ĐIỂM TIN BÁO CHÍ CÁC NGÀY 30, 01, 02/9 VÀ SÁNG NGÀY 03/9/2014

03/09/2014
Trong các ngày 30, 01, 02/9 và đầu giờ sáng ngày 03/9/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an nhân dân online có bài: TP HCM: Kiến nghị chấn chỉnh hoạt động các văn phòng thừa phát lại. Bài báo phản ánh: Viện KSND TP HCM vừa có văn bản kiến nghị Sở Tư pháp TP HCM chấn chỉnh hoạt động các văn phòng Thừa phát lại (TPL) có vi phạm trên địa bàn và đề nghị xử lý nghiêm các văn phòng TPL nếu tiếp tục để xảy ra vi phạm.

Thực hiện Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/2/2014 hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định TPL lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 và Hướng dẫn số 03/HD-VKSTC-V10 của Viện KSNDTC về công tác kiểm sát hoạt động của Văn phòng TPL, trong năm 2014, Viện KSND TP HCM đã yêu cầu các Trưởng văn phòng TPL lại trên địa bàn TP Hồ Chí Minh tự kiểm tra và cung cấp hồ sơ thi hành án (THA) dân sự để cơ quan này kiểm sát theo quy định của pháp luật.

Theo Viện KSND TP HCM, trên cơ sở báo cáo kết quả tự kiểm tra và qua kiểm sát 44 hồ sơ thi hành án (đã thi hành xong) của các văn phòng TPL quận 1, 5, Bình Thạnh và Tân Bình, cho thấy hoạt động của các văn phòng TPL bước đầu đã phát huy hiệu quả trong việc xác lập vi bằng, tống đạt văn bản, xác minh điều kiện THA và tổ chức THA dân sự góp phần làm giảm tải khối lượng công việc của cơ quan THA dân sự và TAND các cấp tại TP HCM.

Bên cạnh những mặt được, hoạt động của các văn phòng TPL cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế như số lượng vụ, việc các văn phòng TPL tổ chức THA còn quá ít so với số lượng vụ, việc cơ quan THA dân sự phải tổ chức thi hành, trong đó số lượng vi phạm chiếm tỷ lệ cao.

Cụ thể, qua kiểm tra 44 hồ sơ THA của văn phòng TPL tại các quận 1, 5, Bình Thạnh và Tân Bình có đến 41 hồ sơ có vi phạm trong quá trình tổ chức THA. Trong đó, có đến 24 trường hợp vi phạm vì không ký kết hợp đồng dịch vụ và không làm thủ tục thanh lý hợp đồng với người được THA, 11 trường hợp vi phạm trong việc gửi đơn THA, 10 trường hợp không gửi quyết định THA cho cơ quan THA dân sự cấp huyện tại nơi có Văn phòng TPL để phối hợp thi hành, 9 trường hợp vi phạm trong việc chưa trích lục sao y bản chính các bản sao bản án, quyết định của TAND các cấp đã đưa ra thi hành, 6 trường hợp vi phạm trong việc giao các văn bản, thông báo, quyết định THA cho đương sự nhưng không lập thành biên bản tống đạt theo quy định, 5 trường hợp vi phạm thời gian tống đạt các văn bản, thông báo, quyết định THA cho đương sự, 3 trường hợp sai sót trong việc ra quyết định THA… Ngoài ra, lỗi thường thấy là khi ra các quyết định đình chỉ, trả đơn yêu cầu THA và cưỡng chế THA, các văn phòng TPL không nêu căn cứ cụ thể, điều khoản áp dụng theo quy định Luật THA dân sự năm 2008.

Ngoài các lỗi thường gặp như trên, Trưởng văn phòng TPL còn chưa thực hiện báo cáo thường xuyên cho Viện KSND quận, huyện trên địa bàn để nơi này thực hiện chức năng kiểm sát theo quy định. Số liệu thống kê, theo báo cáo của Viện KSND quận, huyện và báo cáo của TPL còn chênh lệch, chưa đầy đủ các nội dung theo yêu cầu.

Để chấn chỉnh, khắc phục các thiếu sót, vi phạm nêu trên cuối tháng 8 vừa qua, Viện KSND TP Hồ Chí Minh vừa có văn bản kiến nghị Sở Tư pháp TP HCM đề nghị đơn vị này chỉ đạo Trưởng các văn phòng TPL rút kinh nghiệm chung, không để xảy ra những vi phạm tương tự trong quá trình hoạt động và tổ chức THA dân sự như đã nêu trên, đồng thời nhanh chóng khắc phục các vi phạm đã được phát hiện; tăng cường công tác phối hợp, chủ động ký kết quy chế phối hợp liên ngành trong THA dân sự, báo cáo thường xuyên, đầy đủ cho Viện KSND quận, huyện trên địa bàn để thực hiện việc kiểm sát theo quy định; phối hợp với các sở, ban ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện kiểm tra tổ chức hoạt động của các văn phòng thừa phát lại trên địa bàn, đặc biệt kiểm tra chặt chẽ việc đăng ký vi bằng, đảm bảo các vi bằng được lập phải đúng thẩm quyền, đúng phạm vi và đúng thời hạn theo quy định.

Ngoài ra, VKS cũng đề nghị Sở Tư pháp yêu cầu các cơ quan (Công an, thuế, kho bạc Nhà nước, bảo hiểm xã hội…) và các tổ chức, cá nhân có liên quan hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của TPL về xác minh điều kiện THA và chịu trách nhiệm thông tin đã cung cấp theo quy định cũng như tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh các hoạt động của TPL trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân và xã hội nhanh chóng tiếp cận với các dịch vụ TPL.                                  

Về vấn đề này, Văn phòng Bộ đề xuất Tổng Cục thi hành án dân sự theo dõi.

2. Báo Tuổi trẻ online có bài: Mua nhà hợp pháp vẫn bị rắc rối. Bài báo phản ánh: Một vụ kiện tranh chấp nhà đã thi hành án xong, ngôi nhà được phát mãi sau đó người mua nhà cũng đã bán lại cho người thứ ba.

Thế rồi giám đốc thẩm lại hủy án, ngôi nhà được tòa tuyên giao cho người khác, đẩy những người mua nhà hợp pháp vào tình huống khó khăn.

Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc ở P.Tân Chánh Hiệp, Q.12, TP.HCM kể khoảng năm 2003-2004, bà Ngọc cho bà Vũ Thị Hồng Hải (ở P.4, Q.Tân Bình, TP.HCM) vay nhiều lần, tổng số tiền lên tới 300 triệu đồng. Hai bên không ký giấy vay nợ mà bà Hải ký hợp đồng bán căn nhà số 89 P.Hiệp Thành, Q.12, TP.HCM cho bà Ngọc với thỏa thuận nếu bà Hải không trả được nợ thì sẽ thực hiện hợp đồng mua bán nhà đã ký.

Sau đó bà Hải không trả được tiền cho bà Ngọc, căn nhà trên thuộc về bà Ngọc và bà Ngọc cho thuê. Bà Ngọc không biết rằng bà Hải cũng dùng ngôi nhà đó thế chấp để vay tiền của nhiều người khác, trong đó có 200 triệu đồng của vợ chồng ông Hoàng Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Kim. Ông Dũng khẳng định mình cũng mua ngôi nhà đó nên đã dọn vào ở.

Bà Ngọc cho biết bởi không thỏa thuận được, bà đã kiện vợ chồng ông Dũng ra TAND Q.12 để đòi nhà. Sau hai lần xử sơ thẩm và phúc thẩm, tòa đã tuyên trả căn nhà về cho bà Vũ Thị Hồng Hải, buộc bà Hải trả tiền nợ cho bà Ngọc và vợ chồng ông Dũng.

Cũng theo bà Ngọc, sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực, do bà Hải không có tiền để trả nợ nên Chi cục Thi hành án dân sự Q.12 đã buộc bà Hải đưa căn nhà trên ra bán đấu giá để trả tiền nợ theo tỉ lệ hợp lý.

Vợ chồng ông Dũng và một người khác nữa được ưu tiên mua nhưng họ đều không mua nên bà Ngọc đã mua nhà và trả tiền cho những người còn lại, trong đó có vợ chồng ông Dũng.

Sau khi thi hành bản án xong vào năm 2009, bà Ngọc đã hợp thức hóa giấy tờ nhà và bán cho ông Trần Văn H.. Mọi thủ tục mua bán được hoàn tất, bà Ngọc mới biết vợ chồng ông Dũng đã làm đơn đề nghị giám đốc thẩm.

Quyết định giám đốc thẩm của TAND tối cao ngày 21-9-2010 đã tuyên hủy hai bản án mà bà Ngọc là nguyên đơn dân sự với lý do: hợp đồng mua bán nhà giữa bà Hải và bà Ngọc là hợp đồng giả cách để vay tiền nên không có giá trị pháp luật, còn giữa bà Hải và vợ chồng ông Dũng có thỏa thuận vay tiền và thế chấp nhà để đảm bảo trả nợ với điều kiện không trả được gốc và lãi thì bà Hải chấp nhận chuyển nhượng nhà cho vợ chồng ông Dũng. Bản án giám đốc thẩm nhận định rằng điều kiện đó phù hợp với thỏa thuận mua bán nhà. 

Sau đó, ông Hoàng Văn Dũng có đơn khởi kiện bà Vũ Thị Hồng Hải ra TAND Q.12 yêu cầu thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở liên quan đến căn nhà số 89 (trong bản án này bà Hải cũng chỉ xác nhận bà mượn nợ của vợ chồng ông Dũng).

Tại bản án dân sự sơ thẩm ngày 10-10-2013, TAND Q.12 chấp nhận đơn khởi kiện của ông Dũng, đồng thời tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở của bà Nguyễn Thị Bích Ngọc đối với căn nhà số 89, hủy hợp đồng mua bán giữa bà Ngọc và ông H..

Bà Ngọc cho biết bà không nhận được thông tin về việc bản án bị hủy, và bà cũng không được tham dự phiên tòa do ông Dũng kiện bà Hải nói trên. Khi biết phán quyết của TAND Q.12, bà Ngọc và ông H. đã làm đơn kháng cáo.

Tuy nhiên, sau nhiều lần mở phiên tòa rồi lại hoãn, ngày 29-8 tòa lại tiếp tục hoãn một lần nữa với lý do: cần phải làm rõ thêm một số nội dung nhưng các đương sự không có mặt đầy đủ.

Sau phiên tòa ngày 29-8, bà Ngọc nói vụ việc này khiến bà rất mệt mỏi, còn người đại diện của ông H. thì cho rằng ông H. mua nhà ngay tình, tiền đã trao và các thủ tục mua bán đã xong, hiện giờ gia đình ông đang sinh sống ổn định tại căn nhà này mà nay tòa tuyên hợp đồng mua bán giữa ông H. và bà Ngọc là vô hiệu thì tòa đã không nghĩ gì đến quyền lợi của ông H..

Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Tổng Cục thi hành án dân sự kiểm tra thông tin, theo dõi, chỉ đạo xử lý đúng pháp luật.

3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài: Viết tiếp vụ "Tây Ninh: Không thể thi hành án vì vướng cây trồng?": Có dấu hiệu bị đơn khai man hồ sơ. Bài báo phản ánh: Báo CATP ra ngày 18-1-2014 đăng bài viết phản ánh bức xúc của nguyên đơn trong vụ "tranh chấp di sản thừa kế" (gần 8.000m2 đất tại ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh) khi phải chờ đến hai năm nhưng việc thi hành án (THA) vẫn không được tiến hành. Tòa án nhân dân (TAND) tối cao đã chỉ ra những điểm chưa được làm rõ trong việc xét xử của cấp dưới.

Ngày 27-6-2011, TAND tỉnh Tây Ninh mở phiên xử phúc thẩm vụ "tranh chấp di sản thừa kế" giữa nguyên đơn là hai bà Đỗ Thị Điểm, Đỗ Thị Cúc (ủy quyền cho chị Thái Minh Nguyệt) và bị đơn là Võ Thị Hà (vợ ông Đỗ Kiểm - đã mất) cùng 10 người con về phần đất gần 8.000m2. Số đất trên của cha mẹ ông Kiểm, bà Điểm, bà Cúc, do sau khi mất họ không để lại di chúc nên mọi việc khá rắc rối. Với ý đồ chiếm dụng, bà Hà cùng các con lập tờ tương phân, nội dung giao cho hai bà Điểm, Cúc mỗi người 200m2; phần còn lại thuộc về Vinh, Tường (con bà Hà). Do không nắm luật, hai bà Điểm, Cúc đã ký vào và Vinh, Tường được UBND thị xã (TX) Tây Ninh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất nói trên. Mãi tới khi có người đến mua đất, hai bà Điểm, Cúc mới hiểu cớ sự và khởi kiện.

Sau phiên sơ thẩm, bị đơn kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm, TAND tỉnh Tây Ninh tuyên buộc bà Hà cùng 10 người con trả lại 2.697m2 đất thừa kế cho hai bà Điểm, Cúc, đồng thời có nghĩa vụ di dời phần cây ăn trái trên đó để trả đất cho nguyên đơn. Chờ gần hai năm nhưng phía bị đơn không thi hành án (THA), do vướng mắc trong bản án phúc thẩm về việc giải quyết cây trồng, ngày 6-9-2013 Chi cục THA dân sự TX.Tây Ninh gửi công văn lên TAND tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị giám đốc thẩm (GĐT) bản án nêu trên.

Hơn 8 tháng sau, TAND tối cao có công văn kháng nghị GĐT bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh Tây Ninh, trong đó chỉ ra một số điểm chưa được làm rõ. Tường trình bổ sung, ông Vinh cho rằng đất tranh chấp là đất công, sau giải phóng ông Kiểm mới canh tác. Điều này mâu thuẫn với lời tường trình của ông lẫn ông Tường trong quá trình giải quyết vụ án và mâu thuẫn với nội dung các ông đã kê khai trong giấy tờ. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, anh Đỗ Văn Cường (con nuôi ông Kiểm, bà Hà) và nhiều người làm chứng khác (là cán bộ đã và đang công tác tại UBND xã Ninh Sơn, những người sống lâu năm tại địa phương) đều xác nhận phần đất nói trên do hai cụ Đỗ Khôi, Phan Thị Đạt mua. Đáng nói hơn, trong giấy tương phân, bà Hà cùng hai con đã thừa nhận phần diện tích này của ông bà nội. Việc cả ba ký vào tờ giấy do không biết (bà Hà) và say xỉn (hai người con) không có cơ sở chấp nhận.

TAND tối cao nhận thấy tòa án cấp sơ và phúc thẩm xác định căn nhà, đất tranh chấp là di sản của hai cụ Khôi - Đạt là có cơ sở. Tại thời điểm hai bà Điểm, Cúc khởi kiện đã hết thời hiệu chia thừa kế đối với phần di sản của cụ Khôi nên chỉ xét xử chia thừa kế đối với 1/2 nhà và đất tranh chấp thuộc di sản của cụ Đạt của cấp phúc thẩm là phù hợp. Tuy nhiên, việc quyết định bà Hà cũng được hưởng di sản thừa kế của cụ Đạt là không đúng pháp luật, hơn nữa còn tuyên bà Hà cùng 10 người con có nghĩa vụ di dời cây trồng trên phần đất mà hai bà Điểm, Cúc được chia để giao đất cho hai bà gây khó khăn cho việc THA..., TAND tối cao quyết định: kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh Tây Ninh về vụ này giữa nguyên đơn là hai bà Điểm, Cúc và bị đơn là ông Vinh, ông Tường; đề nghị tòa dân sự TAND tối cao xét xử GĐT hủy bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho TAND thị xã Tây Ninh xét xử sơ thẩm lại, tạm đình chỉ THA dân sự phúc thẩm cho đến khi có quyết định GĐT.

Để làm rõ bức xúc của người khiếu nại về nguồn gốc đất, chúng tôi đã tìm gặp ông Nguyễn Văn Quy - nguyên Chủ tịch xã Ninh Sơn (nay là phường Ninh Sơn). Theo ông, vợ chồng ông Khôi tạo dựng đất từ việc mua của người khác, trong đó có phần tranh chấp nói trên từ rất lâu rồi và đã trồng cây, xây từ đường trên đó. Sau giải phóng, con trai đầu là Đỗ Kiểm mới chuyển về ở cùng. Do vậy, việc các con ông Kiểm cho là đất của cha tạo dựng và tranh giành là hoàn toàn vô lý. Ông Nguyễn Thanh Long - nguyên Chủ tịch Hội nông dân xã Ninh Sơn - cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho ông Vinh, ông Tường của chính quyền địa phương có vấn đề, cần được làm rõ.

Kể từ lúc khởi kiện đến nay đã hơn 5 năm nhưng vụ việc vẫn chưa được giải quyết rốt ráo. Hai bà Điểm, Cúc nay tuổi cao sức yếu, vì thế việc xét xử kéo dài sẽ tăng thêm áp lực cho họ. Rất mong TAND tối cao sớm đưa vụ án ra xét xử nhằm đảm bảo quyền lợi cho hai bà.

Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Tổng Cục thi hành án dân sự kiểm tra thông tin, chỉ đạo xử lý đúng pháp luật.

4. Báo Người lao động có bài: Quá khổ vì được... thi hành án. Bài báo phản ánh: Mất mát tài sản, thiệt hại về tính mạng người thân nhưng khi bản án tòa tuyên có hiệu lực thì người được thi hành án phải trầy trật, cực khổ mới lấy được những gì thuộc về mình

Chúng tôi trở lại gia đình anh Lê Văn Hiền (SN 1976, tạm trú quận Thủ Đức, TP HCM) sau 4 năm xảy ra vụ tai nạn đau lòng, cướp đi sinh mạng của chị Phan Thị Hải Lý (SN 1978, vợ anh Hiền). Khi được hỏi về hành trình yêu cầu thi hành bản án phúc thẩm mà TAND TP HCM đã tuyên, anh Hiền cho biết: “Tốn công sức, thời gian đi lại nên nhiều lúc nản quá muốn buông xuôi”.

Năm 2011, sau khi TAND TP HCM xử phúc thẩm, tuyên buộc Công ty TNHH Vận tải Văn Linh bồi thường cho anh Hiền số tiền 110 triệu đồng, anh cầm bản án đến Chi cục Thi hành án (THA) dân sự quận Thủ Đức thì được trả lời đã ủy thác cho Chi cục THA dân sự quận 8 (nơi có trụ sở của Công ty TNHH Vận tải Văn Linh) xử lý vụ việc. Sang Chi cục THA dân sự quận 8, anh Hiền được trả lời rằng chưa nhận được hồ sơ và yêu cầu chờ.

Sau đó, anh tiếp tục nhiều lần đến Chi cục THA dân sự quận 8 yêu cầu THA thì được trả lời rằng Công ty TNHH Vận tải Văn Linh đã chuyển trụ sở sang nơi khác và yêu cầu anh tiếp tục chờ kết quả xác minh. “Sau hơn 2 năm rưỡi đi lên, đi về và nhờ không biết bao nhiêu người tư vấn pháp luật để đòi tiền THA, cuối cùng tôi phải thuê luật sư, ủy quyền cho họ lấy tiền giùm với tỉ lệ 50/50” - anh Hiền nói.

Vẫn chưa hết phiền phức, luật sư còn yêu cầu anh Hiền phải tự đi xác minh Công ty TNHH Vận tải Văn Linh có bao nhiêu chiếc xe để làm cơ sở yêu cầu THA. Anh Hiền lại bỏ thời gian, công sức đi thu thập, xác minh những chiếc xe của Công ty TNHH Vận tải Văn Linh đang hoạt động trên địa bàn

TP HCM. Sau khi có đầy đủ kết quả, gần 3 năm bản án phúc thẩm được tuyên, công ty mới bồi thường cho gia đình anh Hiền số tiền 110 triệu đồng.

Nhớ lại quá trình “đòi nợ” công ty có tài xế gây ra cái chết cho vợ mình, anh Hiền nói: “Thiệt tình tôi cũng không biết phải kể như thế nào, bắt đầu từ đâu để nói hết nỗi khổ của người được THA. Mất người thân đã đau khổ biết chừng nào nhưng khi đi đòi tiền lại bị hành lên hành xuống, nhiều lúc tôi thấy những người bị THA coi thường pháp luật nhưng họ chẳng bị xử lý”.

Cũng khổ sở không kém anh Hiền, ông Phạm Văn Dũng, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ - Quảng cáo Sông Hương (Công ty Sông Hương), phải oằn mình trả nợ ngân hàng, bạn bè. Theo bản án của phúc thẩm của TAND TP HCM ngày 5-3-2009, Công ty 27/7 (do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP HCM quản lý) phải có trách nhiệm bồi thường cho Công ty Sông Hương 1,46 tỉ đồng.

Tuy nhiên, mỗi tháng Công ty 27/7 chỉ trả cho ông Dũng từ 10-20 triệu đồng và chuyển qua ngân hàng. Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông Dũng cho biết: “Sau hơn 5 năm bản án phúc thẩm có hiệu lực, công ty chỉ mới thi hành được hơn phân nửa số tiền tòa tuyên. Thời gian qua, tôi phải đi vay bạn bè, ngân hàng để trả số tiền hơn 3 tỉ đồng đã đầu tư vào xưởng in. Trong khi đó, Công ty 27/7 chỉ thanh toán nhỏ giọt và không biết vì lý do gì mà gần 6 tháng qua, họ ngưng chuyển tiền THA”.

Công ty Sông Hương thuê mặt bằng của Công ty 27/7 (trụ sở quận Gò Vấp) làm xưởng in. Do cần ngăn lối đi nên ông Hà Văn Lành, Quản đốc Phân xưởng Rượu thuộc Công ty 27/7, nhờ người tìm giúp công nhân thực hiện. Ngày 18-3-2007, Nguyễn Ngọc Phú cùng 2 người khác đến làm vách ngăn, lợp tôn. Trưa cùng ngày, trong lúc sử dụng máy hàn, những người trên đã làm cháy kho thiêu rụi 2 máy in, 1 máy cắt của Công ty Sông Hương trị giá hơn 1,6 tỉ đồng.

Xét xử phúc thẩm, TAND TP HCM nhận định Công ty 27/7 thuê người vào sửa kho nên phải có trách nhiệm bồi thường, Công ty Sông Hương hoàn toàn không có lỗi. Kể từ khi Công ty Sông Hương có đơn yêu cầu THA và Chi cục THA dân sự quận Gò Vấp có quyết định, nếu Công ty 27/7 chưa bồi thường xong thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. “Họ THA theo kiểu chây ì, đến nay chưa xong thì nói gì chuyện yêu cầu chịu thêm lãi suất mà bản án đề cập” - ông Dũng ngao ngán.

Trên cơ sở bản án của TAND quận 3, TP HCM, ngày 21-2-2013, Chi cục THA dân sự quận 3 đã ban hành quyết định THA buộc Công  ty H.Hà (trụ sở tại quận 3) phải trả 258 triệu đồng cho một công  ty sản xuất nhôm đóng trên địa bàn quận Tân Phú, TP HCM. Theo đơn kiện dân sự trước đó tại tòa, công ty sản xuất nhôm kiện Công ty H.Hà vì không thanh toán tiền lắp đặt cửa kính nhôm là 258 triệu đồng như hợp đồng đã ký.

Theo quy định của Luật THA dân sự,  công ty sản xuất nhôm - bên được THA - phải xác minh điều kiện THA của Công ty H.Hà - bên bị THA - để cung cấp cho cơ quan THA dân sự.

Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, một lãnh đạo công ty sản xuất nhôm than trời:  “Tưởng tòa tuyên là xong nhưng ai ngờ chúng tôi phải làm công việc xác minh điều kiện THA. Sau 6 tháng chạy đôn chạy đáo, gõ cửa nhiều nơi, chúng tôi mới tìm được số tài khoản của bên bị THA để cung cấp cho chấp hành viên”.

Tuy nhiên, công việc tiếp theo của chấp hành viên Chi cục THA dân sự quận 3 cũng không kém phần nhiêu khê. Ông Lê Văn Kiệt, Phó Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự quận 3 - người theo dõi vụ án, cho biết sau khi bên được THA cung cấp số tài khoản tại ngân hàng của bên bị THA, tháng 8-2013, Chi cục THA dân sự quận 3 đã gửi văn bản yêu cầu ngân hàng có trụ sở ở quận 1 cung cấp số dư tài khoản của Công ty H.Hà và phong tỏa tài khoản nhằm bảo đảm THA. Thế nhưng, ngân hàng này đưa ra lý do Công ty H.Hà vay nợ ngân hàng nên tài khoản đã bị phong tỏa! Không thể khoanh tay, Chi cục THA dân sự quận 3 tiếp tục yêu cầu ngân hàng cung cấp hợp đồng vay tiền của  Công ty H.Hà nhưng cũng bị từ chối. “Mất vài tháng chờ đợi với rất nhiều thông báo được gửi tới ngân hàng nhưng họ không hợp tác. Thậm chí, ngân hàng còn hỗ trợ để Công ty H.Hà trốn tránh nghĩa vụ THA bằng cách ký hợp đồng bảo đảm tài khoản sau khi TAND quận 3 tuyên án” - ông Kiệt lắc đầu. Cuối cùng,  được sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, đến tháng 3-2014, ngân hàng trên mới chịu chuyển tiền từ tài khoản của Công ty H.Hà để thi hành án.

Theo Chi cục THA dân sự quận 3, vụ án trên đã  kéo dài 1 năm rưỡi: Kể từ khi bản án có hiệu lực (tháng 10-2012) đến tháng 3-2014 thì  mới hoàn tất việc THA. Hành trình THA nan giải như đã nêu không phải là hy hữu mà là chuyện thường xuyên mà Chi cục THA dân sự quận 3 gặp phải! 

Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Tổng Cục thi hành án dân sự kiển tra thông tin, theo dõi, chỉ đạo giải quyết triệt để.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Hải quan online có bài: VCCI đề xuất sửa nghị định, tạm dừng soạn thông tư về cá tra. Bài báo phản ánh: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa gửi kiến nghị đến Bộ Tư pháp đề nghị sửa Nghị định số 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế biến và xuất khẩu cá tra, có hiệu lực thi hành từ ngày 20-6-2014, do đã bộc lộ nhiều bất cập và tạm dừng xây dựng thông tư hướng dẫn nghị định này.

Theo VCCI, quy định về đăng ký hợp đồng xuất khẩu cá tra đang là cơ chế gây tranh cãi nhất hiện nay của Nghị định 36. VCCI dẫn lời của Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), các doanh nghiệp lo ngại rằng những quy định về đăng ký xuất khẩu cá tra sẽ khiến hàng hóa của họ không thể xuất khẩu do các vướng mắc có thể phát sinh khi đăng ký xuất khẩu.

Theo Nghị định 36, một trong hai điều kiện để thương nhân được xuất khẩu cá tra là thương nhân phải đăng ký hợp đồng xuất khẩu với Hiệp hội Cá tra. Tuy nhiên, VCCI cho rằng, trong thực tế kinh doanh, các doanh nghiệp ký với phía đối tác rất nhiều loại hợp đồng như hợp đồng nguyên tắc, hợp đồng theo năm, hợp đồng lô hàng... Hiện nay chưa có quy định hướng dẫn cụ thể loại hợp đồng phải đăng ký nên quy định này có thể gây ra những vướng mắc phát sinh khi thực hiện.

Ngoài ra, số lượng hợp đồng xuất khẩu là rất nhiều, mỗi hợp đồng đăng ký còn kèm theo nhiều giấy tờ liên quan. Trong khi đó đơn vị được giao nhiệm vụ đăng ký lại chưa có bất kỳ kinh nghiệm gì về thủ tục này. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ chậm giải quyết hồ sơ, cuối cùng làm chậm việc giao hàng của doanh nghiệp.

“Việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu có thể làm lộ một số bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là về đối tác, giá xuất khẩu. Về tính khách quan, trong thành viên lãnh đạo của Hiệp hội Cá tra có sự tham gia của một số doanh nghiệp. Do đó, nhiều doanh nghiệp khác lo ngại nguy cơ phân biệt đối xử giữa các thành viên trong quá trình triển khai việc đăng ký xuất khẩu của Hiệp hội này”- văn bản của VCCI viết.

Ngoài ra, theo thông tin từ VASEP, với thông lệ ký và thực hiện hợp đồng cá tra như hiện nay, việc đăng ký hợp đồng xuất khẩu sẽ không giúp ích gì nhiều cho mục tiêu kiểm soát nguồn cung cá tra để không thả nuôi thừa/thiếu. Lý do là khác với nhiều ngành sản xuất khác, các doanh nghiệp và cơ sở cung cấp cá tra không đợi tới lúc có hợp đồng chính xác về số lượng mới tiến hành thả nuôi, rất nhiều hợp đồng được ký giao ngay bởi doanh nghiệp đã trữ sẵn hàng trong kho hoặc giao sau một thời gian rất ngắn (doanh nghiệp mua/sử dụng ngay số cá tại ao để chế biến luôn).

Với cách thức như vậy, doanh nghiệp/cơ sở nuôi luôn tiến hành thả nuôi khi chưa có hợp đồng xuất khẩu. Và do đó đăng ký hợp đồng xuất khẩu sẽ không đảm bảo được là doanh nghiệp và các cơ sở nuôi sẽ không thả nuôi vượt quá/dưới mức nhu cầu thực tế.

Liên quan đến quy định về tỷ lệ mạ băng và hàm ẩm cụ thể, Nghị định quy định cứng về tỷ lệ mạ băng tối đa (10%) và hàm lượng nước tối đa (83%) là không phù hợp, bởi vấn đề hàm ẩm và tỷ lệ mạ băng chỉ là vấn đề về chất lượng sản phẩm, không phải là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.

VCCI cho rằng việc quy định tiêu chuẩn cho một vấn đề mà vốn thuộc về quyền tự do thỏa thuận, không ảnh hưởng tới việc cá tra được phép hay không được phép nhập khẩu vào một thị trường nhất định là không cần thiết, can thiệp quá sâu vào quyền tự do ký kết hợp đồng của doanh nghiệp

Nếu doanh nghiệp không đảm bảo tỷ lệ hàm ẩm hay mạ băng như thỏa thuận trong hợp đồng với khách hàng thì đây là vấn đề thuộc tranh chấp thương mại thông thường về chất lượng sản phẩm, cần được giải quyết theo các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông thường. Nhà nước không cần can thiệp vào vấn đề này.

Ngay cả khi vấn đề tỷ lệ tối đa về mạ băng và hàm ẩm trở thành các tiêu chuẩn bắt buộc ở một thị trường xuất khẩu nào đó thì việc quy định cứng về tỷ lệ mạ băng và hàm ẩm tại pháp luật Việt Nam cũng là không cần thiết bởi các thị trường xuất khẩu cá tra của Việt Nam ngày càng đa dạng, mỗi thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng hàng hóa khác nhau. Có những thị trường như EU, Mỹ yêu cầu cao, nhưng cũng có những thị trường không đòi hỏi quá cao như khu vực Mỹ Latin, Đông Âu, Châu Á…

Do đó, việc quy định một mức chất lượng hàng hóa cứng nhắc như trong Nghị định 36 là điều bất hợp lý. Việc này có thể sẽ đẩy giá thành sản phẩm lên vào khiến sản phẩm của Việt Nam khó tiếp cận với các thị trường dễ tính. Nếu là vì mục tiêu đảm bảo một chuẩn tối thiểu về chất lượng (tương tự như vấn đề về tiêu chuẩn VietGAP đối với cơ sở nuôi cá tra) thì đó phải là chuẩn thấp, chứ không thể là một chuẩn cao như trong Nghị định.

Với những phân tích như trên, VCCI đề xuất trong khoảng thời gian từ nay tới hết 2014- thời điểm mà quy định về tỷ lệ mạ băng và hàm ẩm có hiệu lực, cơ quan soạn thảo Nghị định 36 cùng các cơ quan liên quan tiến hành sửa lại Nghị định.

Ngoài ra, VCCI đề xuất tạm dừng việc soạn thảo thông tư hướng dẫn nghị định, ít nhất là về những quy định còn bất cập nêu trên, chờ nghị định được sửa rồi mới tiếp tục soạn thảo thông tư.

Trường hợp vẫn cần thiết phải soạn thảo thông tư để hướng dẫn chi tiết các nội dung khác đã có hiệu lực từ 20-6-2014 của Nghị định, VCCI đề nghị đưa các nội dung trên ra khỏi dự thảo thông tư. Sau khi Nghi định sửa về các vấn đề này thì sẽ dự thảo một thông tư khác chỉ hướng dẫn về các vấn đề này.

2. Báo Vnexpress có bài: Hơn 100 người chết vì tai nạn giao thông 4 ngày nghỉ lễ. Bài báo phản ánh: Cảnh sát giao thông cả nước đã tạm giữ hơn 100 ôtô, hơn 4.000 xe máy và phạt tiền 14 tỷ đồng với người vi phạm chỉ trong 4 ngày nghỉ lễ.

Theo ông Nguyễn Trọng Thái, Chánh văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia, trong đợt nghỉ lễ 2/9 này nhu cầu đi lại của người dân tăng cao nhưng các lực lượng chức năng đã tăng cường kiểm soát trật tự giao thông, không xảy ra ùn tắc giao thông kéo dài. Một số nút giao thông trọng điểm tại Hà Nội và TP HCM xảy ra ùn ứ cục bộ và tăng giá vé, ôtô chở vượt số người quy định trên một số tuyến.

Trong 4 ngày nghỉ lễ, toàn quốc vẫn xảy ra 186 vụ tai nạn làm chết 114 người, bị thương 145 người. Cảnh sát giao thông đã kiểm tra, xử lý hơn 28.700 trường hợp vi phạm, nộp kho bạc hơn 14 tỷ đồng, tạm giữ 109 ôtô và gần 4.100 xe máy. Tai nạn giao thông cũng tăng đột biến vào ngày 2/9 với 63 vụ va chạm trên cả nước, làm chết 48 người, bị thương 75 người.

Riêng ngày 1/9 đã xảy ra vụ tai nạn xe khách đặc biệt nghiêm trọng tại tỉnh Lào Cai làm chết 12 người, bị thương 41 người. Sau tai nạn, Thủ tướng đã ban hành công điện khẩn gửi lời chia buồn tới các gia đình có người tử vong, đồng thời biểu dương Bộ GTVT, Ủy ban ATGT, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lào Cai, huyện Bát Xát và nhân dân địa phương đã huy động lực lượng, phương tiện để cứu hộ, cứu nạn góp phần giảm thiệt hại.

Chủ tịch Ủy ban ATGT Quốc gia Nguyễn Xuân Phúc cũng chỉ đạo các cơ quan liên quan huy động tối đa lực lượng, y bác sĩ, thuốc men, phương tiện, thiết bị tổ chức cứu chữa các nạn nhân; đồng thời yêu cầu Bộ Công an khẩn trương điều tra, làm rõ nguyên nhân vụ tại nạn để xử lý nghiêm theo pháp luật, đánh giá rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp khắc phục, ngăn chặn những vụ tai nạn tương tự.



File đính kèm