Trong buổi sáng ngày 20/5/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thanh niên phản ánh: Cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường mới đây đã xác minh làm rõ những dấu hiệu vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của một số đơn vị thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), thông qua việc bán chất thải nguy hại (CTNH) để thu lợi.
Từ năm 2003, EVN đã chỉ đạo các công ty điện lực trực thuộc không được bán thanh lý các thiết bị có chứa dầu thải hoặc đổ dầu thải cách điện vào môi trường không qua xử lý. Tuy nhiên, theo Công An Nhân Dân 17/05, trên thực tế, 5 đơn vị là Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Nam (quận 1, TP. Hồ Chí Minh), Trung tâm Thí nghiệm Điện (thuộc Công ty Điện lực II), Công ty TNHH một thành viên Nhiệt điện Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Công ty Truyền tải điện 4 (quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh), Công ty Thủy điện Trị An và điện lực 21 tỉnh, thành phía Nam vẫn chưa có biện pháp thu gom, lưu giữ, xử lý, quản lý CTNH theo quy định. Nghiêm trọng hơn, các đơn vị này lại ngang nhiên đem bán một khối lượng lớn CTNH để thu lợi. Được biết, hầu hết các chất thải của ngành Điện đều thuộc danh mục CTNH. Trong đó, dầu cách điện thải có chứa chất Polychorinated Biphenyls (PCBs) là chất gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, thậm chí gây ung thư cho con người.
2. Báo Người lao động phản ánh: Ngày 19-5, Viện Nghiên cứu lập pháp đã tổ chức hội nghị công tác thông tin phục vụ kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII với sự tham gia của các bộ, ngành, cơ quan hữu quan.
Theo TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, Viện sẽ là "cầu nối" giúp đại biểu Quốc hội yêu cầu, tiếp nhận và xử lý thông tin từ các bộ, ngành, cơ quan hữu quan. Hiện nay, ngoài việc trực tiếp thực hiện công tác thông tin phục vụ Quốc hội và các đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp và trả lời yêu cầu thông tin theo dạng hỏi đáp, Viện đang tích cực nghiên cứu bổ sung các phương thức cung cấp thông tin khác nhau trên cơ sở phát triển và hoàn thiện cơ sở dữ liệu tích hợp, trước mắt là thí điểm xây dựng bản tin phục vụ đại biểu Quốc hội. Trong kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII tới, đại biểu Quốc hội sẽ được cung cấp các loại dữ liệu chủ yếu gồm kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội trong các lĩnh vực, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; tài liệu tham khảo, dữ liệu về hoạt động của Quốc hội; việc thực hiện nhiệm vụ công tác của các cơ quan, bộ, ngành; thông tin phục vụ nghiên cứu, thẩm tra các dự án luật…
3. Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu Công ty Vedan bồi thường thiệt hại cho người dân theo quy định pháp luật và báo cáo bộ trước ngày 20/5. Đến thời điểm hiện nay, chỉ có tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã cơ bản hoàn thành việc thống kê thiệt hại về kinh tế, môi trường và yêu cầu Công ty Vedan bồi thường thiệt hại; Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã hoàn tất việc thống kê. Bộ cũng đã yêu cầu tỉnh Đồng Nai khẩn trương tổng hợp các thiệt hại của người dân. Trước đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Viện Hóa học thuộc Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng các cơ quan khoa học có liên quan tiến hành tổ chức điều tra khảo sát, xác định phạm vi mức độ có ô nhiễm và ảnh hưởng đến môi trường do hành vi gây ô nhiễm sông Thị Vải của Công ty Vedan. Ông Bùi Cách Tuyến, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cũng cho biết, bộ đã gửi văn bản đề nghị Công ty Vedan tạm ứng trước khoản kinh phí 10 tỷ đồng để tháo gỡ một phần khó khăn cho người dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu bị thiệt hại. Trước đó, ngày 18/5, Tổng cục Môi trường cũng đã có cuộc làm việc với Công ty Vedan và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để thống nhất phương án đề nghị doanh nghiệp này bồi thường thiệt hại cho người dân số tiền 53 tỷ đồng. Tuy nhiên, lãnh đạo Công ty Vedan chỉ đưa ra số tiền hỗ trợ cho nông dân Bà Rịa-Vũng Tàu là hơn 2 tỷ đồng.
Báo cũng cho biết: ngày 18-5, người phát ngôn Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cho biết sẽ ra phán quyết về đơn kiện đầu tiên do Việt Nam gửi lên tổ chức này liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá mà Mỹ áp đặt đối với các sản phẩm tôm đông lạnh của Việt Nam. Cơ quan giải quyết tranh chấp thuộc WTO đã thành lập Ban hội thẩm để giải quyết đơn kiện của Việt Nam.
Trong đơn kiện gửi WTO, Việt Nam khẳng định các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam đang phải đối mặt với mức thuế trừng phạt 4,13%-25,76%. Điều này là hết sức vô lý và gây thiệt hại lớn cho nhà xuất khẩu. Tại phiên họp cùng ngày của cơ quan giải quyết tranh chấp thuộc WTO, bà Trần Thị Thu Hằng, Phó Trưởng đại diện Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên Hiệp Quốc, WTO và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva, nêu rõ Việt Nam hoan nghênh cơ hội giải quyết vụ tranh chấp này và sẽ theo đuổi vụ kiện cho đến giai đoạn phúc thẩm nếu cần thiết.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Việt Nam trong nhóm tăng trưởng viễn thông cao nhất thế giới. Bài báo phản ánh: Nhận định trên do Liên minh Viễn thông quốc tế đưa ra tại Hội nghị viễn thông quốc tế Việt Nam 2010 diễn ra sáng 19-5 tại Hà Nội.
Tính đến tháng 4-2010, cả nước có 140 triệu thuê bao điện thoại, trong đó thuê bao di động chiếm 87%. Toàn quốc có 23,6 triệu người sử dụng Internet. Cùng với sự tăng trưởng đột biến của Internet băng rộng ADSL, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp bốn giấy phép thiết lập mạng cung cấp dịch vụ di động 3G góp phần phát triển thị trường băng rộng.
5. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 19-5, tại cuộc tọa đàm “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đồ chơi trẻ em” và “Gắn dấu CR đối với đồ chơi nhập khẩu”, nhiều ý kiến cho rằng, việc đánh giá và cấp dấu CR đối với đồ chơi trẻ em vô cùng khó khăn vì nhiều lý do. Ngay cả những đơn vị đã được cấp CR cũng rất lúng túng trong việc triển khai dán nhãn dấu CR trên các sản phẩm. Do vậy, nếu chiếu theo các văn bản pháp quy thì 100% đồ chơi trẻ em đang bày bán trên thị trường là chưa hợp chuẩn.
Được biết, kể từ ngày 15-4, các loại đồ chơi trẻ em sản xuất trong nước và nhập khẩu sẽ được kiểm soát chặt chẽ, phải có chứng nhận công bố và gắn dấu CR theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đồ chơi do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành mới được lưu hành.
6. Báo Hà Nội mới có bài Đổi mã thẻ quyền lợi BHYT: Nhiều vướng mắc. Bài báo phản ánh: Sau hơn một tháng thực hiện đổi mã thẻ quyền lợi cho người tham gia BHYT, các cơ quan BHXH quận, huyện thuộc Hà Nội rơi vào tình trạng quá tải. Số người đến cơ quan bảo hiểm để đổi thẻ thì nhiều nhưng số người được đổi lại không nhiều do vướng mắc trong quy định về người có công với cách mạng.
Theo phản ánh của nhiều cán bộ hưu trí, cán bộ lão thành cách mạng thì việc thực hiện đổi mã thẻ quyền lợi trên thẻ BHXH có quá nhiều điều kiện khắt khe. Thậm chí, nhiều loại huân, huy chương đã không được cơ quan BHXH chấp nhận đổi mã thẻ có quyền lợi cao hơn như thông báo. Ông Nguyễn Huy Nghị - Phó ban cấp sổ thẻ BHXH Việt Nam thừa nhận, thực tế đang có những vướng mắc và hiểu lầm khi triển khai đổi mã thẻ tại một số địa phương. Trong đó, vướng mắc chính nằm trong các quy định cụ thể về người có công tại Pháp lệnh Ưu đãi người có công và thực tế cuộc sống. Ông Nghị chỉ rõ, Pháp lệnh Ưu đãi người có công chỉ quy định nếu có một trong 4 loại huân, huy chương là: Huân chương Kháng chiến, Huân chương Chiến thắng, Huy chương Kháng chiến, Huy chương Chiến thắng thì mới được xếp là người có công và được đổi mã thẻ quyền lợi với mức hưởng chế độ cao nhất. Còn các loại huân, huy chương khác nhưng không được Pháp lệnh Ưu đãi người có công quy định sẽ không được xếp vào nhóm người có công. Đó là Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Quân công; Huân chương Chiến công, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao Vàng. "Những loại huân chương này rõ ràng cũng là sự ghi nhận công lao của những người tham gia kháng chiến nhưng theo quy định lại không được xếp vào đối tượng được đổi mã thẻ quyền lợi cao hơn".
Ông Nghị cho biết thêm, theo quy định, danh hiệu Anh hùng Lao động (AHLĐ) là người có công nhưng phải là AHLĐ thời kỳ kháng chiến, AHLĐ thời kỳ đổi mới lại không được. Con thương binh có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên mới được chấp nhận là thân nhân người có công, thương tật từ 81% trở xuống lại không được. Những người nhiễm chất độc hóa học thì con sẽ được xếp vào nhóm người có công nhưng người con đó phải nhiễm chất độc hóa học. Trường hợp khác, nhiều người tham gia kháng chiến thời kỳ 1979 có thể đạt nhiều danh hiệu khác nhau, có thể được trao tặng rất nhiều huân, huy chương cao quý khác nhưng cũng không được chấp nhận vì quy định chỉ được tính từ 19-8-1954 đến 30-4-1975. Để giải quyết những vướng mắc trên, ông Nghị cho biết, hiện nay tất cả những bất cập và vướng mắt đã được ghi nhận, tổng hợp để kiến nghị Chính phủ xem xét để sửa đổi mở rộng quyền lợi cho người tham gia BHYT.
Trước mắt, ông Nghị khẳng định: Nếu người có công không mang được 1 trong 4 loại huân, huy chương theo quy định đến cơ quan BHXH thì chỉ cần mang theo bản photo có công chứng các loại huân, huy chương trên. Nếu mất các loại huân, huy chương trên nhưng còn giấy chứng nhận cũng được chấp nhận. Với thương binh, nếu giấy chứng nhận và hồ sơ quân nhân không trùng khớp ngày/tháng/năm sinh chỉ cần đến cơ quan có thẩm quyền xác nhận là được chấp nhận. Trong trường hợp người có công đang trong thời gian chờ đợi lấy thẻ có mã quyền lợi mới hoặc chưa đổi mà phải nhập viện, người có công vẫn được giải quyết chế độ theo quy định chứ không phải đổi lúc nào thì được hưởng lúc đó. Trong trường hợp này, người bệnh chỉ cần xuất trình thẻ BHYT và các loại giấy tờ liên quan như huân, huy chương, giấy chứng nhận là cơ quan BHXH phải có trách nhiệm giải quyết theo quy định. Thậm chí, khi người dân đã thanh toán hết viện phí theo chế độ bình thường mà được xác nhận là người có công sẽ được cơ quan BHXH hoàn trả lại viện phí.
Như vậy, rõ ràng hiện nay vẫn còn một số vướng mắc trong thực hiện đổi mã thẻ quyền lợi cho cán bộ có công với cách mạng cần phải sửa đổi, bổ sung. Đây là việc làm cần thiết để người tham gia kháng chiến cũng như thân nhân người có công với cách mạng không bị thiệt thòi.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Hạn chế “cầm dấu công chứng đi dạo”?. Bài báo phản ánh: Trong khi đại diện các văn phòng công chứng (VPCC) mong muốn được làm việc 24/24 giờ, được công chứng ngoài trụ sở thì quan điểm của các nhà quản lý là phải siết lại việc này. Các đại biểu còn bàn về chuyện bảo hiểm trong công chứng, những quy định chưa hoàn thiện của dự thảo thông tư hướng dẫn thực hiện một số quy định của Luật Công chứng và Nghị định 02 (hướng dẫn thi hành một số điều của luật này) trong buổi tọa đàm ngày 19-5... Dự thảo thông tư quy định việc công chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề công chứng chỉ áp dụng trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại được; người đang bị tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác như bị đe dọa về tính mạng hoặc vì lý do sức khỏe không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng... Với những trường hợp này, người yêu cầu công chứng phải có đơn yêu cầu, ghi rõ lý do và công chứng viên sẽ xem xét và lưu trong hồ sơ công chứng. Cạnh đó, tổ chức hành nghề công chứng cũng phải làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước…
Đồng tình với dự thảo, bà Lê Thị Bình Minh, Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, cho rằng việc công chứng ngoài trụ sở có nhiều nguy hiểm. “Khi công chứng ngoài trụ sở, người dân phải “bồi dưỡng” cho công chứng viên tương đối lớn, đây là khoản tiền không thể kiểm soát được” - bà Minh nói.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính cho biết: Thực tế vì Luật Công chứng và nghị định hướng dẫn quy định không rõ nên có việc “cầm dấu công chứng đi dạo”. Công chứng một hợp đồng, giao dịch phải nghiên cứu, chuẩn bị và phải được thực hiện ở văn phòng để bảo đảm tính độc lập, công khai, minh bạch của việc chứng. Nếu công chứng ngoài trụ sở thì công chứng viên rất khó độc lập, sẽ có chuyện cạnh tranh không lành mạnh giữa các VPCC với các phòng công chứng và ngay cả giữa các VPCC với nhau…”. Tuy nhiên, Thứ trưởng Chính yêu cầu tổ biên tập phải nghiên cứu thêm để hoàn chỉnh quy định này. Một ý kiến yêu cầu phải giải thích rõ “vì lý do chính đáng khác” trong dự thảo để có thể công chứng ngoài trụ sở...
Tại cuộc tọa đàm, sự kiện trưởng VPCC Việt Tín chết để lại nhiều hậu quả pháp lý lại được các đại biểu xới lên. Trong khi dự thảo thông tư lại không đề cập đến việc khi công chứng viên duy nhất của VPCC chết sẽ giải quyết hậu quả pháp lý việc này thế nào. Trong dự thảo thông tư chỉ quy định việc Sở Tư pháp giải quyết về hồ sơ, tài liệu khi phòng công chứng giải thể hoặc VPCC chấm dứt hoạt động mà chưa đề cập đến trường hợp tương tự như của VPCC Việt Tín. Theo bà Trương Thị Nga - Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hà Nội, có thể vận dụng quy định “VPCC chấm dứt hoạt động” để giải quyết vấn đề của VPCC Việt Tín. Ngược lại, ông Phạm Thanh Cao, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp (Sở Tư pháp TP Hà Nội), lại cho rằng vụ việc chưa có kết luận điều tra nên không thể chấm dứt hoạt động của văn phòng. Về vấn đề này, Thứ trưởng Chính “khất nợ” thay thành viên tổ biên tập.
Trong việc mua bảo hiểm nghề nghiệp, công chứng viên Đào Nguyên Khải cho rằng các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hiện nay rất bất lợi cho công chứng viên và khách hàng. “Những vấn đề chúng tôi muốn thỏa thuận đều không được công ty bảo hiểm chấp nhận. Họ cho biết là đồng ý với các điều khoản của họ đưa ra thì ký, không thì thôi. Bộ Tư pháp cần làm việc với các công ty bảo hiểm để gỡ vấn đề này” - ông Khải nói. Hiện công ty bảo hiểm chỉ bồi thường đối với các khiếu kiện xuất phát từ việc VPCC vi phạm nghĩa vụ nghề nghiệp công chứng do hành vi bất cẩn, lỗi bất cẩn hoặc thiếu sót do bất cẩn…
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh điện tử có bài Nữ tỷ phú chống thi hành án để xù nợ. Bài báo phản ánh: Giám đốc Công ty TNHH Trung Nam 1 Nguyễn Thị Lài có khối tài sản gồm nhà, đất, vốn cổ phần trị giá hàng chục tỷ đồng. Lài có những “độc chiêu” trốn thi hành án gần 10 năm nhằm xù nợ hơn 8 tỷ đồng. Con nợ tỷ phú này được một số cán bộ thi hành án “thương” nên nhiều lần cho hoãn thi hành án khiến chủ nợ khóc ròng…
Năm 1996, ba mẹ con bà Nguyễn Thị Lài thành lập Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Trung Nam 1 (gọi tắt là Cty TN1), đặt tại số 129 Lê Hồng Phong, P3Q5, TPHCM. Trong số hai tỷ đồng vốn điều lệ, bà Lài góp 800 triệu, làm giám đốc; hai con là Mã Văn Phước và Mã Kim Cúc mỗi người góp 600 triệu. Ngày 15-11-2001, Cty TN1 thay đổi thành viên, bà Lài góp 1,4 tỷ đồng, con trai Mã Văn Lộc góp 600 triệu. Quá trình hoạt động, Cty TN1 được UBNDTP cho thuê, cấp giấy chứng nhận (sổ đỏ) hai khu đất 4.721m2 (ngày 6-12-1996) và 1.659m2 (ngày 25-6-1999) tại huyện Hóc Môn để làm nhà nghỉ công nhân và kho chứa hàng. Ngày 29-6-1999, Cty TN1 ký hợp đồng mua bột mì của Cty TNHH lương thực Thái Bình Dương (Cty TBD). Do Cty TN1 không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán nên Cty TBD kiện ra tòa. Hai bản án số 42/PTKT ngày 6-9-2001 của TAND tối cao và 976/DSPT ngày 18-6-2003 của TAND TPHCM buộc Cty TN1 phải trả cho Cty TBD 5,313 tỷ đồng.
Án có hiệu lực nhưng Cty TN1 không thi hành. Trong khi đó, ngày 27-2-2002 bà Lài ký chuyển nhượng khu đất 1.659m2 của Cty TN1 cho ông Lê Nhựt Yên. Cùng thời gian trên, bà Lài và Mã Văn Lộc góp vốn mỗi người 1 tỷ đồng vào Công ty TNHH Thanh Tân (ở xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương). Ngày 21-7-2002, bà Lài làm Chủ tịch HĐQT, Mã Văn Lộc giữ chức Giám đốc Cty Thanh Tân. Đổi chủ, Thanh Tân cũng thay tên thành Công ty TNHH công nghiệp thực phẩm Thuận An (Cty Thuận An). Các thành viên trong Cty Thuận An lập tức chuyển toàn bộ vốn góp của mình cho bà Lài và ông Lộc. Cty Thuận An có vốn điều lệ 6,2 tỷ đồng; trong đó bà Lài góp 51,6%, ông Lộc góp 48,4%. Đến ngày 20-7-2004 Cty Thuận An tăng vốn điều lệ lên 9,5 tỷ đồng và kết nạp thêm thành viên mới là Mã Văn Phước (góp 3 tỷ đồng).
Liên quan đến khu đất 4.721m2 tại Hóc Môn, Cty TN1 sử dụng làm tài sản bảo lãnh cho Cty Thuận An thế chấp vay gần 2,9 tỷ đồng. Thế nhưng ngày 31-12-2004, Giám đốc Cty TN1 Nguyễn Thị Lài ký bán khu đất này cho Cty Thuận An (do Mã Văn Lộc làm đại diện) với giá chỉ 450 triệu đồng! Cty Thuận An lập tức “bơm” vốn điều lệ lên 17 tỷ đồng. Đến tháng 11-2005, Thuận An đổi thành Cty TNHH bột mì Trung Nam (Cty Trung Nam) do Mã Văn Phước làm tổng giám đốc. Tháng 4-2006 Cty Trung Nam tiếp tục “bơm” vốn lên 27 tỷ đồng (bà Lài góp 11 tỷ, hai con Phước - Lộc mỗi người góp 8 tỷ). Dụng chiêu “ve sầu thoát xác”, bà Lài và con trai lần lượt chuyển toàn bộ tài sản của Cty TN1 vào Cty Trung Nam nhằm trốn tránh thi hành án (THA).
Hành vi cố ý trốn tránh THA của mẹ con bà Lài (thành viên Cty TN1) càng lộ rõ hơn qua vụ kiện đòi Cty TBD trả lại giấy chủ quyền nhà 129 Lê Hồng Phong P3Q5. Ngày 29-6-1999 bà Lài ký giấy thế chấp nhà 129 Lê Hồng Phong trị giá 2,4 tỷ đồng cho Cty TBD. Hợp đồng thế chấp được Phòng công chứng số 2 chứng nhận ngày 3-7-1999, thể hiện: “Bên A là bà Nguyễn Thị Lài (chủ nhà 129 Lê Hồng Phong) đồng ý cho bên B là Cty TN1 (do Nguyễn Thị Lài đại diện) thế chấp nhà 129 Lê Hồng Phong cho bên C là Cty TBD để đảm bảo thực hiện Hợp đồng kinh tế 29/6/HĐKT-99... Bên A đồng ý cho bên C phát mãi căn nhà trên để bù đắp thiệt hại do bên B gây ra và cam kết không khiếu nại”. Ngoài giấy tờ căn nhà trên, Cty TBD còn giữ giấy tờ nhà 204 Hàm Tử, Q5 (do Mã Văn Lộc đứng tên sở hữu).
Như Báo CATP đã phản ánh, sau khi bản án buộc Cty TN1 trả nợ có hiệu lực, ngày 24-9-2001 Cơ quan THA dân sự TPHCM ra quyết định THA. Từ tháng 7-2002 đến tháng 7-2003 chấp hành viên Bùi Đức Đương ký hàng loạt QĐ cưỡng chế, kê biên, bán căn nhà 129 Lê Hồng Phong để THA (được định giá ngày 4-6-2003 là 781 lượng vàng SJC). Thay vì bán nhà trả nợ, bà Lài và con trai lại khởi kiện đòi Cty TBD trả giấy tờ nhà. TAND tỉnh Bình Dương ra bản án làm “toại nguyện” hai mẹ con tỷ phú. “Quên” mình là con nợ tiền tỷ, mẹ con bà Lài khiếu nại đề nghị THA, buộc chủ nợ giao trả giấy tờ nhà. Phía Cty TBD sẵn sàng giao lại giấy tờ hai căn nhà với điều kiện mẹ con bà Lài (là thành viên góp vốn của Cty TN1) phải thi hành hai bản án, trả cho Cty TBD 5,313 tỷ đồng và lãi phát sinh. Giám đốc Cty TBD Diệp Thị Kim Mai kể: “Cty TBD giữ giấy tờ hai căn nhà để buộc Cty TN1 trả nợ nhưng chấp hành viên Trần Bá Ngọc yêu cầu giao trả cho mẹ con bà Lài để có cơ sở thi hành hai bản án. Nhận lại giấy tờ nhà từ giữa năm 2007, mẹ con bà Lài “lặn” luôn đến nay, không chịu THA số tiền hơn 8 tỷ đồng cả vốn và lãi...”.
Kể từ lúc hai bản án có hiệu lực, Cty TN1 vẫn hoạt động bình thường, có đủ điều kiện và dư khả năng để THA. Các thành viên của Cty TN1 là mẹ con bà Lài làm chủ nhiều căn nhà mặt tiền tại TPHCM trị giá hàng nghìn lượng vàng. Mẹ con bà Lài không hề giấu giếm khối tài sản kếch sù nhưng lại chống THA tới cùng để xù nợ Cty TBD suốt gần mười năm.
3. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Luật mâu thuẫn, người dân mất quyền khởi kiện. Bài báo phản ánh: Theo quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005 (viết tắt Luật KN-TC), trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại (KN) lần hai, người KN có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cá nhân, tổ chức đã không được thực hiện quyền của mình.Khi chợ phường Cầu Kho (chợ Nancy) bị giải tỏa để thực hiện dự án xây dựng cầu, đường Nguyễn Văn Cừ, bà Ngô Mỹ Ngọc (ngụ 24/2A Nguyễn Văn Cừ phường Cầu Kho quận 1) là một trong những tiểu thương kinh doanh ở chợ bị ảnh hưởng.
Theo Quyết định (QĐ) số 528/QĐ-UBND ngày 19-3-2009 của UBND quận 1, hai sạp hàng số 40B và 41B của bà được hỗ trợ di dời với số tiền 42 triệu đồng. Cho rằng khoản tiền này quá thấp, bà Ngọc làm đơn KN, yêu cầu Nhà nước và chủ đầu tư phải bồi thường cho bà tổng số tiền 1,4 tỷ đồng. Vụ việc của bà được giải quyết KN lần đầu bằng QĐ số 1855/QĐ-UBND ngày 13-7-2009 của UBND quận 1 và được giải quyết KN lần hai bằng QĐ số 5482/QĐ-UBND ngày 30-11-2009 của UBND TPHCM. Cả hai QĐ trên đều không chấp thuận yêu cầu bồi thường 1,4 tỷ đồng của bà. Sau đó, bà làm đơn khởi kiện vụ án hành chính ra TAND TPHCM, đề nghị tòa án hủy bỏ QĐ số 5482/QĐ-UBND của UBND TPHCM. Thế nhưng, vào ngày 24-12-2009, tòa án ra thông báo trả đơn khởi kiện với lý do: “QĐ số 5482/QĐ-UBND là QĐ giải quyết KN lần hai nên vụ kiện của bà không là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”!
Bà Nguyễn Ngọc Rớt (ngụ 190/23 đường Xóm Đất phường 10 quận 11) cũng bị tòa án từ chối thụ lý đơn kiện tương tự trường hợp của bà Ngọc. Năm 2006, khi bị Nhà nước giải tỏa mảnh đất có diện tích 365m² ở thị trấn Tân Túc huyện Bình Chánh để thực hiện dự án đầu tư xây dựng khu trung tâm hành chính huyện, bà chỉ được bồi thường hơn 92 triệu đồng. Trong khi đó, vào năm 2002, bà đã phải bỏ ra 200 triệu đồng – tương đương 42 lượng vàng SJC – để mua mảnh đất này. Do vậy, bà làm đơn KN, yêu cầu được nâng giá đền bù, được giải quyết mua một nền nhà theo giá quy định của Nhà nước hoặc được giải quyết bố trí tái định cư. Ngày 3-1-2007, UBND huyện Bình Chánh ra QĐ số 17/QĐ-UBND giải quyết KN lần đầu. Ngày 12-9-2007, UBND TPHCM ra QĐ số 4118/QĐ-UBND giải quyết KN lần hai. Vì 2 QĐ này đều bác nội dung KN nên bà Rớt gửi đơn khởi kiện đến TAND TPHCM. Với cùng lý do vụ kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết, ngày 22-10-2007 tòa án ra thông báo trả đơn khởi kiện.
Những vụ việc bị tòa án từ chối thụ lý như trên không phải là ít. Tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp cuối tháng 4-2010 vừa qua, báo cáo về thực trạng KN hành chính liên quan đến đất đai trên địa bàn TPHCM, Phó Chánh Thường trực Thanh tra TPHCM Hoàng Đức Long cho biết: “Trong 3 năm 2007, 2008, 2009 UBND TPHCM ban hành 737 QĐ giải quyết KN lần hai liên quan đến lĩnh vực đất đai. Không đồng ý với QĐ giải quyết KN lần hai, đương sự trong 288 trường hợp khởi kiện vụ án hành chính. Tuy nhiên, những trường hợp này không được tòa án thụ lý”. Lý do là theo quy định của Luật KN-TC, sau khi có QĐ giải quyết KN lần hai, người KN vẫn có quyền khởi kiện ra tòa án. Trong khi đó, theo quy định tại Luật Đất đai và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, người KN chỉ có quyền khởi kiện ra tòa án trong trường hợp chưa KN lần hai lên cơ quan hành chính cấp trên. Sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật này đã khiến 288 trường hợp khởi kiện QĐ giải quyết KN lần hai ở TPHCM (tính chung cả nước là gần 2.000 trường hợp) bị “treo” nhiều năm qua.
Để giải quyết tình trạng này, Bộ Tư pháp đang xây dựng “Nghị quyết giải thích việc KN, khởi kiện và việc giải quyết KN, khởi kiện về đất đai quy định tại Luật KN-TC, Luật Đất đai và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính” trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Dự thảo nghị quyết nêu rõ: Người KN QĐ hành chính về quản lý đất đai đã được chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết KN lần đầu và được chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết KN lần hai mà không đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án để được giải quyết; phạm vi khởi kiện là nội dung của QĐ giải quyết KN lần hai. Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi cho người dân, nhiều ý kiến đóng góp dự thảo cho rằng thời hiệu không nên tính từ ngày nghị quyết được ban hành mà nên lấy thời điểm từ ngày 1-6-2006 (ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KN-TC năm 2005 có hiệu lực thi hành), như vậy mới công bằng với những trường hợp đang bị “treo” nhiều năm qua.