Trong buổi sáng ngày 27/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Gần đây có thông tin bột ngọt Vedan đạt giải thưởng “Top 100 sản phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng 2009”. Thông tin này gây bất bình trong dư luận vì Vedan từng có những vi phạm nghiêm trọng trong việc gây ô nhiễm môi trường sông Thị Vải và vẫn chưa giải xong bài toán bồi thường thiệt hại cho những nông dân bị ảnh hưởng bởi hậu quả ô nhiễm mà Vedan gây ra. Giải thưởng trên do Cơ quan đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ tại TP.HCM phối hợp với Trung tâm Tư vấn phát triển thương hiệu và chất lượng TP.HCM (NATUSI) tổ chức và trao giải vào ngày 11-10. Doanh nghiệp tham gia chương trình này được giải thì sẽ được ban tổ chức chương trình tuyên dương và được trao giấy gọi nôm na là giấy tuyên dương.
Chiều 26-10, ông Bùi Văn Quyền, Vụ trưởng và là Trưởng đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ tại TP.HCM, cam đoan Vedan và sản phẩm của Vedan không có trong danh sách được giải. Ông Quyền đã đưa ra quyết định trao tặng mà ông ký vào ngày 5-10, kèm theo quyết định là danh sách doanh nghiệp được giải, không có tên Vedan. Tuy nhiên, ông Quyền thừa nhận đã có ký tên khống vào một số giấy tuyên dương. Khi ông ký, một số giấy đã được điền tên doanh nghiệp đạt giải, một số thì chưa! Ông Quyền không nhớ mình đã ký bao nhiêu giấy. Ông cho biết: Việc in các giấy này, điền tên doanh nghiệp vào đó đều do NATUSI đảm nhận.
Chiều 26-10, bà Nguyễn Thị Sinh, Giám đốc NATUSI, cho biết trong lần tổ chức vừa qua, sau khi nhận hồ sơ doanh nghiệp tham gia giải thưởng, trung tâm có đề xuất danh sách khoảng 120, 130 doanh nghiệp để hội đồng xét thưởng chấm điểm, xét giải. Sau đó, hội đồng xét thưởng có chọn 41 doanh nghiệp đạt giải “Doanh nghiệp ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng xuất sắc năm 2009”, 50 doanh nghiệp có sản phẩm đạt giải “Sản phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng năm 2009”. Bà cũng cam đoan là Vedan không có tên trong danh sách doanh nghiệp và sản phẩm được giải và cũng không được trao giải tại buổi lễ.
Thế nhưng cũng chiều qua, chính Công ty Vedan đã cung cấp cho báo chí ba giấy tuyên dương của ban tổ chức tặng cho ba sản phẩm “an toàn vì sức khỏe cộng đồng năm 2009” của Vedan. Đó là bột ngọt Vedan, tinh bột biến đổi và Vedan hạt nêm thịt heo. Vedan cho biết việc tham gia giải thưởng này là theo đúng quy chế mà ban tổ chức đề ra. Buổi lễ được tổ chức nghiêm túc, có sự tham gia của nhiều đại diện các cơ quan quản lý của trung ương và địa phương. Một nguồn tin của Vedan cũng khẳng định còn lưu những bức ảnh chụp hôm lễ trao giải. Ban tổ chức có mời Vedan lên để nhận ba giấy tuyên dương này. Thậm chí mỗi người đến tham dự buổi trao giải đều được tặng một túi quà, trong đó có tờ báo đăng danh sách được giải có tên Vedan trong đó (?).
Tuy tuyên bố chắc nịch là Vedan không có giải nhưng trước những giấy tuyên dương mà Vedan có, bà Nguyễn Thị Sinh lại cho biết: “Chúng tôi sẽ kiểm tra lại các khâu và yêu cầu Vedan giải thích xem tại sao lại có giấy này”. Bà Sinh cũng cho rằng danh sách mà báo đăng, danh sách đăng trên trang web của NATUSI có tên Vedan là do... lỗi kỹ thuật, “có thể do nhân viên của trung tâm đã đưa danh sách đề cử mà quên đưa danh sách đạt giải”. Trong hợp đồng tham gia chương trình tuyên dương mà NATUSI ký với doanh nghiệp tham gia có điều khoản: Trường hợp doanh nghiệp không đạt được kết quả xét chọn thì NATUSI hoàn trả toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã nộp trong vòng 10 ngày kể từ ngày kết thúc chương trình. Bà Sinh cho biết: Vedan có ký hợp đồng 15 triệu đồng để đăng ký cho ba sản phẩm trên tham gia chương trình (mỗi sản phẩm năm triệu đồng). Thế nhưng đến nay NATUSI vẫn chưa hoàn trả tiền cho Vedan.
Báo cũng phản ánh: Một lần nữa Cục Hàng không Việt Nam lại có ý kiến phản đối việc sử dụng thương hiệu Jetstar tại Việt Nam của Công ty cổ phần Hàng không Jetstar Pacific Airlines. Xung quanh vấn đề này còn có nhiều ý kiến trái ngược nhau về, thương quyền, thương hiệu giữa cơ quan quản lý với hãng hàng không. Việc tranh cãi bất phân thắng bại về thương hiệu, thương quyền Jetstar tại Việt Nam đã âm ỉ hơn một năm qua giữa Cục Hàng không và Jetstar Pacific.
Giữa tháng 4-2008, Jetstar Pacific chính thức chuyển đổi thành mô hình hãng hàng không giá rẻ với sự góp vốn của Tập đoàn Qantas (Úc). Tuy nhiên kể từ đó đến nay, hãng này liên tục bị Cục Hàng không yêu cầu chấm dứt sử dụng thương hiệu, logo... của Hãng hàng không Jetstar Airways (thuộc Tập đoàn Qantas). Lý do này là một trong những nguyên nhân để Cục Hàng không không cấp thương quyền cho hãng này bay tới 10 điểm quốc tế. Trong công văn gửi Bộ Giao thông Vận tải ngày 22-10, Cục Hàng không nêu: Dù chưa đăng ký chính thức vào giấy phép kinh doanh vận chuyển hàng không nhưng hiện nay Jetstar Pacific đang sử dụng tràn lan biểu tượng “Jetstar”, “Jet và hình ngôi sao”. Jetstar Pacific quảng cáo cho dịch vụ của chính mình mà không khác gì quảng cáo cho Jetstar Airways với lời quảng cáo “Jetstar là hãng hàng không giá rẻ tại Việt Nam”. Theo Cục Hàng không, đây chính là sự mập mờ biến biểu tượng thành tên thương mại chung của các hãng hàng không độc lập.
Cục Hàng không khẳng định, dù Jetstar Pacific đã hoàn tất thủ tục đăng ký về nhượng quyền thương hiệu và nhượng quyền thương mại với Cục Sở hữu trí tuệ và Bộ Công thương nhưng những thủ tục này không thể thay thế cho các pháp luật chuyên ngành khác mà Jetstar Pacific có nghĩa vụ phải tuân thủ. Jetstar Pacific không thể dùng các giấy chứng nhận đó để thực hiện hoạt động kinh doanh của mình trái với quy định của pháp luật về hàng không dân dụng. Về phần mình, Jetstar Pacific đã nhiều lần báo cáo Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải và cơ quan chủ quản của Jetstar Pacific là Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Trong các văn bản này, Jetstar Pacific chứng minh rằng việc sử dụng thương hiệu Jetstar tại Việt Nam là hợp lệ và không đi ngược với khuôn khổ luật pháp.
Theo Tổng Giám đốc Jetstar Pacific Lương Hoài Nam, việc sử dụng thương hiệu Jetstar của hãng là hoàn toàn phù hợp với Luật Sở hữu trí tuệ. Một khi việc nhượng quyền được thực hiện phù hợp với Luật Sở hữu trí tuệ trong khi Luật Hàng không không có bất kỳ quy định hạn chế nào về thương hiệu thì không thể nói việc nhượng quyền lại vi phạm Luật Hàng không. Ông Nam cho biết Jetstar không phải là một hãng hàng không mà là một thương hiệu được ba hãng hàng không Jetstar Airways (Úc), Jetstar Asia Airways (Singapore) và Jetstar Pacific Airlines (Việt Nam) cùng sử dụng. Vì vậy, không có bất kỳ hãng hàng không nước ngoài nào với thương hiệu Jetstar được khai thác nội địa ngoài hãng hàng không của Việt Nam là Jetstar Pacific. Điều này tương tự như Air Asia Malaysia (Malaysia), Thai Air Asia (Thái Lan), Indonesia Air Asia (Indonesia) là ba hãng hàng không của ba nước khác nhau nhưng cùng sử dụng chung một thương hiệu là Air Aisa của Air Asia Malaysia.
Luật Hàng không hiện hành và các nghị định của Chính phủ liên quan đến hàng không cho phép các nhà đầu tư nước ngoài (kể cả các hãng hàng không nước ngoài) gián tiếp khai thác vận chuyển hàng không nội địa và quốc tế của Việt Nam thông qua việc đầu tư vốn vào các hãng hàng không Việt Nam. Như vậy việc Tập đoàn Qantas gián tiếp khai thác thương quyền vận chuyển hàng không Việt Nam thông qua đầu tư vốn vào Jetstar Pacific hiện tại chiếm 27% (luật cho phép chiếm 30%) là phù hợp với pháp luật Việt Nam. Về bản chất, việc Qantas đầu tư vào Jetstar Pacific và gián tiếp khai thác các thương quyền vận chuyển của Việt Nam tương tự như Vietnam Airlines đầu tư vào hãng hàng không Cambodia Angkor (Campuchia) và gián tiếp khai thác các thương quyền vận chuyển hàng không của đất nước này. Chưa kể là mới đây Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc cho phép Vietnam Airlines được bán tối đa 20% cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ gián tiếp khai thác thương quyền bay nội địa Việt Nam thông qua việc có cổ phần ở Vietnam Airlines.
2. Trang web infotv.vn phản ánh: Bảo đảm đến thời điểm ngày 1/7/2010, tất cả các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện có đều chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty THHH. Các đề án này trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt trong quý III/2009.Đây là một trong những nội dung quan trọng trong Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Kết luận số 45-KL/TW ngày 10/4/2009 của Bộ Chính trị trong việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước và bổ sung chính sách chuyển doanh nghiệp (DN) 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Thủ tướng lưu ý, trong khi chưa sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai, khi quyết định giá trị DN để cổ phần hóa phải tính giá trị lợi thế kinh doanh của DN. Trước khi phê duyệt phương án cổ phần hóa, cơ quan quyết định cổ phần hóa chỉ đạo DN cổ phần hóa xây dựng phương án sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và mục đích kinh doanh. Đối với diện tích đất không nằm trong phương án sử dụng đất được phê duyệt thì phải trả lại Nhà nước.
3. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Với bản ghi nhớ hợp tác ký kết giữa Quốc hội Việt Nam và Vương quốc Anh chiều 26/10 tại Hà Nội, lần đầu tiên, Quốc hội sẽ thực hiện mô hình đại biểu tiếp xúc cử tri qua mạng thông qua một trang thông tin điện tử kết nối trực tuyến. Theo dự kiến, trang web sẽ được đưa vào sử dụng vào đầu năm 2010. Trang web này lần đầu tiên kết nối trực tuyến các đại biểu Quốc hội với người dân. Thông qua đây, người dân có thể trao đổi, đưa ra những câu hỏi và nhận được các câu trả lời từ đại biểu Quốc hội về mọi vấn đề mà người dân quan tâm.
Tại lễ ký, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng: “Việc đưa vào sử dụng trang web này sẽ góp phần tạo điều kiện để người dân tham gia tốt hơn vào quá trình hoạch định chính sách, đồng thời tăng cường mối quan hệ giữa các đại biểu dân cử với người dân”. Nhận định dự án giới thiệu một hình thức mới để người dân Việt Nam tham gia vào các công việc của Nhà nước, Đại sứ Vương quốc Anh và Bắc Ai-len tại Việt Nam Mark Kent hy vọng nó sẽ mang lại lợi ích "cho cả đại biểu Quốc hội và cử tri Việt Nam". Đây là dự án thí điểm, được triển khai trong 6 tháng, bắt đầu từ tháng 10 này, với tổng ngân sách 30.000 bảng Anh. Sau khi hoàn thành, trang web sẽ được bàn giao cho Văn phòng Quốc hội quản lý và sử dụng, phục vụ các hoạt động của Quốc hội Việt Nam.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 26-10, Bộ Tư pháp tổ chức buổi tọa đàm góp ý dự thảo báo cáo tổng kết kiến nghị về chuyện thi hành án hành chính. Bộ đề xuất nhiều giải pháp để chấm dứt tình trạng thi hành án hành chính lâu nay không ai giám sát.
Theo Bộ Tư pháp, hầu hết các bản án, quyết định về hành chính của tòa án chỉ tuyên xử công nhận, hủy bỏ hay sửa một phần quyết định của cơ quan hành chính mà không tuyên cụ thể quyền và nghĩa vụ về tài sản như quyết định hành chính đã ban hành. Chẳng hạn, UBND quận ra quyết định cưỡng chế tháo dỡ căn nhà xây lấn phần đất là lối đi chung. Sau đó, đương sự kiện và tòa đã tuyên hủy quyết định cưỡng chế của UBND vì không chứng minh phần đất này là đất công. Tuy nhiên, trong bản án lại không nói rõ phần đất này sẽ thuộc về ai. Cách khác, tòa tuyên hủy quyết định của UBND theo đơn kiện của người dân nhưng không giải quyết luôn quyền lợi cho họ.
Bộ cũng cho rằng Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định thủ trưởng cơ quan cấp trên có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính. Tuy nhiên lại không có quy định trách nhiệm của tòa án trong việc gửi bản án, quyết định hoặc thông báo, kiến nghị cho cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Vì vậy, sau 13 năm thi hành pháp lệnh nhưng chưa có một cơ quan nào thống kê, theo dõi các bản án hành chính. Đây cũng là nguyên nhân người thua kiện không tự thi hành án cũng chẳng sao.
Từ nhận định trên, Bộ đề xuất: Khi tòa án xét xử vụ kiện hành chính, cần tuyên cụ thể phần tài sản và quyền về tài sản, quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi tuyên hủy quyết định hành chính, tòa cần tuyên rõ “khi án có hiệu lực, quyết định hành chính đương nhiên bị hủy” để tránh chuyện hiểu lấp lửng, không chịu hủy quyết định hành chính vì lý do không có thời hạn. Để tránh chuyện không ai giám sát, Bộ cho rằng cần quy định cụ thể trách nhiệm của UBND cấp tỉnh và cơ quan tham mưu trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định hành chính của tòa. Giao thẩm quyền cho cơ quan thi hành án tổ chức thi hành tất cả nội dung trong bản án, quyết định về vụ án hành chính.
Thi hành án dân sự TP.HCM cho rằng Cục Thi hành án có văn bản hướng dẫn các nội dung mới nêu trên khi giao cơ quan thi hành án thi hành tất cả nội dung trong bản án, quyết định hành chính. (Trước đây, Cục có văn bản hướng dẫn nhưng chỉ nêu việc thi hành phần tài sản chứ không nêu các nội dung khác.)
Ông Đặng Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự-hành chính (Bộ Tư pháp), cho biết Bộ sẽ tiếp thu những góp ý, tham khảo thêm các cơ quan liên quan để hoàn thiện kiến nghị.
Báo cũng có bài Thừa phát lại được hỗ trợ từ nhiều phía. Bài báo phản ánh: Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính, người trực tiếp chỉ đạo đề án thí điểm thừa phát lại tại TP.HCM, cho biết: “Khi triển khai đề án, có ý kiến cho rằng không nên giao cho thừa phát lại trực tiếp tổ chức thi hành án. Nhưng không lẽ thấy khó rồi không làm? Trong giai đoạn thí điểm này nên giao cho họ thực hiện để thấy kết quả như thế nào. Dĩ nhiên là gánh nặng thi hành án vẫn chủ yếu do chấp hành viên mang, thừa phát lại chỉ là người tham gia khi người dân yêu cầu”.
Ông Chính nói rằng Bộ Tư pháp, Thành ủy, UBND TP.HCM sẽ tạo nhiều điều kiện để thừa phát lại thực hiện tốt những chức năng của mình, phần còn lại phụ thuộc vào năng lực của các thừa phát lại. “Họ là tư nhân, không nắm quyền lực công thì họ có những thế mạnh khác. Việc họ là người ngoài nhà nước cũng là một ưu thế vì họ có tính chủ động, linh hoạt cao. Ngoài ra, thừa phát lại phải giỏi thuyết phục. Giải thích luật lệ cho các bên hiểu và tuân theo mới là thượng sách, nếu cưỡng chế thi hành án là hạ sách rồi. Đương nhiên không thể tránh khỏi những trường hợp phải cưỡng chế và quy định hiện hành cũng trao cho thừa phát lại thẩm quyền này, trừ trường hợp cần huy động lực lượng bảo vệ thì phải có phê duyệt của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự TP”.
Với mô hình mới mẻ này, liệu người dân có dám tin tưởng lựa chọn? Ông Trần Văn Bảy, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp TP.HCM, nói: “Tôi tin rằng người dân sẽ dần dần quen với nghề thừa phát lại, cũng như đã quen với các văn phòng công chứng. Khi năng lực của đội ngũ thừa phát lại được chứng minh, họ sẽ xây dựng được lòng tin ở người dân”. Được biết, ở Pháp chẳng hạn, việc thi hành án dân sự được coi là việc tư, chỉ liên quan đến các đương sự với nhau và được thực hiện thông qua thừa phát lại.
Không khoác lên người chiếc áo công quyền nhưng thừa phát lại có chức năng gần giống như một chấp hành viên. Trưởng Thi hành án dân sự TP.HCM Nguyễn Văn Lực cam kết: “Với kinh nghiệm của mình, chúng tôi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thừa phát lại hoạt động, sẽ hỗ trợ họ về mặt nghiệp vụ khi có yêu cầu”. Nhưng người dân vẫn có nhiều nỗi lo: “Tôi bỏ tiền ra để nhờ thừa phát lại lập vi bằng, liệu vi bằng đó có được tòa án chấp nhận?”. Chánh án TAND TP.HCM Bùi Hoàng Danh khẳng định: “Nhà nước đã thừa nhận tư cách của thừa phát lại thì vi bằng của họ lập đương nhiên có giá trị pháp lý nếu đáp ứng về mặt nội dung, hình thức theo quy định”.
Thực tế sẽ xảy ra những trường hợp người phải thi hành án cư trú ở tỉnh, lấy gì bảo đảm cơ quan chức năng ở tỉnh sẽ phối hợp với thừa phát lại của TP.HCM? Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Trần Văn Bảy nói: “Thí điểm tại TP.HCM nhưng Nghị định 61 ngày 24-7-2009 của Chính phủ (về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thí điểm tại TP.HCM) có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc. Do đó, các cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp với thừa phát lại khi có yêu cầu”.
Ông Trần Dũng, Trưởng phòng Pháp chế Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), khẳng định: “Tuy là lực lượng tư nhân nhưng thừa phát lại thực hiện chức năng công quyền theo chủ trương xã hội hóa của nhà nước. Như trong việc phong tỏa tài khoản, thay vì chấp hành viên của cơ quan thi hành án ra quyết định phong tỏa thì thừa phát lại cũng được quyền ra quyết định. Do vậy, ngân hàng sẽ sẵn sàng phối hợp với các tổ chức thừa phát lại, kể cả khi chưa có văn bản hướng dẫn. Ngân hàng đối với cơ quan thi hành án như thế nào thì đối với thừa phát lại như thế đó, không có sự phân biệt”.
Riêng ông Trần Trọng Tuấn, Chủ tịch UBND huyện Bình Chánh, băn khoăn: “Đồng ý là UBND quận, huyện phải phối hợp với thừa phát lại nhưng cụ thể thế nào thì chưa có cơ chế. Các cơ quan chức năng cần sớm có văn bản hướng dẫn”.
“Tất nhiên là đề án đang ở giai đoạn thí điểm nên có nhiều vấn đề không thể lường trước được. Nhưng thực tiễn phát sinh thế nào thì Bộ Tư pháp sẽ kịp thời ra hướng dẫn” - Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính nói. Phát biểu hôm khai giảng lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thừa phát lại lần đầu tiên tổ chức tại TP.HCM trong tháng 10-2009, Thứ trưởng Chính tin tưởng vào sự thành công của mô hình thừa phát lại: “Các anh chị phải thấy được niềm tự hào của những người đi đầu khai phá. Mong rằng sau thời kỳ thí điểm, mô hình này được nhân rộng lên”.
Báo cũng có bài Sau công chứng tư đến thi hành án tư. Bài báo phản ánh: “Nhiều người lớn tuổi vẫn nhớ hình ảnh ông áo đen ngày xưa. Ông ấy không phải là người nhà nước nhưng gánh việc công quyền nên dân nể lắm. Những người mặc áo đen ngày ấy là thừa phát lại, hay còn gọi là chưởng tòa, mõ tòa...” - luật sư Phạm Đức Hinh, người từng làm thừa phát lại trong chế độ cũ kể. Gắn bó và say mê nghề thừa phát lại, ông Hinh đã làm hẳn một tiểu luận về áo đen kèm trong đơn xin tham gia khóa bồi dưỡng nghiệp vụ về thừa phát lại được Bộ Tư pháp tổ chức trong tháng 10 tại TP.HCM. Lần đầu tiên kể từ sau giải phóng, các văn phòng thừa phát lại sẽ được thí điểm thành lập tại năm quận: 1, 5, 8, Bình Thạnh và Tân Bình (TP.HCM) vào cuối năm 2009. Đây là năm quận mà công tác thi hành án dân sự đang bị quá tải.
Hầu như bất kỳ một thư ký tòa án hoặc một chấp hành viên nào đều gặp phải những đương sự thích chơi trò trốn tìm. Họ đi khỏi nơi cư trú, không chịu ký nhận văn bản... khiến các thư ký tòa hoặc chấp hành viên chẳng biết đường nào lần. Thế là họ phải phối hợp với chính quyền địa phương, làm thủ tục niêm yết công khai, thông báo trên báo, đài... Khi các văn phòng thừa phát lại được thành lập, các tòa án, cơ quan thi hành án dân sự có thể ký hợp đồng với văn phòng thừa phát lại để nơi này thực hiện việc tống đạt văn bản. “Khi đó, họ có thể tập trung cho chuyên môn chứ hiện nay, ước tính mỗi năm tòa án và cơ quan thi hành án tại TP.HCM phải tống đạt gần 1,5 triệu văn bản, chiếm rất nhiều thời gian” - ông Trần Văn Bảy, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp (Sở Tư pháp TP.HCM), cho biết.
Không chỉ là người tống đạt giấy tờ mà thừa phát lại còn có quyền hạn không thua gì chấp hành viên. Trước tiên, họ có quyền xác minh điều kiện thi hành án dân sự theo yêu cầu của bên được thi hành án. Người được thi hành án có thể sử dụng kết quả xác minh này để yêu cầu thi hành án. Cần biết rằng theo Luật Thi hành án dân sự thì nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án thuộc về người được thi hành án. Nhưng một cá nhân thì khó có đủ điều kiện, khả năng để xác minh. Nay họ có thể ký hợp đồng nhờ thừa phát lại làm việc này.
Anh Trần Văn Tâm (Bình Hưng Hòa A, Bình Tân) nói: “Hồi tôi bôn ba đòi cho được bốn chỉ vàng, giá mà có thừa phát lại thì tôi đã đỡ khổ”. 10 năm trước, anh hùn vốn với bà T. để cùng nuôi bò nhưng sau đó bà T. không chịu trả lại tiền. Khi anh kiện, tòa án tuyên bà T. phải trả cho anh bốn chỉ vàng. Từ dạo đó anh cứ phải đi “canh me” bà T. Hễ thấy bà này rinh chút tài sản nào về nhà là anh báo ngay cho cơ quan thi hành án quận để nơi này kê biên. “Nếu có thừa phát lại thì tôi khoán hết cho họ làm chứ hơi đâu tự mình đi theo dõi, vì tôi chỉ “rình” được những tài sản trông thấy được như tivi, xe máy chứ còn tiền mặt của bà T. có bao nhiêu hoặc bà T. có đem gửi tiền vô ngân hàng nào hay không thì tôi chịu” - anh Tâm nói.
Điểm đặc biệt của việc thí điểm thừa phát lại là lần đầu tiên người dân có quyền lựa chọn cơ quan tổ chức thực hiện việc thi hành án. Trước nay chỉ có mỗi cơ quan thi hành án dân sự đảm nhận việc này. Ông Nguyễn Văn Lực. Trưởng Thi hành án dân sự TP.HCM, cho biết: “Trung bình mỗi năm một chấp hành viên gánh vác chừng... 400 hồ sơ! Hằng năm, TP.HCM thi hành xong từ 40 ngàn đến 50 ngàn hồ sơ nhưng lượng việc phát sinh mới cũng tương đương chừng ấy, không thể tránh khỏi tồn đọng. Dù ngành đã tăng cường nhân sự nhưng không thể đáp ứng được yêu cầu công việc”.
Như vậy, lực lượng thừa phát lại ra đời không những giúp giảm tải cho thi hành án mà còn biến công tác thi hành án trở thành một loại hình dịch vụ mới. Khi bản án, quyết định của tòa có hiệu lực thi hành, nếu không muốn nhờ cơ quan thi hành án, người được thi hành án có thể làm đơn yêu cầu thừa phát lại tổ chức thực hiện bản án. Lực lượng thừa phát lại còn trám được một khoảng trống của pháp luật thông qua việc lập vi bằng (văn bản ghi nhận lại những hành vi, sự kiện mà thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, có thể kèm theo hình ảnh, băng hình và tài liệu chứng minh khác). Trước đó, chưa từng có văn bản nào đề cập đến việc lập một loại vi bằng dùng làm chứng cứ để tòa án xem xét trong quá trình xét xử vụ án dân sự.
Nói đến vi bằng, nhiều người hiểu lầm rằng cứ hễ có việc gì cần lưu giữ chứng cứ là “a lô” cho thừa phát lại đến. Chẳng hạn, ông A nghi ngờ vợ ngoại tình thì có thể nhờ thừa phát lại xông vào nhà nghỉ rồi chụp ảnh, quay phim, lập vi bằng ghi nhận vợ ông đang “vui vẻ” cùng người đàn ông khác. Ông A sẽ dùng những chứng cứ đó để nộp hồ sơ xin ly hôn. “Cách hiểu đó không đúng” - Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Trần Văn Bảy nói. “Thừa phát lại lập vi bằng khi đương sự yêu cầu, trừ trường hợp vi phạm về bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp pháp luật cấm”. Trong trường hợp cụ thể nêu trên, nếu thừa phát lại mà đi rình rập đời tư người khác thì là tự hạ thấp hình ảnh của mình và xâm phạm đời tư người khác. Cần phải xóa nhận thức hễ có tiền là thuê được thừa phát lại làm mọi thứ. Thừa phát lại có quyền từ chối những yêu cầu không phù hợp”.
Ngoài phạm vi pháp luật cấm, vi bằng có thể được lập trong rất nhiều trường hợp. Chẳng hạn sau khi ly hôn, người mẹ đối xử không tốt với con, đánh đập, bỏ đói trẻ. Người chồng có thể mời thừa phát lại đến lập vi bằng và trên cơ sở đó yêu cầu tòa xử cho mình được nuôi con. Tất nhiên, nếu bạn “a lô” cho thừa phát lại để nhờ họ lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án thì hai bên sẽ lập hợp đồng và bạn phải trả tiền cho thừa phát lại với mức phí thỏa thuận. Kể cả tòa án và cơ quan thi hành án, nếu muốn thừa phát lại đi tống đạt văn bản, hai cơ quan trên cũng phải trả tiền.
2. Báo điện tử Vietnamnet có bài Bộ Tư pháp: Việt Nam phải xây dựng Luật bảo vệ nhân chứng. Bài báo phản ánh: Trong hai ngày 26 và 27/10, Thanh tra Chính phủ, với sự tài trợ của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của LHQ (UNODC), Chương trình phát triển LHQ (UNDP) và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), tổ chức hội thảo thực thi Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Công ước của LHQ về chống tham nhũng.
Việt Nam đã thông qua Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 vào tháng 5 và tham gia Công ước của LHQ về chống tham nhũng hồi tháng 6 vừa qua. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Để thực thi Công ước, Việt Nam bắt buộc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, nội luật hóa một số các yêu cầu phù hợp của Công ước, tuân thủ các nguyên tắc quốc tế. Trong đó có quy định vấn đề giám sát chặt chẽ tài khoản của những người đã hoặc đang giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thành viên trong gia đình hoặc cộng sự thân tín của họ, nhằm mục đích phát hiện các giao dịch đáng ngờ (khoản 1, điều 52 của Công ước). Liên quan đến việc minh bạch tài sản, thu nhập, theo Văn phòng Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng, đến nay đã có 32 bộ, cơ quan ở trung ương và 26 địa phương báo cáo hoàn thành việc kê khai tài sản, thu nhập năm 2008. Có 552 người đã được xác minh việc kê khai tài sản, thu nhập, "bước đầu phát hiện một số trường hợp không trung thực, các cơ quan chức năng đang xem xét xử lý". Một trong những quy định bắt buộc khác phải nội luật hóa theo Công ước, đó là quy định về việc thành lập cơ quan tình báo tài chính. Tham luận của đại diện Bộ Tư pháp tại hội thảo cũng cho hay để thực thi hiệu quả Công ước, Việt Nam phải tiến hành xây dựng luật riêng về bảo vệ nhân chứng. Các quy định hiện hành về bảo vệ người tố cáo tham nhũng hiện còn "chung chung", pháp luật Việt Nam cũng "chưa có cơ chế thực hiện các biện pháp bảo vệ cũng như chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong việc bảo đảm sự an toàn cho người tố giác tội phạm". Trong khi đó, việc thực hiện các quy định về bảo vệ người cung cấp chứng cứ, theo quy định của Công ước, đòi hỏi phải có đủ phương tiện vật chất và nguồn tài chính cần thiết, chẳng hạn như tổ chức lấy lời khai thông qua phương tiện viễn thông hiện đại. Cũng theo Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng, từ nay đến năm 2011. Việt Nam sẽ thực hiện các giải pháp về tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động công quyền.
Ông Jairo Acuna - Alfaro, chuyên gia của UNDP tại Việt Nam cho rằng về cơ bản, Công ước không thể thay thế cho các văn bản pháp lý mạnh mẽ hơn ở cấp quốc gia. Công ước cũng không nên được xem là một kế hoạch hay lộ trình rập khuôn. Việc phê chuẩn Công ước sẽ góp phần tăng cường và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về phòng, chống tham nhũng hiện nay của Việt Nam.
Theo một luật sư , Nghị định 103 năm 2006 hướng dẫn về sở hữu công nghiệp có yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn việc đặt tên doanh nghiệp trong thủ tục đăng ký kinh doanh để bảo đảm không xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước. Tuy nhiên cho đến nay, hai bộ này vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn vấn đề trên. Trong khi đó, Nghị định 88 năm 2006 về đăng ký kinh doanh lại đẩy trách nhiệm cho doanh nghiệp khi quy định “doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật” nếu vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp khác. Nếu doanh nghiệp vô tình vi phạm khi đặt tên doanh nghiệp, đến khi bị phát hiện, doanh nghiệp lại phải đổi tên thì phần vất vả thuộc về doanh nghiệp.