Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 3 năm 2010

09/03/2010
Trong buổi sáng ngày 09/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bàiĐề nghị Hoa Kỳ không dựng rào cản thương mại hàng Việt Nam”. Bài báo phản ánh: Sáng 8-3, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp ông Lester Crown, Chủ tịch Hội đồng Chicago (Hoa Kỳ) về các vấn đề toàn cầu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam mong muốn cùng với Hoa Kỳ tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác trên tinh thần hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau. Về quan hệ hợp tác trong thời gian tới, Thủ tướng đề nghị Hoa Kỳ không dựng những rào cản thương mại đối với một số hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ như cá ba sa, hàng dệt may…; hợp tác mạnh mẽ hơn trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh… Thủ tướng cũng đề nghị Hoa Kỳ hợp tác và hỗ trợ Việt Nam ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Chủ tịch Hội đồng Chicago Lester Crown mong muốn Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp của Chicago nói riêng và của Hoa Kỳ nói chung hợp tác làm ăn hiệu quả tại Việt Nam. Về các đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Lester Crown khẳng định sẽ chuyển tới chính phủ Hoa Kỳ ngay sau khi kết thúc chuyến thăm Việt Nam.
2. Báo Thanh Niên có bài “Ngân hàng “lách” lãi suất trần”. Bài báo phản ánh: Sau khi Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng được cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn, hầu hết các ngân hàng đều "tạm ngừng" cho vay ngắn hạn.
Hiện tượng "tạm ngừng" cho vay ngắn hạn của các ngân hàng xảy ra gần như đồng thời với hiệu lực của quy định về lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn. Theo tìm hiểu của Thanh Niên, trước đây, các ngân hàng cho vay ngắn hạn đồng loạt với lãi suất trần là 12%/năm, sau đó tìm cách tính phí cao ở những dịch vụ khác... Nhưng thời gian gần đây, ngân hàng chuyển tất cả các khoản cho vay ngắn hạn mới sang dạng trung dài hạn, dù khách hàng không có yêu cầu. Lãnh đạo một ngân hàng cổ phần tại Hà Nội tiết lộ: "Tiếng là cho vay trung dài hạn nhưng chỉ giải ngân và trả nợ trong vòng vài tháng thôi. Cái này được 2 việc: một là không vi phạm quy định của Nhà nước, hai là lãi suất được thỏa thuận với khách hàng. Nếu làm như trước kia lúc nào cũng nơm nớp lo bị thanh, kiểm tra". Tổng giám đốc một ngân hàng quốc doanh thì cho biết: "Chúng tôi không làm được như mấy ngân hàng cổ phần nhưng cũng phải xoay xở. Chứ cho vay ngắn hạn nghiêm túc với lãi suất trần là 12%/năm thì lỗ". Trên thực tế, với việc huy động lãi suất với mức đồng loạt là 10,5%/năm, cộng với dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh khoản, chi phí quản lý, dự phòng rủi ro... giá vốn của các ngân hàng đều cao hơn 12%/năm. Vì thế, việc ngân  hàng cho vay với lãi suất 12%/năm bằng lãi suất trần là điều không ngân hàng nào muốn làm. Thế nhưng, theo đúng quy định thì họ phải tuân thủ dù tất cả các ngân hàng đều tìm cách "lách" mức trần này.
Kể từ khi có quy định về lãi suất thỏa thuận với các khoản vay trung dài hạn, các khoản vay có thời hạn 366 ngày tại các ngân hàng tăng đột biến. Lý do là 365 ngày được coi là vay ngắn hạn, còn 366 ngày thì được coi là vay trung dài  hạn. Với 366 ngày, ngân hàng được quyền thỏa thuận lãi suất vay với khách hàng; còn 365 ngày thì chỉ được cho vay tối đa là 12%/năm theo trần lãi suất hiện hành. Tổng giám đốc một ngân hàng gọi đây là "24 giờ định mệnh". Ông này nói: "Mở ra cho vay trung dài hạn được thỏa thuận lãi suất nhưng các tồn tại của trần lãi suất thì vẫn còn đó. Các ngân hàng thực chất đã có thể cho vay ngắn hạn với lãi suất thỏa thuận nhưng không được chính danh. Điều này cũng tạo ra những vấn đề không tốt cho tính minh bạch của hệ thống ngân hàng".
Một chuyên gia về tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước thì chia sẻ rằng, trần lãi suất huy động hiện nay đang làm khó cho người gửi tiền nhỏ (do không được hưởng lãi suất cao hơn 10,5%/năm) và chỉ có lợi cho người gửi tiền lớn (được ngân hàng thỏa thuận lãi suất thông qua các hình thức khác nhau). Thế nhưng, cơ quan quản lý vẫn có những "lý do tế nhị" nên chưa thể bỏ hẳn trần lãi suất huy động cũng như cho vay đối với ngắn hạn. Trên thực tế, các ngân hàng đều kiến nghị nên bỏ trần lãi suất bởi nó đã không còn phù hợp với sự phát triển của thị trường vào thời điểm hiện tại. "Nếu thấy cái gì không hợp lý, cản trở sự phát triển thì cũng nên hành động nhanh để tạo điều kiện cho ngân hàng cũng như nền kinh tế phát triển. Càng để chậm thì không chỉ ngân hàng mà doanh nghiệp cũng khổ", một lãnh đạo ngân hàng cổ phần tại TP.HCM nói.
3. Trang web Chính phủ phản ánh: Ngày 8/3, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định bổ nhiệm 3 Thứ trưởng mới của các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Giao thông vận tải.
Thủ tướng điều động, bổ nhiệm ông Bùi Quang Vinh, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai, giữ chức Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; ông Nguyễn Minh Quang, Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu, giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và bổ nhiệm ông Trương Tấn Viên, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, giữ chức Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
4. Báo Lao động phản ánh: Việc dưa hấu miền Trung ùn tắc ở cửa khẩu Lạng Sơn và bị ép giá rẻ mạt đến mức thảm hại những ngày gần đây không còn là chuyện lạ về phận bấp bênh của nông sản Việt bao nhiêu năm vẫn không có được một chỗ đứng chắc chân khi buôn bán với nước ngoài. Nhưng đâu phải chỉ riêng chuyện quả dưa ở cửa khẩu Lạng Sơn. Trước đây, đã có bao nhiêu bài học cay đắng về đủ loại hàng hóa xuất khẩu từ hạt điều, càphê, trà, caosu, tôm cá đến da - giày, hàng dệt - may… Thứ bị ép giá, thứ bị hất trả lại, cả nhà buôn lẫn nhà nông đều khóc không ra nước mắt. Vì sao vậy? Hàng chất lượng kém; dư lượng thuốc kích thích, thuốc bảo vệ thực vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép thị trường không chấp nhận là một lẽ. Nhưng ngay cả những mặt hàng có chất lượng tốt vẫn bị đối xử chẳng ra gì thì rõ ràng cần xem lại căn nguyên.
Ở đây, hệ thống chính sách khuyến nông, khuyến doanh có sai không? Có. Sai là khi có một chủ trương phát triển một ngành nghề nào đó thì đầu tư hộc tốc, đầu tư ồ ạt, nhìn thấy sản phẩm ra nhiều đã xem đấy là mỹ mãn mà không tính đến phải duy trì ngành sản xuất đó ở mức nào và thị trường cần nó phát triển đến đâu. Nông dân có sai không? Có. Mấy năm trước, dân mía đường méo mặt vì mía trồng ra không bán nổi. Nông dân Ba Vì phải đổ sữa nguyên liệu cho heo. Bà con vùng trung du cắn răng phá sạch hàng ngàn hécta rừng vải quả. Tất cả đều bởi sản phẩm làm ra không biết bán đi đâu. Ngư dân Quảng Ninh cũng như vậy, nghề nuôi tu hài ban đầu phát đạt chóng mặt. Giá bán lên tới 280 nghìn/kg sản phẩm. Nhà nhà thâm canh, mấy năm sau giá rẻ ê chề. Có lúc hội nông dân phát hoảng vì không có nguồn tiêu thụ.
Tâm lý nông dân: Lợi thì lao thục mạng. Sản phẩm chỉ muốn một mình mình có, độc chiếm thị trường, bán giá chót vót, không cần biết đến mục tiêu phát triển cộng đồng. Thất bại, trước thì kêu trời, sau trách chính quyền “không biết lo đầu ra”. Tâm lý kinh doanh cũng vậy: Phi tổ chức; bất cần đo đếm nhu cầu, trật tự, mạnh ai nấy lao, như tên chỉ nhắm một đích. Có lợi cá nhân là sẵn sàng phá giá cốt tháo thân. Bởi vậy, ngay buôn bán trong nước tự mình phá mình đã đủ khốn đốn. Buôn bán với bên ngoài, cung cách ấy không bị chèn ép, không bại mới là chuyện lạ.
Nông dân ta làm ăn đâu thua kém ai. Biết “Trông trời, trông đất, trông mây” - xưa như thế là ổn. Nay, thời buổi hội nhập, muốn sống được, sống khỏe, còn phải biết cả “Trông người, trông trước, trông sau”, có thế may chăng mới ổn.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài “Kiện báo chí: Lắm gian nan”. Bài báo lược trích, giới thiệu với bạn đọc bài viết của luật sư Nguyễn Thanh Lương (Công ty Luật hợp danh Liên Đoàn). Bài báo phản ánh: Việc xét xử những vụ kiện báo chí hiện đang gặp nhiều vướng mắc, khó khăn cả về hình thức lẫn nội dung.
Trước hết là vướng mắc về thẩm quyền giải quyết của tòa. Khoản 8 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự (khoản 7 Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cũ) xác định rõ tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí thuộc thẩm quyền của tòa. Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng quy định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ là tòa án nơi bị đơn có trụ sở pháp nhân. Quy định vậy nhưng trước đây, tòa án nơi có trụ sở của cơ quan báo chí vẫn từ chối nhận đơn với nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên gần đây, chuyện này đã tương đối sáng tỏ. Thông thường, tòa cấp huyện nơi có trụ sở chính của cơ quan báo chí chấp nhận thụ lý đơn kiện. Cũng có khi đương sự khởi kiện ngay tại tòa cấp huyện nơi mình cư trú và được thụ lý. Các trường hợp này, tòa xác định đây là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và nguyên đơn có quyền lựa chọn nơi khởi kiện là nơi mình cư trú hoặc nơi bị đơn có trụ sở.  
Một vướng mắc khác là đương sự có phải khiếu nại báo và chứng minh kết quả trả lời của cơ quan báo chí trước khi khởi kiện hay không. Đây là vấn đề báo chí đã đăng tải, bàn luận nhiều nhưng chưa thống nhất. Đến nay TAND Tối cao cũng chưa có hướng dẫn. Nhiều tòa dựa vào Điều 8 Luật Báo chí sửa đổi bổ sung năm 1999 (quyền yêu cầu cơ quan báo chí trả lời), Điều 9 (quyền phát biểu bằng văn bảnkhi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình) để cho rằng đương sự bắt buộc phải làm thủ tục này trước khi khởi kiện. Từ đó, tòa từ chối nhận đơn khi đương sự không có gì chứng minh mình có khiếu nại cơ quan báo chí. Thật ra, việc tòa hướng dẫn đương sự khiếu nại báo trước khi khởi kiện là nhằm tạo điều kiện cho cơ quan báo chí tự cải chính, tự sửa sai (nếu có sai), hoặc các bên tự thương lượng, hòa giải trước với nhau. Nhưng theo tôi, hiểu pháp luật như trên là nhầm lẫn, sai luật, máy móc, gây khó khăn cho đương sự bởi đó là quy định về quyền của đương sự chứ không phải nghĩa vụ. Không có quy định nào nói rằng đương sự bắt buộc phải khiếu nại, hòa giải trước khi kiện cơ quan báo chí đã đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống… Thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu của tòa, đương sự thường tự làm đơn thư khiếu nại hoặc nhờ luật sư gửi công văn đến cơ quan báo chí phân tích, dẫn chứng từ ngữ, nội dung đăng sai và đề nghị cải chính. Nếu cơ quan báo chí không phản hồi, đương sự có thể dùng những đơn thư, công văn này chứng minh với tòa là mình có đề nghị cơ quan báo chí xem xét, giải quyết bước đầu nhưng không có kết quả và đề nghị tòa thụ lý.
Đã gặp khó từ khâu khởi kiện, được tòa thụ lý rồi, người khởi kiện muốn chứng minh báo chí đăng tải thông tin sai cũng không hề đơn giản. Đương sự phải tự thu thập tài liệu chứng minh mình bị thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm… ra sao. Cạnh đó, việc chứng minh thiệt hại và yêu cầu bồi thường cũng bị hạn chế: Người lao động phổ thông, thuê mướn công nhật, làm việc thời vụ không thể có chứng từ chứng minh mức thu nhập hằng ngày, mức lương hằng tháng khi tính thu nhập bị mất do phải tốn thời gian, công sức vì vụ kiện. Đối với tổ chức, doanh nghiệp dễ dàng bị phá sản khi báo chí đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống làm giảm sút uy tín nhưng để chứng minh bị tụt giảm doanh thu hằng tháng, hằng quý thì rất vô vọng...
Báo cũng có bàiCông chức gây thiệt hại phải hoàn trả tối đa 36 tháng lương”.Bài báo phản ánh: Chính phủ vừa ban hành nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20-4. Theo đó, nhà nước chỉ bồi thường đối với những thiệt hại được quy định trong phạm vi của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Điểm đáng chú ý của nghị định này là trường hợp người bị thiệt hại không xác định được cơ quan bồi thường thì trong thời hạn năm ngày làm việc (kể từ ngày nhận được yêu cầu bằng văn bản của người bị thiệt hại), cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường phải có văn bản xác định cơ quan bồi thường. Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại nhưng tối đa không quá 36 tháng lương của người đó.
2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Mẫu giấy khai sinh mới quá sơ sài. Bài báo phản ánh: Điều 5 của Nghị định 158/CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch có hiệu lực từ ngày 1-4-2006, khẳng định: “Giấy khai sinh (GKS) là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về: họ tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán, quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với GKS của người đó…”. Tuy nhiên, nội dung ghi trong GKS hiện còn quá sơ sài, đã gây phiền hà cho người dân…
Bà Nguyễn Thị Hồng Phương, ngụ tại quận Tân Bình cho biết, vừa qua bà ra UBND phường làm GKS cho đứa cháu ngoại mới sinh. Nhận tờ “giấy thông hành” vào đời của đứa cháu, bà không khỏi xúc động… Song khi đọc GKS, bà rất thất vọng vì nội dung quá sơ sài, mặc dù hình thức hào nhoáng hơn trước. Đặc biệt, phần nội dung khai về cha mẹ lại không hề có thông tin cha mẹ làm nghề gì; bao nhiêu tuổi; quê quán ở đâu... mà chỉ vỏn vẹn có họ tên cha mẹ, “dân tộc Kinh, quốc tịch Việt Nam” là hết! Với cách khai về cha mẹ như vậy thì việc “tên trùng tên” là điều khó tránh khỏi...
Tại TPHCM đã có hơn 100 trường hợp bị trùng tên như vậy mà vẫn chưa có biện pháp tháo gỡ. Đáng nói, sau này lớn lên các cháu sẽ không biết rõ quê quán cha mẹ ở đâu, lúc sinh ra mình thì cha mẹ bao nhiêu tuổi, làm nghề gì, ngụ tại đâu… Và với thông tin chung chung về cha mẹ như vậy rất khó phân biệt về dòng dõi, thân thế là những điều rất cần biết.
Trong các loại giấy tờ tùy thân, GKS là loại giấy tờ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp sớm nhất cho một con người. Đối với mỗi người, sau khi có GKS - hộ tịch gốc - người đó có đủ mọi quyền và nghĩa vụ theo pháp luật với nhà nước và xã hội. Tất cả mọi thông số liên quan đến cuộc đời của mỗi công dân luôn bắt đầu từ hộ tịch gốc này. Thế nhưng hiện nay nội dung GKS vừa được cải tiến hóa ra lại quá sơ sài, gây phiền hà cho người dân.
Vừa qua, một số bậc cha mẹ ra sân bay Tân Sơn Nhất mua vé máy bay cho con về quê thăm ông bà đã bị nhân viên bán vé từ chối, vì lý do: không rõ nguồn gốc cha mẹ của đứa trẻ!? Bởi trên một chuyến bay có hàng trăm hành khách nên gặp cảnh… tên trùng tên. Để mua được vé máy bay cho con, nhiều người đã phải chạy về UBND phường xin xác nhận những thông số thiếu trong GKS như: “ông Nguyễn Văn A và bà Trần Thị B, tuổi…, quê quán…, hiện ngụ tại… đúng là cha mẹ ruột của cháu Nguyễn Văn C…”.
Trước tình trạng nội dung GKS có lỗ hổng như nêu trên, nhiều người đã phải thủ sẵn trong người những giấy tờ tùy thân khác để sẵn sàng bổ sung cho những nội dung thiếu trong GKS. Nhiều người nhận xét: “GKS trước đây đúng kích thước, nội dung kê khai đầy đủ, nay được cải tiến nhưng lại dở hơn”. Chưa hết, quy định đăng ký GKS còn chưa xác định rõ việc khai dân tộc cho trẻ thì phải theo dân tộc của cha hay mẹ; việc ghi quê quán thì phải ghi theo quê nội, nơi sinh của cha hay nơi thường trú của cha mẹ; nơi sinh của đứa trẻ thì nên ghi là tỉnh, TP hay tên bệnh viện nơi đứa trẻ sinh ra?...
Trước những bất cập nảy sinh trong mẫu GKS mới mà người dân phản ánh, ông Nguyễn Thái Phúc, Trưởng cơ quan đại diện Văn phòng 2, Bộ Tư pháp tại TPHCM, ghi nhận: “Văn phòng 2, Bộ Tư pháp đã phản ánh những bất cập và đề nghị Vụ Hành chính - Tư pháp Trung ương sớm điều chỉnh nội dung mẫu GKS cho chuẩn xác, phù hợp với thực tế cuộc sống để tạo thuận tiện cho người dân. Tuy nhiên, đến nay đơn vị vẫn còn chờ…”. Sở Tư pháp TPHCM cũng đã có công văn gửi Bộ Tư pháp đề nghị điều chỉnh những thiếu sót nêu trên, song đến nay ngành chức năng cũng chưa trả lời! Trước bức xúc chính đáng của người dân, mong các ngành chức năng quan tâm và sớm có biện pháp tháo gỡ.
3. Báo Tiền phong có bài Pháp luật “tiếp tay” đô la hoá. Bài báo phản ánh: Tìm hiểu pháp luật về quản lý ngoại hối, chúng tôi (PV báo Tiền Phong) phát hiện: Lâu nay, chính quy định của pháp luật về vấn đề này đã tiếp tay cho tình trạng đô la hóa nền kinh tế.
Giám đốc chi nhánh một ngân hàng cổ phần tâm sự với phóng viên: “Gia đình tôi đã 10 năm nay, mỗi khi có nguồn tiền thu về từ kinh doanh hay bán bất động sản, tôi đều chọn cách chuyển sang USD để gửi, bởi việc găm giữ USD là giải pháp an toàn nhất so với vàng hoặc tiền đồng, nhất là trong thời điểm lạm phát tăng cao...” . Còn chị Thanh, một cán bộ công chức công khai thừa nhận: “Từ lâu tôi chỉ giữ hai thứ là đô la Mỹ và vàng. Tôi lúc nào cũng có sẵn khoảng 5 số điện thoại, chỉ cần gọi điện là sẽ có người mang USD đến bán ngay”. Hỏi nếu lãi suất tiền gửi USD xuống thấp hơn so với gửi VND, chị sẽ gửi tiền gì? Chị khẳng định vẫn chọn giữ USD.
Trưởng một phòng giao dịch tại Hà Nội của Ngân hàng BIDV cho hay:  Tại phòng giao dịch này, hiện có khá đông khách hàng chọn gửi USD thay vì VND. “Ngay cả cuối năm 2007, khi lãi suất tiền đồng được đẩy lên tới ngưỡng 19%/năm, trong khi lãi suất huy động USD chỉ vài phần trăm, họ vẫn chọn gửi USD. Tâm lý này những tháng qua không thay đổi. Đa số đều chọn chuyển từ VND sang USD hoặc vàng. Lý do chủ yếu vẫn bởi người dân e ngại biến động của tỷ giá”- Vị này cho biết.
Lâu nay, khá nhiều người đã chọn cách mua USD để gửi ngân hàng. Bởi thực tế, theo họ, đó là cách lựa chọn an toàn và thông minh. Gửi USD không chỉ vì so sánh thiệt hơn về lãi suất, mà vì độ an toàn cao, bởi khi gửi loại tiền gì được ngân hàng cho rút bằng tiền đó. Theo một số chuyên gia, ở đây các ngân hàng vô hình trung đã tiếp taycho tình trạng đô la hóa của nền kinh tế. Hỏi giám đốc một ngân hàng, ông cho biết: Việc các ngân hàng cho phép khách hàng gửi tiền gì được rút tiền đó không có gì sai, bởi chính tại khoản 2, điều 24 Pháp lệnh ngoại hối qui định rõ: “Người cư trú là công dân VN được sử dụng ngoại tệ tiền mặt để gửi tiết kiệm tại tổ chức tín dụng, được rút tiền gốc và nhận tiền lãi bằng ngoại tệ tiền mặt”. “Chính quy định trên là một trong những nguyên nhân làm giá tăng tình trạng đô la hóa nền kinh tế tại Việt Nam, đồng thời phần nào khuyến khích người dân cất giữ USD”- Vị chuyên gia trên bình luận. Ông phân tích, nếu buộc người gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, khi rút phải quy đổi để nhận VND thì sẽ không xảy ra chuyện người dân chạy đôn đáo đi mua ngoại tệ ở chợ đen để gửi tiết kiệm, cũng không xảy ra chuyện khan hiếm ngoại tệ ở các ngân hàng như cuối năm 2009.
Bà Nguyễn Thu Hà, Phó Tổng giám đốc Vietcombank nhớ lại: Ngày xưa, thời lâu lắm rồi, có quy định gửi ngoại tệ buộc phải rút ra bằng tiền đồng. “Khi đó tồn tại song song cả tỷ giá kết toán nội bộ và tỷ giá quy đổi thanh toán và tỷ giá cho khách hàng bao giờ cũng cao hơn nhằm khuyến khích. Đúng là việc quay trở lại quy định cho phép gửi và rút bằng ngoại tệ cũng tạo ảnh hưởng tới thực tế đôla hóa”. Nhưng có một cái khó, theo bà Hà, nếu không, chúng ta sẽ không khuyến khích được kiều hối? Cũng chính quy định trên dẫn tới nhà nhà mua, găm giữ đô la, ngay cả các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp cũng săn đô la, hoặc nếu có họ cũng không muốn bán cho ngân hàng.
Nói về nguyên nhân giữ USD khi có nguồn thu ngoại tệ, ông Dương Chí Kiên, giám đốc một Cty xuất khẩu mỹ nghệ lý giải: Cty chúng tôi ngoài xuất khẩu mỹ nghệ còn song song cả nhập khẩu thiết bị y tế. Thay vì trông vào ngân hàng, chúng tôi phải tự cân đối nên phải giữ USD đề phòng. Có nên sửa Pháp lệnh ngoại hối, theo hướng quy định gửi ngoại tệ phải rút bằng nội tệ? Theo bà Trâm, cán bộ lâu năm trong lĩnh vực ngoại hối từng bôn ba cả NH quốc doanh lẫn cổ phần phân tích: Đây là điều cơ quan quản lý và các nhà làm luật nên nghiên cứu, bởi nó có thể sẽ giảm dần được tỷ lệ đô la hóa. 
Một mặt Pháp lệnh ngoại hối (được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 13-12-2005 và có hiệu lực kể từ ngày 1-6-2006) cho phép người gửi ngoại tệ được rút bằng ngoại tệ, mặt khác cũng chính pháp lệnh “Nghiêm cấm triệt để các giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng ngoại tệ giữa các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam; hạn chế đến chấm dứt việc các tổ chức được bán hàng, cung cấp dịch vụ thu ngoại tệ tại Việt Nam”.
Lãnh đạo một chi nhánh Viettinbank phân tích: “Thực ra việc người dân gửi USD vào ngân hàng và ngân hàng cho người dân rút ra bằng USD cũng là một giao dịch, thanh toán. Bởi thế, trong trường hợp này, những quy định trên trong Pháp lệnh ngoại hối là mâu thuẫn, đá nhau. Cũng theo cán bộ trên, việc cho phép người dân gửi gì rút nấy là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hỗn loạn, khó kiểm soát thị trường ngoại tệ.
Trong cơn lốc chạy đua mở các chi nhánh, phòng giao dịch, đa số hợp đồng thuê mặt bằng của các ngân hàng với tổ chức hoặc người dân đều được tính bằng giá USD, thậm chí thay vì chuyển khoản sang VND theo tỷ giá, nhiều ngân hàng dễ chấp thuận yêu cầu khi gia chủ đòi trả bằng ngoại tệ.  


File đính kèm