I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người lao động có bài: Gian nan thừa phát lại. Nhiều cán bộ vẫn chưa biết. Bài báo phản ánh: Mở văn phòng thừa phát lại và “thất nghiệp” suốt 3 tháng vì không ai nhờ; ở nhiều nơi, cán bộ không hề biết thừa phát lại là gì...
Một khảo sát thí điểm thừa phát lại do Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thực hiện mới đây cho biết tại Hà Nội, 34% người dân khi được hỏi cho biết không quan tâm và không biết gì về thừa phát lại; với hoạt động lập vi bằng, 89% người dân cho biết sẵn sàng sử dụng dịch vụ này khi có nhu cầu, các hoạt động khác thì khoảng 30% sẵn sàng. Khảo sát tại chính quyền cơ sở nơi đặt các văn phòng thừa phát lại có 20% cán bộ cơ sở cho biết họ có hợp tác trong hoạt động tống đạt, thi hành.
Bà Nguyễn Thị Vân Quỳnh, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại TP Thanh Hóa, cho biết ngay từ ngày đầu thành lập văn phòng đã phải đi xuống các xã phường, cơ quan đơn vị để phối hợp tuyên truyền, phát tờ rơi nhưng rất nhiều nơi thờ ơ.
“Chế định thừa phát lại ra đời với kỳ vọng sẽ giúp chia sẻ gánh nặng công việc với ngành tòa án và thi hành án nhưng hiện các văn phòng thừa phát lại đang gặp rất nhiều khó khăn vì chính những cơ quan này chưa có sự hợp tác, không cung cấp văn bản, giấy tờ, chi phí hoặc cung cấp chậm” - ông Phạm Thanh Sơn, quyền Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Thanh Hóa, đánh giá.
Bà Võ Thị Ngọc Huệ, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại Bình Dương (tỉnh Bình Dương), cho biết văn phòng được thành lập từ tháng 3-2014 và mất chừng 3 tháng liền không có việc làm, không nhận được hợp đồng nào vì người dân không biết. Đi tống đạt văn bản hoặc xác minh tài sản thì các cơ quan chức năng không cho tiếp cận, nhất là trại giam.
Tại TP HCM, các văn phòng thừa phát lại đều thường gặp khó khăn trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án. Mặc dù thừa phát lại có thẩm quyền xác minh tài sản của đương sự, tự tổ chức thi hành án (được hiểu là thi hành án tư) nhưng một số cơ quan nhà nước từ chối cung cấp thông tin về tài sản của đương sự và kiên quyết chỉ cung cấp thông tin cho thi hành án dân sự của nhà nước.
Việc tống đạt văn bản ngỡ đơn giản là thừa phát lại đến nơi cư trú của đối tượng, trao văn bản, lấy xác nhận là xong nhưng hiện đang gặp nhiều khó khăn do một số tòa án yêu cầu phải có đóng dấu của chính quyền nơi đối tượng được tống đạt cư trú, có xác nhận của chính quyền địa phương nếu người được tống đạt vắng mặt. Tuy nhiên, chính quyền địa phương lại không đồng ý đóng dấu lên văn bản do họ không trực tiếp chứng kiến người được tống đạt ký nhận văn bản, cũng không có thời gian đi cùng thừa phát lại thực hiện tống đạt. Vì vậy, một số tòa án từ chối kết quả tống đạt, coi như việc tống đạt chưa đạt.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Tổng cục Thi hành án dân sự theo dõi, đề xuất giải pháp khắc phục.
2. Báo Tài chính có bài: Xu hướng thuê hãng luật giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí. Bài báo phản ánh: Chi phí thuê luật sư quá cao, hiệu quả công việc chưa đáp ứng được yêu cầu,… là những nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp lựa chọn phương án thuê ngoài những văn phòng luật sư, công ty luật.
Ngày nay, để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, đòi hỏi luật sư phải có nhiều năm kinh nghiệm, nắm vững chuyên môn ở đa dạng các lĩnh vực, khả năng sử dụng ngoại ngữ tốt và kể cả những kỹ năng mềm để giải quyết công việc… Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc chiêu mộ luật sư đáp ứng những điều kiện trên là điều không dễ dàng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ khi nguồn kinh phí eo hẹp.
Trao đổi với hãng luật PLF về “hình ảnh” của một luật sư giỏi, hãng luật này cho biết: “Nếu bàn đến kinh nghiệm thì độ chín của nghề luật sư sẽ là độ tuổi 40; Nếu yêu cầu ngoài ngữ thì phải ở mức độ thành thạo mới có thể soạn thảo và đàm phán hợp đồng; Nếu đề cập chuyên môn thì luật sư doanh nghiệp phải có kiến thức ở đa dạng các lĩnh vực; Và nếu nói đến kỹ năng thì luật sư phải có khả năng trình bày khi tư vấn, phải khéo léo khi giải quyết tranh chấp và có những mối quan hệ cần thiết để xúc tiến công việc v.v…”
Loại hình thuê ngoài luật sư đang được phát triển nhiều tên gọi khác nhau “Dịch vụ luật sư nội bộ”, “Luật sư doanh nghiệp”, “ Luật sư riêng”, “Tư vấn pháp lý thường xuyên,… Đây là một loại hình dịch vụ pháp lý du nhập từ nước ngoài với nhiều đặc điểm cho phép doanh nghiệp giảm thiểu chi phí và mang lại hiệu quả vượt trội.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Cục Bổ trợ tư pháp theo dõi.
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài: Sẽ tham gia Công ước La Haye về tống đạt giấy tờ. Bài báo phản ánh: Hôm nay, 10-12, Bộ Tư pháp đã tổ chức hội thảo kinh nghiệm quốc tế về tham gia và thực thi Công ước La Haye năm 1965 về Tống đạt giấy tờ.
Năm 2014, 52% yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam gởi ra nước ngoài không nhận được hồi âm. Vì vậy Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc cho rằng, để giải quyết trở ngại này, việc nghiên cứu gia nhập Công ước La Haye là cần thiết.
Tại hội thảo, bà Phạm Hồ Hương, Trưởng phòng Tư pháp quốc tế, Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp cho biết, hiện nay Việt Nam chỉ mới ký 15 hiệp định/thỏa thuận tương trợ tư pháp với các nước (chủ yếu các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây – quá nhỏ so với số lượng quốc gia/vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ ngoại giao và quan hệ thương mại) nên chưa tạo ra được cơ chế pháp lý đầy đủ để đáp ứng nhu cầu về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tương trợ tư pháp.
Ông Lê Mạnh Hùng, Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao cho biết, trung bình hàng năm (tính từ năm 2010 đến nay) các Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết khoảng 3.500 đến 4.000 vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và phải ủy thác tư pháp ra nước ngoài cho đương sự ở nước ngoài và gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc thừa nhận, hiện nay số lượng tranh chấp dân sự và thương mại có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, do đó các yêu cầu về tống đạt giấy tờ cũng tăng. Cho nên, theo ông việc tìm hiểu, gia nhập Công ước La Haye là rất hữu ích, vì Công ước Tống đạt giấy tờ sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế liên quan đến tư pháp quốc tế thông qua việc áp dụng những chuẩn mực quốc tế về tương trợ tư pháp, đưa hệ thống pháp luật, quy trình tố tụng của Việt Nam đến gần và phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế.
Công ước La Haye về Tống đạt hiện nay có 68 thành viên (quốc gia) tham gia.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Vụ Pháp luật quốc tế theo dõi.
4. Báo Lao động có bài: Bố đẻ Huỳnh Văn Nén đi tìm địa vị pháp lý cho con trai. Bài báo phản ánh: Ngày 10.12, ông Huỳnh Văn Truyện – bố đẻ Huỳnh Văn Nén đã cùng đoàn luật sư tiếp tục tới trụ sở Văn phòng Cơ quan CSĐT (C44B) Bộ Công an (phía Nam) để hỏi về địa vị pháp lý của con trai sau khi Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao có quyết định hủy bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Bình Thuận đối với bị án Huỳnh Văn Nén.
Trước đó, gia đình phạm nhân Huỳnh Văn Nén nhận được thông báo về việc trích xuất phạm nhân Huỳnh Văn Nén từ Trại giam Xuân Lộc (Z30A, Tổng cục VIII - Bộ Công an, đóng tại Đồng Nai) đến Trại tạm giam T17 (Bộ Công an, đóng tại Q.1, TPHCM). Theo đó, luật sư đại diện cho ông Huỳnh Văn Truyện liên lạc với C44B và được trả lời rằng Huỳnh Văn Nén vẫn đang do Tổng cục VIII – Bộ Công an quản lý và đang tiếp tục chấp hành án tại trại tạm giam T17. Đại diện C44B cũng cho biết chưa nhận được hồ sơ vụ án Huỳnh Văn Nén.
Theo bản án hình sự sơ thẩm số 96/2000/HSST ngày 31.8.2000 của TAND tỉnh Bình Thuận, ông Nén bị kết án tù chung thân trong vụ bà Lê Thị Bông ở Tân Minh (Hàm Tân, Bình Thuận) bị giết vào đêm 23.4.1998. Tuy nhiên, ngày 24.10.2014, Viện trưởng Viện KSND Tối cao đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án trên. Đến ngày 12.11, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, TAND Tối cao đã tuyên chấp nhận kháng nghị của VKSND Tối cao, tuyên hủy án sơ thẩm về phần tội danh “giết người” và “cướp tài sản” và hình phạt đối với ông Nén về hai tội danh đó, để điều tra lại theo thủ tục chung.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Vụ Pháp luật hình sự - hành chính và Cục Bổ trợ tư pháp theo dõi.
5. Báo Pháp luật Việt Nam có bài: Thi hành án dân sự Hà Nội cần tăng cường công tác kiểm tra. Bài báo phản ánh: Báo cáo công tác năm 2014, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự Hà Nội Dương Minh Công cho biết, trong số việc có điều kiện, Hà Nội đã giải quyết xong 25.140 việc, đạt tỷ lệ 91,38%, tăng gần 1.700 việc so với năm 2013; đã giải quyết xong gần 4.667 tỷ đồng/số có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 90%.
Riêng về thi hành án đối với các khoản thu cho ngân sách nhà nước, đã giải quyết được 21.480 việc, thu số tiền trên 121 tỷ đồng. Năm 2014 Cục THADS Hà Nội đã lập đoàn kiểm tra 26/30 Chi cục, 9 cuộc kiểm tra toàn diện đối với đơn vị cấp huyện, 2 cuộc kiểm tra đối với Chấp hành viên thuộc Cục THADS TP. Cũng trong năm, Hà Nội đã giải quyết 357 đơn khiếu nại, tố cáo về THA, trong đó có một số vụ khiếu nại, tố cáo kéo dài. Các mặt công tác khác như tổ chức cán bộ, đào tạo bồi dưỡng, công tác phối hợp giữa các cơ quan trong công tác THADS… cũng có nhiều chuyển biến tích cực.
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thúy Hiền yêu cầu: Thi hành án dân sự Hà Nội cần tăng cường công tác kiểm tra.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Tổng cục Thi hành án dân sự theo dõi.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Trang Zing.vn có bài: Kinh doanh trên mạng xã hội phải nộp thuế từ năm 2015. Bài báo phản ánh: Đây là nội dung của thông tư mới do Bộ Công Thương ban hàng nhằm quản lý các website thương mại điện tử, sẽ có hiệu lực từ ngày 20/1/2015.
Theo quy định tại thông tư 47/2014 của Bộ Công Thương, mạng xã hội sẽ phải tiến hành đăng ký dưới hình thức sàn giao dịch thương mại điện tử nếu cho phéo ngời tham gia được mở gian hàng, trưng bày và giới thiệu hàng hóa. Những trang xã hội có chứa chuyên mục cho phép người dùng đăng tin mua bán hàng hóa, dịch vụ cũng là đối tượng phải đăng ký với Bộ Công Thương.
Sau khi đăng ký, các thương nhân, tổ chức thiết lập mạng xã hội sẽ phải thực hiện trách nhiệm giống như các đối tượng cung cấp dịch vụ sàn giao dịch điện tử theo quy định của pháp luật. Những người bán hàng trên mạng xã hội, theo đó, cũng phải thực hiện đầy đủ các quy định của nghị định 52/2013.
Cụ thể, người bán phải cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin tối thiểu về tên và địa chỉ trụ sở của thương nhân, tổ chức hoặc tên và địa chỉ thường trú của cá nhân... khi đăng ký sử dụng dịch vụ.
Các yêu cầu khác bao gồm cung cấp và đảm bảo tính chính xác về thông tin hàng hóa, tình hình kinh doanh khi có yêu cầu của cơ quan Nhà nước cũng phải được thực hiện. Ngoài ra, những người bán hàng qua mạng xã hội cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật, như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập...
2. Báo Nhân dân có bài: Nợ công: Nhìn thẳng và giải pháp. Bài báo phản ánh: Vào thời điểm Quốc hội ban hành Luật quản lý nợ công (năm 2009), chỉ tiêu nợ công so GDP của Việt Nam cũng tương tự của các nước. Hiện nay không chỉ nước ta mà ở nhiều quốc gia nợ công cũng tăng nhanh. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nợ được an toàn? Điều quan trọng không ở chỗ quy mô nợ lớn hay nhỏ, mà là khả năng trả nợ.
Theo Luật Quản lý nợ công của nước ta, nợ công gồm ba khoản lớn là nợ Chính phủ vay, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Các số liệu chính thức về nợ công được Chính phủ giao cho Bộ Tài chính, cụ thể là Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại quản lý. Bên cạnh các lần công bố trước đây do Cục tiến hành, thì từ hai năm nay, con số nợ công đã được công khai trong bản tin nợ của Bộ Tài chính. Theo báo cáo giám sát của Quốc hội vừa được công bố, đến cuối năm 2012, nợ công đã là 1,6 triệu tỷ VND (tương đương hơn 61 tỷ USD), tăng hơn 250 nghìn tỷ VND so với năm 2011, chiếm 55,7% GDP, tuy cao hơn tỷ lệ 54,9% GDP của năm 2011, nhưng thấp hơn tỷ lệ 56,3% GDP của năm 2010. Trong báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội vừa qua, nợ công năm 2014 đã lên tới 60,3% GDP và đạt mức tăng cao nhất vào năm 2016. Khi ban hành Luật Quản lý nợ công, tỷ lệ nợ công năm 2009 của Việt Nam là 52% GDP. Năm 2012 nợ công 61 tỷ USD, chiếm 55,7% GDP thì đến 31-10-2014 nợ công đã vượt 85 tỷ USD, vượt 60% GDP và sẽ đạt mức cao nhất, sát trần 65%GDP vào năm 2016. Dự kiến mức nợ công sẽ giảm dần cho giai đoạn 2016-2020 và vẫn nằm trong giới hạn 65% GDP được Quốc hội đề ra cho giai đoạn đến năm 2020 trong Chiến lược vay trả nợ. Việc vay nợ của nước ta cũng có đặc điểm đáng ghi nhận: thứ nhất là trong điều kiện kinh tế khó khăn, thu ngân sách không đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, cho nên 98% số nợ vay được dành cho đầu tư phát triển; thứ hai là trong điều kiện vốn vay bên ngoài có hạn, các khoản vay từ trong nước đã tăng nhanh trong những năm gần đây.
Chín năm trước, Chính phủ có Nghị định 134/2005/NĐ-CP ban hành ngày 1-11-2005 về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Lúc đó, nợ công chủ yếu là nợ vay nước ngoài với lãi suất thấp, thời hạn vay dài hạn, trong đó phần lớn là vốn vay ODA, tổng nợ nước ngoài mới là 13,5 tỷ USD và nghĩa vụ trả nợ (gốc và lãi) chỉ là 612 triệu USD. Trong điều kiện nợ công tăng nhanh phục vụ nhu cầu phát triển, Quốc hội đã ban hành Luật Quản lý nợ công năm 2009, trong đó nhấn mạnh quyền hạn, nhiệm vụ quản lý nợ công của Quốc hội, đồng thời, Luật ghi rõ, Chính phủ quản lý nợ công với các nhiệm vụ, quyền hạn về thống nhất quản lý nhà nước về nợ công. Ngày 27-7-2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 958/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 nhằm mục tiêu tổ chức huy động vốn vay với chi phí và mức độ rủi ro phù hợp, đáp ứng nhu cầu cân đối ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
3. Báo Dân trí có bài: Hàn Quốc sẽ ưu tiên ODA cho dự án hạ tầng, tăng trưởng xanh tại Việt Nam. Bài báo phản ánh: Sáng 10/12/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới thành phố Busan, bắt đầu chuyến tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 25 năm Quan hệ đối thoại ASEAN-Hàn Quốc và thăm Hàn Quốc theo lời mời của Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye.
Chiều tối 10/12, theo giờ địa phương, tại Busan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye.
Hai bên bày tỏ vui mừng và đánh giá cao sự phát triển nhanh chóng, hiệu quả của quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực, nhất là sau khi thiết lập khuôn khổ quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược vào năm 2009. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí cho rằng sự chia sẻ các lợi ích chiến lược và sự tin cậy chính trị giữa hai nước trong thời gian qua là nền tảng quan trọng để tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, góp phần quan trọng vào sự phát triển của mỗi nước và đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng thống Park Geun-hye bày tỏ vui mừng trước việc hai nước kết thúc đàm phán Hiệp định thương mại tự do song phương, coi đây là sự kiện hết sức quan trọng đối với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc; nhất trí cho rằng Hiệp định không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hợp tác thương mại song phương hướng tới mục tiêu kim ngạch 70 tỷ USD vào năm 2020, mà còn góp phần thúc đẩy toàn diện quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc lên tầm cao mới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cảm ơn và đề nghị Tổng thống Park Geun-hye và Chính phủ Hàn Quốc quan tâm thúc đẩy hợp tác lao động giữa hai nước và có các chính sách thiết thực, hiệu quả để tiếp tục hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc.
Hai bên nhất trí duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không tại Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực; ủng hộ ASEAN và Trung Quốc thực hiện nghiêm túc DOC và sớm tiến tới COC. Hai bên cũng đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, trong đó có vấn đề Bán đảo Triều Tiên; bày tỏ vui mừng trước sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN - Hàn Quốc thời gian qua và nhất trí tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các cơ chế hợp tác của ASEAN và các diễn đàn đa phương khác.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chúc mừng Hàn Quốc đăng cai tổ chức Hội nghị Cấp cao kỷ niệm 25 năm quan hệ đối thoại ASEAN - Hàn Quốc, góp phần định hướng và làm sâu sắc hơn quan hệ ASEAN - Hàn Quốc trong thời gian tới.
4. Báo Vnexpress có bài: NXB 'tùy tiện minh họa sách danh tướng' bị đề nghị đình chỉ hoạt động. Bài báo phản ánh: Với nhiều sai phạm, NXB Văn hóa - Thông tin, đơn vị phát hành cuốn “Những vị tướng lừng danh trong lịch sử dân tộc”, có thể sẽ bị tạm dừng hoạt động.
Cuốn sách Những vị tướng lừng danh trong lịch sử dân tộc do NXB Văn hóa - Thông tin phối hợp với Trung tâm dịch thuật, dịch vụ văn hóa và khoa học - công nghệ thực hiện. Sách ra mắt hôm 5/12 nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ngay sau khi phát hành, cuốn sách bị phát hiện sử dụng những hình ảnh minh họa tùy tiện, không rõ nguồn gốc, vi phạm bản quyền. Cuốn sách mang tới thông tin và hình ảnh về gần 50 vị tướng nổi tiếng của Việt Nam. Tuy nhiên, trừ 12 vị tướng thời hiện đại có ảnh chụp tham khảo; còn lại, sách đưa ra nhiều bức tranh làm hình minh họa thiếu phù hợp như: tranh vẽ theo phong cách manga, phong cách game, phong cách digital art... Bên cạnh đó, cuốn sách này còn chưa đăng ký xuất bản.
Chiều 10/12, ông Chu Văn Hòa - Cục trưởng Cục Xuất bản - cho biết, Cục đã có quyết định thu hồi cuốn Những vị tướng lừng danh trong lịch sử dân tộc, do sách không có trong danh mục đăng ký xuất bản (tức sách xuất bản lậu).
Ông Chu Văn Hòa cho biết thêm Bộ Thông tin và Truyền thông cũng có công văn đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (đơn vị chủ quản của NXB Văn hóa - Thông tin) xem xét tạm dừng hoạt động đối với NXB Văn hóa - Thông tin để kiện toàn tổ chức, làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những sai phạm trong thời gian vừa qua. Trước đó NXB này liên tục có những vi phạm tuy không lớn nhưng gây ảnh hưởng xấu trong thị trường sách một cách có hệ thống.
Trên đây là thông tin báo chí trong ngày 10/12 và đầu giờ sáng ngày 11/12/2014, Văn phòng Bộ xin báo cáo Lãnh đạo Bộ xem xét, chỉ đạo./.