Trong buổi sáng ngày 29/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh cóa bài Việt Nam sẽ bàn với Trung Quốc về sông Mekong. Bài báo phản ánh: từ ngày 4 đến 5-4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ sang Thái Lan dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế. Đây là hội nghị đầu tiên đánh dấu 15 năm Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mekong giữa bốn quốc gia hạ lưu sông Mekong là Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Hội nghị có sự tham gia của đại diện lãnh đạo cấp cao Trung Quốc, nước ở thượng nguồn sông Mekong. Bên lề hội nghị, dự kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ có tiếp xúc song phương với bộ trưởng Bộ Tài nguyên nước của Trung Quốc nhằm tăng cường hợp tác đối thoại, chia sẻ thông tin, số liệu không chỉ tình hình sông Mekong mà cả các vấn đề khác liên quan đến tài nguyên nước. Theo kế hoạch, bốn năm một lần, hội nghị sẽ được tổ chức, nước chủ nhà luân phiên theo chữ cái. Việt Nam sẽ là chủ nhà của hội nghị này vào năm 2014.
2. Báo Tiền phong có bài Thủ tướng chỉ đạo giải quyết khiếu nại của gia đình nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp. . Bài báo phản ánh: Ngày 15/03/2010, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 1623 “Về việc giải quyết khiếu nại của gia đình ông Lê Minh Châu”. Nội dung chính như sau: “Đơn, thư của gia đình đồng chí Lê Minh Châu (trú tại 209, ấp Hòa Thuận, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) khiếu nại việc UBND thị xã Sa Đéc có quyết định số 366/QĐ.UB-NĐ ngày 11-6-2002 thu hồi 1.406,42 m2 đất của gia đình để cấp cho ông Nguyễn Ngọc Bách. Về việc này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến chỉ đạo như sau: Giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ TN-MT và UBND tỉnh Đồng Tháp kiểm tra, xác minh làm rõ khiếu nại của gia đình ông Lê Minh Châu, kiến nghị biện pháp giải quyết đúng quy định của pháp luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý II năm 2010”. Ông Lê Minh Châu nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp nhận sổ nghỉ hưu ngày 28-8-2001, thương binh hạng 3/4 và vợ ông, bà Ngô Thị Thu là thương binh hạng 2/4. Chưa đầy 10 tháng sau khi nghỉ hưu, đất của ông bị UBND thị xã Sa Đéc vô cớ lấy cấp cho ông Nguyễn Ngọc Bách, một người dân, để ông này bán 800 triệu đồng rồi xuất cảnh ra nước ngoài sinh sống. Gia đình ông Châu khiếu nại, ngày 2-1-2003 UBND TX Sa Đéc mới có quyết định bồi thường 63.757.084 đồng.
3. Trang điện tử vietnamnet có bài Sữa tranh thủ tăng giá 'chạy trước' chính sách. Bài báo phản ánh: Trong những tháng đầu năm nay, giá sữa lại tiếp tục tăng và dự kiến sẽ tăng lên nữa trong thời gian tới. Trong khi đó, cơ chế quản lý giá sữa đã được chuẩn bị cả năm nay vẫn chưa ra đời.
Trước Tết, giá sữa đã tăng, hầu hết các hãng sữa đã tăng giá với mức trung bình 7-10%. Không dừng lại ở đó, trong tháng 3/2010, các hãng sữa lại tăng thêm từ 8-10%. Giải thích nguyên nhân tăng giá, các hãng sữa cho biết, giá thế giới tăng khiến giá sữa trong nước khó tránh khỏi một chu kỳ tăng giá mới. Trong đợt tăng giá mới, sữa bột Pediasure có giá mới lên 260.000 đồng/hộp loại 900g (tăng 15.000 đồng/hộp). Sữa nhãn hiệu Dumex loại dành cho trẻ từ 1 đến 3 tuổi lên 165.000 đồng/hộp loại 400g (tăng 13.000 đồng/hộp). Sữa Meizi số 1 lên 362.000 đồng/hộp loại 900g, số 2 lên 344.300 đồng/hộp loại 900g. Sữa bột nhãn hiệu Milax của Đan Mạnh cũng tăng lên 356.000 đồng/hộp loại 900g... Trước đó, nhiều hãng sữa như: Abbott, EnfaA+, Friso,… đã đồng loạt tăng giá bán từ 15-20 nghìn đồng/hộp loại 900g (tương đương 7-10%). Các loại sữa nước, sữa bột và sữa chua, sữa tươi, sữa đặc có đường… bán lẻ trên thị trường cũng tăng thêm 8-12%. Theo phản ánh của các cửa hàng, đại lý bán buôn và bán lẻ, mấy tháng gần đây, hầu như tháng nào cũng có vài loại sản phẩm sữa tăng giá. Đặc biệt, có hãng chỉ hơn 1 tháng đã tăng giá đến 2 lần với mức tăng tới 14%.
Bà Phan Hồng Liên – Chuyên gia phân tích thị trường Công ty AgroMonitor - nhận định: trong bối cảnh xu hướng tăng cao của giá thế giới, giá sữa trong nước năm 2010 cũng sẽ tăng trong vòng từ 12-17% so với mức trung bình năm 2009. Theo bà Liên, có ba nguyên nhân đẩy giá sữa tăng cao, xu hướng tăng mạnh của giá sữa thế giới vào cuối năm 2009; giá thức ăn chăn nuôi tăng mạnh và thị trường đường trong nước cũng như thế giới đang lâm vào tình trạng mất cân đối cung cầu, đẩy giá mặt hàng này lên mức cao kỷ lục trong hơn 20 năm qua. Ngoài ra, trong năm 2010, tỷ giá VND/USD sẽ còn tiếp tục biến động, gây tác động tiêu cực đến giá sữa nhập khẩu.
Ông Hoàng Kim Giao, Cục trưởng Cục Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho rằng, giá sữa năm 2010 sẽ tăng trong khoảng 10%. Giá sữa trong thời gian tới sẽ tăng khi mà giá điện, than, nước đồng loạt tăng giá, các chi phí chăn nuôi tăng.
Trong khi giá sữa liên tiếp tăng thì quy định về quản lý giá sữa được Bộ Tài chính soạn thảo cả năm nay vẫn chưa thể ra đời. Thậm chí, qua các đợt thanh tra giá sữa, Bộ Tài chính đã xác định được tất cả các cơ cấu giá thành, phân tích được các điểm bất hợp lý trong giá sữa nhưng vẫn chưa có cách nào để quản lý, hạn chế tăng giá. Cách duy nhất là khuyến cáo các DN giảm bớt chi phí để hạn chế tăng giá đã không có hiệu quả. Cuối năm 2009, sau nhiều lần rà soát và thừa nhận các quy định hiện nay đều không thể quản lý nổi giá sữa, Bộ Tài chính đã tính đến việc sửa các quy định về quản lý giá để kiểm soát giá sữa. Theo đó, Cục Quản lý giá - Bộ Tài chính được giao sửa đổi Thông tư 104 về quản lý giá thị trường. Tuy nhiên, sau nhiều lần hứa hẹn, đến nay thông tư này vẫn chưa được ban hành. Còn các hãng sữa vẫn tăng giá trước sự bất lực của cơ quan quản lý.
Mới đây, Bộ Tài chính cho biết, thông tư mới sẽ được ban hành trong tháng 3/2010. Sau khi hoàn tất việc sửa đổi thông tư này, nhiều sản phẩm sữa sẽ phải giảm giá. Cục Quản lý giá cho biết thêm, việc quản lý giá mặt hàng sữa trên thị trường hiện do Bộ Công Thương giám sát. Vì vậy, bộ phận quản lý thị trường của bộ này có trách nhiệm kiểm tra việc niêm yết giá và kiểm tra việc bán hàng theo đúng giá niêm yết. Trong khi chờ quy định mới, Bộ Tài chính đã thông báo các giải pháp kiềm chế tăng giá, trong đó nhấn mạnh việc quản lý giá sữa. Tuy nhiên, tất cả mọi biện pháp đều chưa tỏ ra hiệu quả, giá sữa vẫn tăng, người dân chịu thiệt còn cơ quan quản lý vẫn tỏ ra chậm chạp trước việc tăng giá của loại hàng hoá thiết yếu này.
4. Báo Hà Nội Mới có bài Khoảng 5 triệu người phải quyết toán thuế TNCN trước ngày 31-5-2010. Bài báo phản ánh: (HNM) - Tổng cục Thuế cho biết, do nửa đầu năm 2009, các đối tượng được miễn thuế TNCN nên đơn vị chi trả thu nhập sẽ kê khai quyết toán thuế đối với các khoản thu nhập không được miễn thuế TNCN phát sinh từ ngày 1-7 đến 31-12-2009.
Theo Tổng cục Thuế, sẽ có khoảng 5 triệu người phải quyết toán thuế thu nhập cá nhân (TNCN) trước ngày 31-5-2010. Tổng cục Thuế cho biết, do nửa đầu năm 2009, các đối tượng được miễn thuế TNCN nên đơn vị chi trả thu nhập sẽ kê khai quyết toán thuế đối với các khoản thu nhập không được miễn thuế TNCN phát sinh từ ngày 1-7 đến 31-12-2009.
Theo quy định, khoản tiền thưởng, tiền công, tiền lương của năm 2009, nhưng chi trả sau ngày 31-12-2009 thì không được miễn thuế. Đối với thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chứng khoán, bản quyền... nếu khoản thu nhập được chi trả trước ngày 1-7 thì thuộc diện miễn thuế và đơn vị chi trả không phải kê khai quyết toán thuế. Trường hợp chi trả thu nhập này sau ngày 30-6-2010 thì đây là những khoản thu nhập phải chịu thuế... Các cơ quan thuế địa phương đang khẩn trương hỗ trợ các đơn vị chi trả thu nhập triển khai quyết toán thuế TNCN năm 2009. Cục Thuế Hà Nội đã thành lập một bộ phận hỗ trợ trả lời trực tiếp giải đáp vướng mắc về thuế TNCN qua các điện thoại: 3.5123404; 3.5123405; hoặc gọi qua tổng đài: 3.5123636 sau đó gọi các số máy lẻ: 3119; 3121; 3123. Đơn vị cũng thành lập Tổ hỗ trợ giải đáp trực tiếp tại các cơ quan chi trả thu nhập nếu có nhu cầu.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ có bài Hết thời hiệu khởi kiện thừa kế: Rối khi chia di sản. Bài báo phản ánh: Để giải quyết tranh chấp di sản sau khi đã hết thời hiệu khởi kiện thừa kế, TAND Tối cao hướng dẫn các tòa thụ lý yêu cầu phân chia theo dạng chia tài sản chung…Thực tế áp dụng vẫn phát sinh vướng mắc. Nhiều chuyên gia cho rằng nên bỏ hẳn hướng dẫn này vì vô hiệu hóa thời hiệu khởi kiện. Theo quy định, thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, tức sau thời hạn này, đương sự sẽ mất quyền khởi kiện và có tranh chấp thì tòa cũng không xem xét.
Vì nhiều lý do, không ít vụ tranh chấp di sản thừa kế chỉ phát sinh sau khi đã hết thời hiệu khởi kiện. Vì thế, ngày 10-8-2004, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 02 (hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình). Theo đó, khi hết thời hiệu khởi kiện thừa kế mà các đồng thừa kế có yêu cầu nhờ tòa chia giúp khối di sản thì tòa vẫn thụ lý, giải quyết nếu các đồng thừa kế có văn bản cam kết di sản là tài sản chung chưa chia, không có tranh chấp về hàng thừa kế và nhờ tòa phân chia giúp.
Thực tiễn đã có không ít trường hợp được giải quyết êm xuôi nhờ Nghị quyết 02. Nhưng ngược lại, hiện cũng đang có rất nhiều vụ việc bị ách tắc chỉ vì một nguyên nhân đơn giản: Một bên đương sự (thông thường là người quản lý, chiếm hữu di sản) không chịu thừa nhận đó là tài sản chung và không yêu cầu tòa phân chia giúp. Chẳng hạn như trường hợp của anh Đ. Cha mẹ anh có tất cả tám người con. Hai cụ mất trước năm 1985, không để lại di chúc, chỉ để lại một căn nhà trên đường Lê Lai, quận Gò Vấp (TP.HCM). Sau đó, người anh cả đại diện các đồng thừa kế quản lý, sử dụng căn nhà. Rồi ông này tự tiến hành khai nhận di sản với tư cách đại diện thừa kế duy nhất để chiếm trọn 600 triệu đồng tiền đền bù giải tỏa nhà. Phát hiện ra sự việc, tháng 2-2009, bảy anh em anh Đ. làm đơn gửi công an tố cáo người anh lừa đảo nhưng nơi này từ chối xem xét vì cho rằng đây chỉ là quan hệ dân sự. Hai tháng sau, bảy anh em anh Đ. khởi kiện người anh ra TAND quận 12, nơi người anh đang cư trú. Tại đây, cán bộ tòa hướng dẫn cho họ biết là thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết, giờ chỉ còn cách yêu cầu tòa chia tài sản chung. Dĩ nhiên là sau đó bảy anh em anh Đ. và tòa cũng đành chào thua vì người anh không chịu nhìn nhận căn nhà cha mẹ để lại là tài sản chung chưa chia.
Để tháo gỡ vướng mắc này đã phát sinh hai luồng quan điểm khác nhau. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao phải sửa đổi hướng dẫn theo hướng tòa án phải thụ lý, giải quyết yêu cầu chia tài sản chung nếu các đồng thừa kế chứng minh được đó là di sản mà họ có phần thừa kế và không có tranh chấp về hàng thừa kế. Ngược lại, luồng quan điểm thứ hai được nhiều người đồng tình hơn là nên bỏ hẳn hướng dẫn về việc chia tài sản chung. Cụ thể, sau khi đã hết thời hiệu khởi kiện thừa kế, tòa sẽ không thụ lý, giải quyết bất cứ một yêu cầu phân chia di sản nào nữa.
Theo Ths Nguyễn Xuân Quang (giảng viên Trường ĐH Luật TP.HCM), luật đặt ra thời hiệu khởi kiện nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của đương sự nhưng cũng bảo vệ lợi ích công cộng. Nếu thời hiệu khởi kiện này bị kéo dài không cần thiết sẽ làm xáo trộn các lợi ích xã hội khác. Thời hiệu để khởi kiện thừa kế là 10 năm thì người dân phải có ý thức thực hiện trong khoảng thời gian đó, nếu không, xem như đã tự từ bỏ quyền của mình và phải tự gánh chịu thiệt thòi, bất lợi (nếu có). Đồng tình, thẩm phán N. (TAND TP.HCM) và luật sư Nguyễn Thị Dung (Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Kon Tum) cũng nhận xét việc “biến tướng” tranh chấp di sản đã hết thời hiệu khởi kiện thành chia tài sản chung chẳng khác nào góp phần làm vô hiệu thời hiệu khởi kiện thừa kế mà luật đã định. Vì vậy, nên cương quyết bỏ hẳn chuyện chia tài sản chung này.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài Vướng mắc trong công tác giám định sở hữu trí tuệ. Bài báo phản ánh: Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ hiện nay đã và đang khẳng định vai trò là yếu tố cơ bản tạo nên thương hiệu, giá trị và tính cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp. Trên thực tế, loại tài sản vô hình này đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp không chỉ ở các nước trên thế giới nói chung và tại nước ta nói riêng. Chính vì vậy, trong bối cảnh khi Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào các khu vực, các diễn đàn kinh tế như WTO, APEC, AFTA, ASEEM… thì vấn đề thực thi và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ càng trở nên cấp thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp, các chủ thể quyền mà còn trực tiếp đối với các cơ quan quản lý, các cơ quan thực thi pháp luật trong việc phát hiện, đấu tranh phòng chống các hành vi xâm phạm các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
Từ thực tế công tác đấu tranh phòng chống các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của các lực lượng chức năng, trong đó chủ công là lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế cho thấy, hiện nay các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ rất phong phú đa dạng, nhưng tập trung chủ yếu ở các hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp, giả mạo nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, sao chép và cài đặt bất hợp pháp các loại phần mềm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình điều tra, xử lý đối với các hành vi xâm phạm này thì một vấn đề đặt ra cho các cơ quan điều tra là việc xác định chứng cứ thông qua hoạt động giám định sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, mặc dù các quy định của pháp luật hiện nay về hoạt động giám định sở hữu trí tuệ tương đối đầy đủ, nhưng có thể thấy vẫn còn một số vấn đề tồn tại, vướng mắc từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan chức năng. Chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động điều tra, xử lý các hành vi xâm phạm và người vi phạm. Xem xét các đối tượng cụ thể thì giám định sở hữu trí tuệ là một nội dung của hoạt động giám định tư pháp, do người giám định tư pháp thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phục vụ cho việc giải quyết các vụ án. Theo quy định tại Điều 7 - Pháp lệnh Giám định tư pháp thì: Người giám định tư pháp bao gồm: Giám định viên tư pháp và Người giám định tư pháp theo vụ việc. Do đó, đối chiếu với các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị định 105/2006/NĐ-CP thì không đề cập đến “Người giám định theo vụ việc”.
Những người không phải là giám định viên tư pháp nhưng có đủ các điều kiện về phẩm chất đạo đức, năng lực hành vi dân sự, đặc biệt có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực cần giám định và có uy tín trong lĩnh vực đó thì có thể được trưng cầu thực hiện giám định theo vụ việc. Như vậy, rõ ràng trong các quy định của pháp luật hiện nay đã có những điểm không thống nhất và chính điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động điều tra, xử lý các hành vi xâm phạm của các cơ quan chức năng.
Đối với quyền sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực có nhiều đối tượng khác nhau như: Quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả và các quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền đối với giống cây trồng. Tuy nhiên, khi xảy ra các hành vi xâm phạm đến các đối tượng này, khi có yêu cầu trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ phục vụ điều tra thì cơ quan điều tra gặp phải những khó khăn nhất định. Theo báo cáo của Cục Sở hữu trí tuệ thì hiện nay mới chỉ có Viện Khoa học sở hữu trí tuệ là tổ chức được cấp phép đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp và một số cá nhân được cấp Thẻ giám định viên SHCN. Như vậy, đối với các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ thì chưa có các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc thành lập và hoạt động của các tổ chức và cá nhân giám định về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực đó. Do vậy, sẽ là một trở ngại và khó khăn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trưng cầu giám định đối với các đối tượng khác ngoài quyền sở hữu công nghiệp. Đặc biệt, trong khi chưa có các quy định bổ sung về người giám định theo vụ việc trong hoạt động giám định sở hữu trí tuệ.
Theo số liệu báo cáo của Bộ Khoa học Công nghệ thì cả nước mới có 4 người được cấp thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp, còn các đối tượng khác như quyền tác giả, quyền đối với giống cây trồng thì vẫn chưa có cán bộ nào được cấp thẻ giám định viên. Như vậy với số lượng đội ngũ giám định viên còn hạn chế như vậy thì không thể đáp ứng được yêu cầu của thực tế, đặc biệt trong bối cảnh tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp đang diễn biến phức tạp như hiện nay. Chính điều này đã ảnh hưởng tới hiệu quả của quá trình điều tra, xử lý các vụ việc có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của các lực lượng chức năng. Giám định sở hữu trí tuệ là một hoạt động phức tạp đòi hỏi đội ngũ giám định viên bên cạnh trình độ chuyên môn và kiến thức chuyên sâu về đối tượng giám định thì cần thiết phải có trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho quá trình giám định.
Ngoài ra, do nhiều đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ có tính đặc thù cao như các đối tượng của quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các chương trình phần mềm, các giống cây trồng mới, các nhãn hiệu hàng hóa tương tự gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng… nên hiện nay trong hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ nếu thiếu các trang thiết bị, máy móc, phương tiện phục vụ cho công tác này sẽ hạn chế lớn đến kết quả giám định của các giám định viên.
3. Báo Hà Nội mới có bài Tập đoàn kinh tế tư nhân: Cần môi trường hơn mô hình. Bài báo phản ánh: Vấn đề tập đoàn kinh tế tư nhân đang được nhiều doanh nhân, nhà quản lý và chuyên gia kinh tế đưa ra bàn luận trong thời gian gần đây. Thiết lập một mô hình với các tiêu chí sẵn có hay tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp trên con đường vươn lên thành các tập đoàn theo quy luật kinh tế thị trường là hai phương án được quan tâm nhiều nhất.
Theo ông Phan Đức Hiếu, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, hiện nay không có một khái niệm thống nhất về tập đoàn ở các quốc gia và giữa các ngành luật trong cùng một quốc gia. Đa số không định nghĩa thế nào là tập đoàn mà chỉ có định nghĩa về công ty con. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về tập đoàn. Nhìn chung, pháp luật dừng lại ở việc quy định chế tài, theo đó coi tập đoàn như một định chế và không có hướng dẫn thành lập, tổ chức. Tập đoàn là “tập hợp” hoặc “nhóm” công ty chứ không phải là một thực thể độc lập. Các công ty trong nhóm thường có mối quan hệ chặt chẽ (chi phối sở hữu hoặc quản lý). Trên thực tế, tập đoàn không hình thành một lúc mà là cả một quá trình, bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, tập quán kinh tế… Tại các quốc gia trên thế giới, sự hình thành và phát triển tập đoàn không cần phải chờ quy định pháp luật mà xuất phát từ bản thân nhu cầu phát triển kinh tế. Hiện chỉ có 3 nước có quy định riêng điều chỉnh tập đoàn là Đức, Bồ Đào Nha và Braxin.
Cũng theo ông Hiếu, Luật Doanh nghiệp đã đề cập đến khái niệm tập đoàn nhưng không rõ ràng và nếu theo suy luận thông thường thì nhóm công ty bằng tập đoàn, tập đoàn bằng công ty mẹ - con và bằng tổ hợp kinh doanh có hai cấp doanh nghiệp. Chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển tập đoàn chưa rõ… Từ thực tế kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới - việc hình thành và phát triển tập đoàn không cần phải chờ quy định pháp luật (bản chất kinh tế) - các chính sách chỉ nên tập trung định hướng sự phát triển và cách thức tổ chức tập đoàn.
Việc “đầu tư” tập đoàn sẽ tạo sức bật rất lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Theo ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn FPT, Việt Nam phải có những doanh nghiệp có quy mô có thể so sánh được với thương hiệu lớn như Sony, Samsung, Hyundai… Nếu không, Việt Nam không thể có vị trí cao trên thị trường thế giới. Tập đoàn FPT được cho là lớn so với số đông doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam, nhưng quá bé so với tiêu chuẩn doanh nghiệp lớn của thế giới. Thời gian đầu khi FPT đi tiếp thị sản phẩm phần mềm mở, nước ngoài đối tác đưa ra câu hỏi khá bất ngờ: “Ở nước ông có điện không?”. Mình đi tiếp thị phần mềm mà họ lại hỏi có điện không? Nhưng điều đó khá lôgíc bởi trong con mắt của họ, Việt Nam vẫn là một nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa có những công ty với thương hiệu lớn mạnh - ông Bình kể lại, đồng thời đánh giá là các quy định của Luật Doanh nghiệp đã đủ để các doanh nghiệp lớn lên, tích tụ, liên kết thành tập đoàn nhưng là dành cho khu vực nhà nước. Tuy nhiên, đối tượng này... to và cồng kềnh, không biết cơ cấu, còn doanh nghiệp tư nhân không có những vấn đề đó.
Ông Nguyễn Mạnh Cường, Tổng Thư ký Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam cho biết, hiện tại, Trung ương Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam đang gấp rút xây dựng dự thảo về mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân. Trong đó tập trung vào 3 vấn đề chính: Kinh nghiệm quốc tế, những đặc trưng của kinh tế Việt Nam và vai trò các tác nhân có liên quan (Nhà nước, doanh nghiệp và hội). Mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới rất đa dạng. Ở Mỹ và châu Âu, thông thường tập đoàn kinh tế tư nhân được hình thành thông qua quá trình sáp nhập hoặc mở rộng. Các nước Nhật Bản, Trung Quốc hay Hàn Quốc, do phát triển sau nên họ không đi lại con đường dài như của Hoa Kỳ hay châu Âu. Họ có sự “dẫn dắt” của nhà nước để các tập đoàn đi đúng quy luật thị trường, phát triển nhanh hơn. Vai trò của nhà nước là xây dựng khung pháp luật, các thể chế, chính sách thúc đẩy tập đoàn kinh tế phát triển.
Theo ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Phú Thái, một trong những hướng đi thích hợp trong điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể liên doanh với tập đoàn nhà nước để rút ngắn đường đi. Cổ phần hóa, với sự tham gia của các tư nhân, với mức vốn nhà nước có thể chiếm ưu thế trong những lĩnh vực nhà nước chi phối thì có thể giải được bài toán khai thác thế mạnh, nguồn lực hiệu quả và vẫn bảo đảm kiểm soát nhà nước trong những lĩnh vực then chốt.
Ông Lê Phước Vũ, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn Hoa Sen đề nghị dùng từ tập đoàn kinh tế đại chúng thay vì tư nhân để rõ nghĩa hơn bản chất của tập đoàn kinh tế trong khu vực tư nhân. Hiệu quả, lợi ích của tập đoàn kinh tế mang bản chất đại chúng sẽ khác nhiều so với chỉ của một ông chủ. Khi đó, cách ứng xử của chính sách, của Chính phủ cũng theo hướng vì lợi ích chung của nền kinh tế, của đông đảo giới đầu tư kinh doanh.
Ông Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận xét, trong điều kiện Việt Nam, hợp nhất, sáp nhập là con đường nhanh nhất để một doanh nghiệp nhỏ trở thành doanh nghiệp lớn. Một yếu tố nữa là bản thân các công ty phải có chiến lược, tầm nhìn tốt cũng như quản trị phải minh bạch… Không quy định nào cấm doanh nghiệp phát triển thành tập đoàn và các doanh nghiệp không nên đòi hỏi nhiều ở Chính phủ mà yêu cầu quan trọng nhất là tạo điều kiện về mặt pháp lý.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng hiện các tập đoàn kinh tế nhà nước được hưởng rất nhiều ưu đãi, lợi thế, vì vậy cần thiết phải xây dựng được những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các tập đoàn kinh tế tư nhân. Trong khi đó, năm 2009, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước chỉ đạt mức tăng trưởng 2,9%, thấp hơn mức tăng trưởng chung của cả nền kinh tế là 5,32%. Dù sao, các tập đoàn kinh tế tư nhân vẫn đang tiếp tục hình thành và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu so sánh hiệu quả sử dụng đồng vốn, lao động… khu vực kinh tế tư nhân vẫn đạt kết quả hơn. Vấn đề đặt ra là cần phải phân bổ lại các nguồn lực sao cho hợp lý hơn, vì sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, không phân biệt tư nhân hay nhà nước. Điểm mấu chốt là các chính sách chỉ nên định hướng sự phát triển và cách thức tổ chức tập đoàn nhằm tạo sự đồng thuận trong môi trường kinh doanh để các doanh nghiệp đang thực sự có mong muốn và khát vọng sớm trở thành tập đoàn theo các quy luật kinh tế.