Trong ngày 21/5/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh số 135 ra ngày 21/5/2008 có bài "Cấp phường không chứng giấy bán xe nữa". Bài báo phản ánh: Trả lời câu hỏi “Bán xe máy: Phường không chứng thì ai chứng?”trên Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-5 (Văn phòng đã nêu trong điểm báo ngày 19/5/2008 - số 2), bà Ung Thị Xuân Hương, Trưởng phòng Văn bản, Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết: Sở đã rà soát các văn bản liên quan và nhận thấy quy định của ngành công an không đề cập giấy bán xe máy phải có cơ quan chức năng chứng nhận. Ngoài ra, pháp luật về hợp đồng, giao dịch dân sự không quy định hợp đồng, giao dịch về chuyển quyền sở hữu xe máy phải được công chứng, chứng thực, trừ trường hợp người dân có yêu cầu. Theo Luật Công chứng và Nghị định 75 năm 2000 về công chứng, chứng thực, việc công chứng, chứng thực hợp đồng chuyển quyền sở hữu xe máy thuộc thẩm quyền của tổ chức hành nghề công chứng và UBND cấp huyện. UBND cấp xã không có thẩm quyền này.
Vì vậy, Sở Tư pháp TP.HCM đã đề nghị UBND các quận, huyện chỉ đạo UBND phường, xã thuộc quận, huyện mình không thực hiện chứng thực chữ ký hoặc xác nhận thường trú trên giấy mua bán, tặng cho xe máy nữa. Trường hợp người dân có yêu cầu công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch chuyển quyền sở hữu xe máy thì phải chứng nhận tại cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực (tức UBND cấp quận hoặc phòng công chứng - PV).
Theo ông Phan Văn Cheo, Trưởng phòng Công chứng số 1 (TP.HCM), Thông tư 01 năm 2007 của Bộ Công an về việc tổ chức đăng ký, cấp biển số xe quy định hồ sơ đăng ký gồm: Giấy khai đăng ký xe, chứng từ mua bán, cho tặng xe theo quy định pháp luật (quyết định, hợp đồng, giấy bán, cho, tặng hoặc văn bản thừa kế theo pháp luật, hóa đơn bán hàng), chứng từ lệ phí trước bạ theo quy định. Quy định này không yêu cầu giấy mua bán xe cần được cơ quan nào chứng nhận, công chứng. Do đó, UBND cấp huyện và UBND cấp xã chứng nhận chữ ký hoặc chứng nhận hợp đồng mua bán xe đều được, trừ trường hợp người dân yêu cầu các phòng công chứng chứng nhận. Nhưng người dân cần đem giấy bán xe đến cơ quan có thẩm quyền chứng nhận để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên.
Báo cũng có bài "Thi hành án Dăk Lăk khổ vì tòa" trên mục Toà án. Bài báo phản ánh:
Giữa năm 1996, TAND tỉnh Dăk Lăk xử vụ Huỳnh Thị Thanh Tuyết chứa mại dâm. Phạt bổ sung, tòa tuyên tịch thu, hóa giá sung công phòng số 202 của căn nhà 95 đường Điện Biên Phủ (TP Buôn Ma Thuột) mà Tuyết đã sử dụng để thực hiện tội phạm. Phần hình phạt bổ sung này được chuyển sang Thi hành án tỉnh giải quyết. Xác minh, Thi hành án té ngửa khi biết căn nhà trên thuộc sở hữu nhà nước bởi trước đó Liên minh Hợp tác xã tỉnh Dăk Lăk đã cho bà Tuyết thuê để kinh doanh. Như vậy, tòa tuyên tịch thu tài sản công để hóa giá sung công là trái luật và Thi hành án không thể thi hành được. Theo luật, kết luận của bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án là một căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, đồng thời việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào. Do vậy, tháng 2-2005, Thi hành án tỉnh đã có công văn đề nghị chánh án TAND tối cao, viện trưởng VKSND tối cao xem xét kháng nghị giám đốc thẩm vụ án trên. Tuy nhiên đến nay, Thi hành án tỉnh vẫn chưa được những người có thẩm quyền trả lời.
Bốn năm trước, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng xử vụ Ngô Văn Sự và đồng phạm vi phạm các quy định về an toàn giao thông. Về trách nhiệm dân sự, tòa đã y án sơ thẩm của TAND tỉnh Dăk Lăk, tuyên buộc Sự, Hùng, Hương và vợ chồng Hòa-Tuệ liên đới bồi thường gần 159 triệu đồng cho 11 nạn nhân. Do Hòa đã nộp trước 36 triệu đồng là phần liên đới bồi thường của mình nên tòa phúc thẩm tuyên trả lại chiếc ôtô bị tạm giữ để đảm bảo thi hành án của Hòa. Theo Thi hành án tỉnh Dăk Lăk, trong vụ này các đương sự phải liên đới bồi thường nhưng chưa làm xong nghĩa vụ. Việc tòa tuyên trả lại tài sản đảm bảo để thi hành án sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án. Mặt khác, bản án không tuyên cụ thể mỗi đương sự phải bồi thường cho mỗi nạn nhân bao nhiêu tiền. Hơn nữa, còn một tài sản bị tạm giữ khác để đảm bảo thi hành án nhưng tòa không chuyển giao... Vì phần dân sự không rõ như trên nên Thi hành án tỉnh... ngắc ngứ, trong khi các nạn nhân liên tục yêu cầu thi hành án. Năm 2004, Thi hành án tỉnh phải gửi công văn đề nghị TAND tỉnh giải thích bản án. Xét thấy cần phải giải quyết bằng bản án giám đốc thẩm, TAND tỉnh có công văn đề nghị chánh án TAND tối cao và viện trưởng VKSND tối cao nhanh chóng xem xét. Về phần mình, Thi hành án tỉnh cũng trực tiếp đề nghị lãnh đạo hai cơ quan trên kháng nghị giám đốc thẩm bản án. Đầu năm 2007, Thi hành án tỉnh tiếp tục đề nghị lãnh đạo hai cơ quan trên sớm trả lời. Tuy nhiên, Thi hành án tỉnh chỉ nhận được thông báo là tòa, viện tối cao đã tiếp nhận hồ sơ, còn việc kháng nghị ra sao thì không ai đề cập đến. Đến nay, mọi việc vẫn dậm chân tại chỗ...
Cuối năm 2006, TAND tỉnh Dăk Lăk xử một vụ liên quan đến việc đòi nợ, buộc bà Liên Bích Vân phải thanh toán cho ngân hàng gần 242 triệu đồng. Thụ lý, Thi hành án tỉnh đã tổ chức thi hành án. Năm 2007, khi vụ bán đấu giá nhà đất của vợ chồng bà Vân sắp xong thì bất ngờ thẩm phán chủ tọa ra thông báo: Do bản án có những sai sót, nhầm lẫn nên phần quyết định của bản án là “bà Liên Bích Vân phải trả cho ngân hàng... gần 242 triệu đồng” được sửa thành “vợ chồng bà Liên Bích Vân và ông Đỗ Văn Trinh trả cho ngân hàng... gần 242 triệu đồng”. Lý giải, vị thẩm phán này cho rằng những sai sót, nhầm lẫn trên là do lỗi chính tả khi đánh máy.
Trước đó, trong bản án, ông Trinh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tư cách này được khẳng định một cách thống nhất từ thành phần tham gia tố tụng, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn cũng như phần nhận định và quyết định của bản án. Vì vậy, Thi hành án tỉnh đã đề nghị chánh án TAND tỉnh xem lại các thông báo của thẩm phán. Phúc đáp, chánh án TAND tỉnh cho rằng các thông báo này không trái quy định. Về phần mình, Thi hành án tỉnh khẳng định theo luật, tòa không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai nhưng không được làm thay đổi tính chất, nội dung vụ án. Ở đây, qua các thông báo trên, thẩm phán đã làm thay đổi tư cách người tham gia tố tụng, đưa ông Trinh từ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thành đồng bị đơn (người phải thi hành án). Theo Thi hành án tỉnh, sai sót này không phải là lỗi chính tả mà là sai nghiêm trọng về áp dụng pháp luật và chỉ có thể khắc phục theo trình tự giám đốc thẩm.
Năm 2007, Thi hành án tỉnh đã liên tiếp gửi hai công văn đến chánh án TAND tối cao, viện trưởng VKSND tối cao đề nghị xem xét kháng nghị. Đợi mãi không thấy hồi âm, đầu năm nay Thi hành án lại gửi công văn đề nghị lãnh đạo hai cơ quan trên trả lời nhưng vụ việc vẫn chìm trong im lặng.