thăm bang Ca-li-pho-ni-a, các thượng nghị sĩ và đại diện chính quyền bang đánh giá quan hệ hai nước, trong đó có hợp tác giữa các địa phương, phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại…
- Theo Tân Hoa xã, tại Hội nghị quan chức cấp cao Trung Quốc - ASEAN lần thứ 10 về thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), diễn ra tại tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc), các nước chia sẻ ý chí chính trị về thực thi DOC và đạt đồng thuận về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) càng sớm càng tốt.
- Hội thảo “An ninh và phát triển tại Biển Đông”, do Viện Chính sách đối ngoại phối hợp Liên minh Biển và Đại học John Hopkins của Mỹ tổ chức, thu hút đông đảo học giả, giáo sư nổi tiếng của Mỹ tham dự và thảo luận về tình hình an ninh và diễn biến gần đây ở Biển Đông.
- Mi-an-ma cho phép các quan sát viên của Liên hiệp châu Âu (EU) tiếp cận các điểm bỏ phiếu đặt tại các căn cứ quân sự trong cuộc tổng tuyển cử tại nước này ngày 8-11 tới.
- Số nạn nhân thiệt mạng do bão Koppu tại Phi-li-pin tăng lên 47 người; hàng chục nghìn người vẫn đang phải tạm trú tại các trung tâm sơ tán.
- Sputnik đưa tin, thông báo trên trang mạng chính thức của Hải quân Mỹ cho biết, lực lượng này đã tiến hành thử nghiệm lần đầu hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu.
- Hạ viện Tây Ban Nha thông qua dự thảo ngân sách tài khóa 2016, cho phép tăng chi tiêu sau nhiều năm thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”.
- Chính phủ Mỹ phê chuẩn thỏa thuận bán bốn tàu chiến hiện đại với tổng trị giá 11 tỷ USD cho A-rập Xê-út, giúp vương quốc này hiện đại hóa Hạm đội phương Đông.
- Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), các kế hoạch cắt giảm khí thải mà các nước phát triển và mới nổi đưa ra không đủ để hạn chế nhiệt độ toàn cầu gia tăng ở mức 2 độ C.