ĐIỂM TIN BÁO CHÍ NGÀY 30/7 VÀ SÁNG NGÀY 31/7/2014

31/07/2014
Trong ngày 30/7 và đầu giờ sáng ngày 31/7/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Sohanews có bài: Sáng mai xử lại vụ án từng bị cưỡng chế thi hành trái pháp luật. Bài báo phản ánh: 7h30 sáng 31/7/2014, TAND TP Việt Trì (Phú Thọ) sẽ đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án Kinh doanh thương mại về việc: "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam với bị đơn là Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại Việt Hưng tại trụ sở TAND TP Việt Trì - Phú Thọ. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa là ông Vũ Bình Phương.

Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì - tỉnh Phú Thọ (đại diện theo ủy quyền là ông Đặng Xuân Quang - Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án TP. Việt Trì) là đơn vị có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tuy nhiên, hiện nay Chi cục THADS TP Việt Trì đã có công văn gửi TAND TP Việt Trì từ chối tham gia tố tụng và không tham gia phiên tòa xét xử ngày 31/7/2014 sắp tới. Theo luật sư Trương Quốc Hòe - người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn -  thì việc làm này đã gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Việt Hưng.

Nếu trong phiên tòa Công ty Việt Hưng thỏa thuận được số nợ và thời hạn trả nợ với ngân hàng thì tài sản thế chấp của công ty là nhà hàng Phù Đổng sẽ giải quyết như thế nào. Nếu người mua đấu giá trong vụ án này không phải là Ngân hàng công thương Việt Nam mà Chi cục THADS TP Việt Trì không tham gia phiên xét xử thì tài sản của Công ty Việt Hưng sẽ thuộc về ai.

Như vậy, việc Chi cục THADS TP Việt Trì từ chối tham gia tố tụng là trái với quy định của pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty CPĐT TM Việt Hưng.

Trước đó, ngày 22/01/2014, Ủy ban thẩm phán TAND tỉnh Phú Thọ đã mở phiên tòa xét xử Giám đốc thẩm Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 16/2012. Tại phiên tòa, HĐXX xét thấy “Khi hòa giải và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, ông Nguyễn Minh Sơn không có giấy ủy quyền của ông Nguyễn Ngọc Hoàn là người đại diện theo pháp luật của công ty CPĐT thương mại Việt Hưng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự, vi phạm khoản 2 điều 283 Bộ luật Tố tụng Dân sự và làm ảnh hưởng tới quyền lợi của Công ty CPĐT thương mại Việt Hưng”.

Cũng tại phiên tòa Giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND tỉnh Phú Thọ Hủy Quyết định số 16/2012/QĐST-KDTM ngày 23/7/2012 của TAND TP Việt Trì. Tạm đình chỉ thi hành án Quyết định số 16/2012...

Sau khi xem xét các chứng cứ và đối chiếu với quy định pháp luật, HĐXX Giám đốc thẩm đã Quyết định

“1. Chấp nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2014/QĐKN-GĐT-KDTM ngày 09/01/2014 của Chánh án TAND tỉnh Phú Thọ.

2. Hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 16/2012/ADDST-KDTM ngày 23/07/2012 của TAND TP Việt Trì.

Giao hồ sơ TAND TP Việt Trì giải quyết sơ thẩm lại theo thủ tục chung”.

Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 16/2012 giữa nguyên đơn là Ngân hàng công thương Việt Nam - chi nhánh Phú Thọ với bị đơn là Công ty cổ phần đầu tư thương mại Việt Hưng có rất nhiều vi phạm tố tụng nghiêm trọng cần được xem xét làm rõ.

Từ những sai phạm này, ngày 08/12/2013, ông Nguyễn Ngọc Hoàn - đại diện theo pháp luật của Công ty Việt Hưng - đã có Đơn đề nghị hoãn thi hành án, trong đơn có nêu rõ việc ông Nguyễn Minh Sơn không phải là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Xét thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong Quyết định số 16/2012, ngày 20/12/2013, TAND tỉnh Phú Thọ có Công văn số 602/2013/CVTDTHA/TA gửi Chi cục Thi hành án dân sự TP Việt Trì, trong đó có nêu rõ: “TAND tỉnh Phú Thọ yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì tạm dừng Thi hành án quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 16/2012/QĐST-KDTM ngày 23/7/2012 của TAND thành phố Việt Trì để chờ kết quả xét xử vụ án trên theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm”.

Tuy nhiên, phớt lờ ý kiến chỉ đạo của TAND tỉnh Phú Thọ, ngày 08/01/2014 Chi cục Thi hành án dân sự TP Việt Trì vẫn ra Thông báo “V/v tiếp tục cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá”.

Đến ngày 09/01/2014, Chánh án TAND tỉnh Phú Thọ ra Quyết định Kháng nghị Giám đốc thẩm vào, trong đó nêu rõ: “TAND TP Việt Trì đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ án KDTM đưa ông Nguyễn Minh Sơn là người không có tư cách đại diện hợp pháp theo pháp luật của Công ty CP đầu tư thương mại Việt Hưng tham gia tố tụng với tư cách đại diện cho bị đơn không đúng pháp luật trong  khi giải quyết vụ án”. Đặc biệt, trong Kháng nghị này cũng đã quyết định: “Tạm đình chỉ thi hành án Quyết định Công nhận thỏa thuận của các đương sự số 16/2012/QĐST-KDTM ngày 23/7/2013 của TAND TP Việt Trì để chờ kết quả xét xử giám đốc thẩm”.

Thế nhưng, chấp hành viên Đặng Xuân Quang đã bất chấp Quyết định Kháng nghị số 01/QĐKN-GĐT-KDTM của Chánh án TAND tỉnh Phú Thọ, bỏ qua những dấu hiệu vi phạm tố tụng nghiêm trọng về cả nội dung lẫn hình thức của Quyết định số 16/2012, bỏ qua cả những sai phạm nghiêm trọng của việc Kê biên tài sản ngày 09/7/2013 vẫn kiên quyết chỉ đạo việc cưỡng chế thi hành án đến cùng, đuổi hàng chục con người hiện đang sinh sống tại số 2256 đại lộ Hùng Vương, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì ra khỏi nơi họ đang sinh sống ổn định khi mà chỉ còn nửa tháng nữa thôi là Tết đến Xuân về.

Có thể thấy, trong vụ án kinh doanh thương mại này, TAND TP Việt Trì đã sai phạm nghiêm trọng khi xác định sai tư cách người đại diện tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và Chi cục Thi hành án TP Việt Trì còn sai phạm nhiều hơn bởi đã không chỉ tiếp tục xác định sai tư cách người đại diện hợp pháp của công ty Việt Hưng trong quá trình thi hành án, mà còn sai phạm nghiêm trọng khi không tuân thủ các quy định pháp luật trong quá trình tiến hành kê biên tài sản.

Điều đáng nói ở đây là khi tiến hành kê biên tài sản, nhận thấy diện tích thực tế của tài sản bị kê biên có sai số lớn hơn so với diện tích của tài sản được ghi nhận trong hồ sơ vụ án, lẽ ra chấp hành viên Đặng Xuân Quang phải thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật, cụ thể theo khoản 1 Điều 179 Luật thi hành án dân sự năm 2008, Điều 1 Thông tư số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, gửi công văn sang TAND TP Việt Trì đề nghị làm rõ vấn đề và đặc biệt cần phải tạm dừng việc thi hành án lại để chờ ý kiến trả lời của TAND TP Việt Trì thì mới có hướng giải quyết tiếp theo.

Thế nhưng chấp hành viên Đặng Xuân Quang đã không những bỏ qua hàng loạt dấu hiệu vi phạm tố tụng của Quyết định số 16/2012, mà còn phớt lờ ý kiến chỉ đạo của TAND tỉnh Phú Thọ, kiên quyết thực hiện đến cùng việc cưỡng chế thi hành án một Quyết định đã bị Kháng nghị Giám đốc thẩm.

2. Báo Đầu tư chứng khoán có bài: Đừng để Hiến pháp bị lấn át bởi thông tư. Bài báo phản ánh: Các chuyên gia cảnh báo, với quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh tại dự thảo Luật Doanh nghiệp (DN) sửa đổi hiện tại, Hiến pháp có nguy cơ bị lấn át bởi thông tư.

Theo luật gia Vũ Xuân Tiền, Trưởng ban Tư vấn và Phản biện chính sách, Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam (VACD) khi nhìn nhận về “rừng” giấy phép con, cháu do các văn bản dưới luật “đẻ” ra khi quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh đang có quyền “to” hơn luật. Đây là một trong những hạn chế lớn nhất của quy định pháp luật điều chỉnh việc đăng ký, thành lập, cũng như hoạt động của DN, khiến họ bị “hành”.

Cụ thể, khi quy định về ngành nghề và điều kiện kinh doanh, dự thảo 4 của Luật DN sửa đổi quy định: Chính phủ định kỳ hàng năm rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần danh mục ngành nghề cấm kinh doanh, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; kiến nghị bổ sung, sửa đổi danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh; bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện không còn phù hợp...

Hiến pháp quy định người dân được quyền kinh doanh những gì pháp luật không cấm, nhưng giao cho Chính phủ thẩm quyền quy định về ngành nghề cấm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thì tinh thần cải cách của Hiến pháp phải chờ hướng dẫn của Chính phủ, thậm chí thông tư của các bộ, mới có hiệu lực trên thực tế.

Sở dĩ như vậy là bởi luật chưa phân tách thành các loại công ty cổ phần vốn có nhiều đặc thù trong thực tiễn hoạt động. Với tính chất không giống nhau này, nhưng dự thảo luật lại buộc tất cả các công ty cổ phần đều chịu điều chỉnh bởi các quy định về mô hình quản trị, nghĩa vụ công bố thông tin, hay phát hành chứng khoán để huy động vốn là không hợp lý. Điều này nếu đưa vào áp dụng trên thực tế sẽ gây khó cho DN.

3. Báo Người cao tuổi có bài: Huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre: Cụ già 90 tuổi bị “nhốt” trong nhà vì UBND huyện cấp GCNQSDĐ trái luật? Bài báo phản ánh: Chồng mất năm 1991, cụ và 8 người con đang sử dụng 7.790m2 đất. Khi thấy mình già yếu, ngày 12/5/2004 cụ lập di chúc phân chia đất làm nhà ở cho các con, căn nhà của cụ và số diện tích đất còn lại để làm hương hỏa thờ cúng tổ tiên đã bị vợ chồng người con trai út bất hiếu lén lút bán cho người khác. Vậy mà Chủ tịch UBND huyện vẫn kí quyết định cấp GCNQSDĐ (sổ đỏ) dẫn đến khiếu kiện kéo dài, nhiều hành vi phi pháp và cách xử sự vô văn hóa của một số cán bộ xã đã gây dư luận xấu tại địa phương!…

Năm 1991, khi chồng mất, 9 mẹ con cụ Ninh Thị Tư ở 235, ấp 1, xã Lương Quới, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, quản lí sử dụng 7.790 m2 đất các loại. Khi thấy mình già yếu, ngày 12/5/2004 cụ Tư lập di chúc phân chia đất cho các con làm nhà ở. Di chúc nêu rõ trong phần đất này có 2.000 m2 đất thổ mộ, 4.996 m2 đất canh tác và 794 m2 đất nền nhà (có một căn nhà xây kiên cố diện tích 150 m2 nằm trong khuôn viên 300 m2 đất thổ cư). Ngoài phần diện tích đất phân chia cho các con làm nhà ở, số đất còn lại và căn nhà xây kiên cố của vợ chồng cụ Tư ở từ năm 1957 đến nay để làm nơi thờ cúng tổ tiên. Di chúc đã được Chủ tịch UBND xã Lương Quới xác nhận, kí tên chứng thực.

Trong lúc cả gia đình đang sinh sống ổn định, bỗng năm 2007, Võ Văn Hiền, sinh năm 1969 (con trai út) và vợ là Nguyễn Thị Cẩm Nhung làm ăn thua lỗ ở địa phương khác trở về tay trắng. Vợ chồng Hiền đề xuất với mẹ mượn số đất còn lại của cụ Tư để sản xuất. Số đất này trước đó UBND huyện Giồng Trôm đã cấp sổ đỏ cho “hộ gia đình” bao gồm cụ Tư và 8 người con đứng tên đồng sở hữu. Nếu cụ Tư muốn cho, tặng, cho thuê, hoặc bán thì phải được sự đồng ý của cả 9 thành viên trong gia đình. Ngày 6/1/2007, cụ Tư cùng 8 người con đều dự họp mặt gia đình và kí tên thống nhất vào “Tờ họp mặt gia đình”, tất cả đều thống nhất: “Giao cho ông Võ Văn Hiền (con trai út) được phép thay mặt hộ gia đình cụ Ninh Thị Tư đứng tên trong GCNQSDĐ diện tích 3.000m2 tại thửa 202, tờ bản đồ số 13. Đây là đất hương hỏa thờ cúng ông bà tổ tiên nên cho Võ Văn Hiền đứng tên về mặt pháp lí, chứ không được quyền sang bán, cầm cố cho người khác. Riêng bà Võ Thị Phái chưa có nhà ở nên được quyền ở tại nhà thờ và canh tác toàn bộ diện tích đất, hưởng huê lợi trên đất của bà Ninh Thị Tư, đồng thời có nghĩa vụ nuôi dưỡng bà Ninh Thị Tư và thờ cúng ông bà”. Sau khi được các thành viên trong gia đình đồng ý kí tên cho phép Võ Văn Hiền mượn 3.000 m2 đất canh tác, ông Hiền âm thầm gửi đơn, tìm cách xin cấp sổ đỏ ghi cả tên vợ mình là Nguyễn Thị Cẩm Nhung đồng sở hữu diện tích ghi trong sổ đỏ lên tới 3.354,3m2, hình thức sử dụng: “Riêng”.

Sau khi làm được sổ đỏ đứng tên hai vợ chồng, ngày 15/9/2011 vợ chồng Hiền, Nhung âm thầm kí hợp đồng bán toàn bộ căn nhà thờ và 3.354,4m2 đất của gia đình cụ Tư cho bà Phạm Thị Thanh Thủy ở ấp Chợ, xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm với 2 tỉ đồng rồi bỏ quê ra đi. UBND xã Lương Quới biết được sự việc và nguồn gốc đất, nên không đồng kí xác nhận cho hai bên mua bán. Vậy mà vợ chồng Hiền được công chứng viên Trần Thị Xuân Vệ, Phòng Công chứng số 1, Sở Tư pháp tỉnh Bến Tre kí tên, đóng dấu chứng thực mà không cần tìm hiểu nguồn gốc đất và căn nhà thờ của cụ Tư sinh sống từ năm 1957 đến nay. Từ sai phạm này, ông Đặng Thanh Khiết, Chủ tịch UBND huyện Giồng Trôm vẫn lấy đó làm căn cứ để kí quyết định cấp ngay sổ đỏ cho bà Phạm Thị Thanh Thủy. Việc làm vội vàng này dẫn đến hậu quả khiếu kiện kéo dài. Khi bà Thủy có được sổ đỏ, bà buộc vợ chồng Hiền, Nhung giao nhà, đất đã bán. Trong khi căn nhà cụ Ninh Thị Tư sinh sống ổn định liên tục từ 1957 đến nay. Thấy căn nhà thờ và đất bị mất vì vợ chồng đứa con trai út bất hiếu, 7 người con còn lại và cụ Tư đã nhiều lần gửi đơn đến các cấp chính quyền yêu cầu giải quyết vụ việc. Chính quyền huyện và xã một mực cho rằng, bà Thủy đã có sổ đỏ thì có toàn quyền sử dụng tài sản đã mua. Còn khi gửi đơn khởi kiện ra cơ quan Tòa án thì Thẩm phán Nguyễn Thanh Thuở, TAND huyện Giồng Trôm lại tìm cách khước từ, ngụy biện, đổ lỗi cho rằng vụ việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện. Phía UBND huyện lại kí văn bản báo cáo về tỉnh có nội dung dối trá, lật lọng. Ngày 18/6/2014, ông Nguyễn Văn Ro, Chánh Văn phòng UBND huyện Giồng Trôm kí Báo cáo về việc giải quyết khiếu nại trường hợp cụ Ninh Thị Tư gửi UBND tỉnh và Huyện ủy Giồng Trôm nêu sai sự thật: “Bà Tư làm hợp đồng cho ông Võ Văn Hiền sinh năm 1969 cùng vợ là Nguyễn Thị Cẩm Nhung sinh năm 1984. Trong đó bà Tư có làm giấy giao quyền sử dụng đất  300 m2 thổ cư cho ông Võ Văn Hiền (trong đó có căn nhà thờ bà Tư xây dựng năm 1990”. Khi chúng tôi hỏi, cụ Tư và 7 người con còn lại thì tất cả đều khẳng định, đây là sự bịa đặt hoàn toàn. Vì khi phát hiện vợ chồng Hiền, Nhung làm ăn thua lỗ trắng tay trở về quê, cụ Tư đã bàn bạc với các con là nhà thờ không thể giao cho Võ Văn Hiền đứng chủ quyền, sợ vợ chồng Hiền bán mất.

Sự cố ý thực hiện các hành vi trái pháp luật của Chủ tịch UBND huyện Giồng Trôm và Công chứng viên Nguyễn Thị Xuân Vệ dẫn đến cụ già 90 tuổi bị “nhốt” trong căn nhà của chính mình suốt nhiều tháng nay với hàng rào tường gạch bao quanh và cửa cổng bị khóa lại không vào ra tiếp xúc được với bất kì ai. Thấy chúng tôi đến, cụ Tư ở một mình trong nhà gào thét nhờ cứu hộ. Cụ bức xúc: “Tôi đâu có làm giấy bán đất hương hỏa và nhà thờ bao giờ mà bị bọn côn đồ  giam tôi không cho vô ra gì hết vậy nè”.

Căn cứ khoản 3, Điều 38 Luật Đất đai 2003 và khoản 1, Điều 136 Luật Đất đai 2013 thì việc giải quyết tranh chấp nhà và đất này thuộc thẩm quyền của TAND huyện Giồng Trôm. Vậy mà gia đình cụ Tư gửi đơn khởi kiện, Thẩm phán Nguyễn Thanh Thuở ngụy biện, từ chối nhận đơn, né tránh trách nhiệm, đổ lỗi cho rằng, thẩm quyền thụ lí đơn giải quyết thuộc UBND huyện. May cho gia đình cụ Tư có được người con rể là ông Nguyễn Quý Khoáng, quê ở Phú Xuyên, Hà Nội từng tham gia kháng chiến chống Mỹ (ở rể) hiểu biết về pháp luật. Sau nhiều lần đi lại, cụ Tư và ông Khoáng đã được Thẩm phán Võ Thế Trang Đền thuộc TAND huyện Giồng Trôm nhận đơn, thụ lí hồ sơ. Sau khi đóng án phí xong, ngày 27/11/2013, TAND huyện Giồng Trôm đã có Thông báo số 292/TB-TLVA về việc thụ lí vụ án. Theo quy định của pháp luật, khi có thông báo của cơ quan Tòa án đã thụ lí vụ án thì mọi hành vi hành chính khác đều phải tạm dừng, chờ sự phán quyết của Tòa. Vậy mà nhiều cán bộ của xã Lương Quới vẫn tìm cách bảo vệ bà Thủy (kẻ mua đất trái phép) thuê người chở vật liệu đến xây tường bao quanh, khóa cổng, bịt lối ra vào nhà ở của cụ Ninh Thị Tư. Xe Hon-da của ông Khoáng để trong nhà thờ bị lũ côn đồ nhuộm tóc đỏ hoe, đeo bông tai rủ nhau vào đánh bài và tháo bu-gi, cắt ống dẫn xăng… Trưởng Công an xã Lương Quới Trần Quốc Dũng và Phó Chủ tịch UBND xã Phạm Thanh Nhàn kéo lực lượng ập đến lập biên bản buộc cụ Ninh Thị Tư và ông Khoáng giao nhà cho bà Thủy trong vòng 7 ngày, nếu không sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong khi cụ Tư sinh sống liên tục, có hộ khẩu tại căn nhà này từ năm 1957, không còn chỗ ở nào khác. Vậy mà ông Cao Minh Hùng, cán bộ tư pháp xã; Lê Văn Nguyên, nhân viên an ninh trật tự xã thì một mực cho rằng, cụ Tư ở nơi khác, ông Khoáng và các con tự đem cụ về giam lỏng trong căn nhà đã bán. Khi chúng tôi yêu cầu cung cấp thông tin liên quan, ông Cao Minh Hùng và Lê Văn Nguyên viện lí do, Trưởng, Phó Công an xã, Chủ tịch, Bí thư và các Phó Chủ tịch đi họp, nên không thể cho nhà báo phô-tô tài liệu được. Khi chúng tôi giải thích về Luật Báo chí và hỏi một số kiến thức pháp luật sơ đẳng thì các cán bộ phụ trách công tác thực thi pháp luật ở xã này chẳng biết gì, chẳng hiểu gì. Còn Trần Quốc Dũng, Trưởng Công an xã trả lời: “UBND xã chỉ đạo đến lập biên bản thì chúng em chỉ làm công tác hỗ trợ thôi, tất cả đều do xã xử lí”. Chính sự kém cỏi, thiếu học này dẫn đến làm liều.

Đêm 21/5/2014, trong lúc gia đình ông Khoáng đang ngủ, bỗng dưng xuất hiện hàng chục kẻ côn đồ đến đạp cửa xông vào nhà. Ông Khoáng gọi điện thoại báo Cảnh sát 113 Công an tỉnh Bến Tre, khoảng một giờ sau không thấy Cảnh sát 113 của tỉnh tới mà chỉ thấy 2 Cảnh sát Giao thông và 2 Cảnh sát Trật tự Công an huyện Giồng Trôm tới, trong đó có ông Pho, Công an huyện do ông Dũng dẫn tới. Ông Pho tuyên bố cho đám đông người lạ mặt này vào trong căn nhà thờ của cụ Ninh Thị Tư ngủ. Cùng lúc này, bà Thủy còn tuyên bố, đến 20 giờ sẽ có Cảnh sát 113 của tỉnh xuống ủng hộ bà. Điều này đã tạo nên sự bức xúc, gây dư luận xấu tại địa phương, vì một cụ già 90 tuổi bị nhốt trong nhà của chính mình. Đây là hành vi phạm pháp không thể bỏ qua.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Vụ “THA lạm quyền”: Sai sót do chấp hành viên… “lúng túng”. Bài báo phản ánh: Ngày 30-7, Cục Thi hành án (THA) dân sự tỉnh Bình Thuận đã có kết luận liên quan đến hành vi lạm quyền của Chi cục THA thị xã La Gi.

            Trong thời gian các đương sự tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo quyết định của tòa, đơn vị này lại nhảy vào ra quyết định THA trái luật.

Cục THA dân sự tỉnh đã có văn bản gửi Tổng cục THA và UBND tỉnh Bình Thuận báo cáo sơ bộ tình hình. Sau đó, Cục THA tỉnh thành lập tổ xác minh theo đơn tố cáo chấp hành viên (CHV) Trần Thanh An, Phó Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự thị xã La Gi, để làm rõ.

Tổ này đã xác định việc Chi cục THA dân sự La Gi ban hành quyết định THA buộc vợ chồng bà Ngô Thị Thuận phải THA trong khi thời hạn thỏa thuận trả nợ của các đương sự chưa hết là vi phạm nghiêm trọng Luật THA dân sự năm 2008. Sai phạm này là do CHV chưa nghiên cứu kỹ hết các nội dung quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và “lúng túng”. Khi phát hiện sai sót, Chi cục THA dân sự đã thu hồi lại quyết định lạm quyền trên nên… chưa gây thiệt hại!

Đối với tố cáo ông Trần Thanh An tiếp tay, thông tin và tạo điều kiện cho nguyên đơn là ông Mông Tiến Hùng đến cơ quan nhà nước hành hung, đánh gây thương tích vợ chồng bà Thuận, Cục THA dân sự tỉnh cho là không có cơ sở. Việc ông An sử dụng điện thoại để gọi, nghe, nhắn tin và nhận tin nhắn cũng như ra vào phòng làm việc một vài lần là để chỉ đạo điều hành và thực hiện in ấn, phôtô giấy tờ văn bản liên quan việc THA khác phục vụ cho việc cưỡng chế kê biên theo kế hoạch. Theo biên bản làm việc, ông Hùng cho biết bà Trúc Ly, Việt kiều Mỹ là người đặt cọc mua nhà bà Thuận đã điện thoại báo cho ông Hùng.

Liên quan đến vụ hành hung này, theo Công an thị xã La Gi, ông Hùng đã thừa nhận hành vi vi phạm của mình. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã La Gi cũng đã trưng cầu giám định và được Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Bình Thuận xác định tỉ lệ thương tích của bà Thuận là 5%. Căn cứ các tài liệu thu thập được và kết quả giám định nêu trên, Công an phường Tân An nhận thấy tính chất nguy hiểm và mức độ thiệt hại do hành vi của ông Hùng gây ra chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS nên đã xử phạt hành chính ông Hùng 750.000 đồng. Ông Hùng đã chấp hành xong quyết định.

Cục THA dân sự tỉnh yêu cầu Chi cục THA dân sự thị xã La Gi tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm đối với sai sót nghiêm trọng trên để chấn chỉnh công tác THA theo đúng quy địnhpháp luật.

Được biết vợ chồng bà Thuận đã có đơn gửi Cục Điều tra VKSND Tối cao kiến nghị xử lý hành vi lạm quyền, xâm phạm hoạt động tư pháp đối với những người có liên quan.

5. Báo Phụ nữ có bài: Việc nuôi trẻ ở chùa Bồ Đề: Những hành vi trái luật gắn mác 'từ thiện'. Bài báo phản ánh: Trong tất cả các phát ngôn của mình liên quan đến việc nuôi trẻ mồ côi, tàn tật không phép, ni sư Thích Đàm Lan luôn khẳng định: “Không có chuyện nhà chùa “gom” trẻ từ nhiều nguồn khác nhau về chùa”. Tuy nhiên, qua điều tra, phóng viên Báo Phụ Nữ đã thu thập được những văn bản có bút tích, con dấu của sư trụ trì tại “biên bản giao nhận con nuôi” giữa nhà chùa và Bệnh viện Phụ sản tỉnh Nam Định.

Các giấy tờ thể hiện sự bàn giao bé T.A., sinh ngày 24/4/2013, bị mẹ bỏ rơi tại Bệnh viện (BV) Phụ sản Nam Định với nhà chùa bao gồm giấy chứng sinh, biên bản xác nhận trẻ em bị bỏ rơi, bản xét nghiệm nhanh HIV (dương tính), bé nặng trên 4kg tại thời điểm bàn giao (19/6/2013). Sau khi bé T.A. đến chùa Bồ Đề, trong một lần bị ốm rất nặng, bé được đưa vào điều trị tại BV Nhi Trung ương, rồi chùa Bồ Đề... “quên” cử người chăm sóc bé.

Trường hợp của bé T.A., mặc dù trong thời gian bé điều trị ở đây, chúng tôi đã nhiều lần liên lạc với chị Nguyễn Thị Thanh Trang (quản lý khu nuôi trẻ của nhà chùa), người đưa bé nhập viện, nhưng chị này cứ thoái thác việc đến làm thủ tục thanh toán viện phí cho bé. Khi bé khỏe lại, họ đã lén đưa bé ra khỏi BV mà không làm thủ tục xuất viện. Từ đó đến nay, lần nào tôi gọi điện, chị Trang cũng lấy lý do là sư thầy Đàm Lan đi nước ngoài, chưa về nên chưa giải quyết được khoản nợ gần năm triệu đồng viện phí của bé T.A.

Trở lại việc bàn giao con nuôi giữa BV Phụ sản tỉnh Nam Định và ni sư Thích Đàm Lan. Khoản 3 - điều 3 Luật Nuôi con nuôi quy định: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký. Biên bản giao nhận con nuôi chỉ áp dụng sau khi UBND cấp xã nơi đăng ký và cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi. Việc bàn giao diễn ra giữa cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng cho cha mẹ nuôi”.

Điều 22 quy định việc đăng ký con nuôi rất cụ thể tại khoản 1: “Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của luật này thì ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức đăng ký nuôi con nuôi, trao giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến đồng ý của những người giám hộ hoặc chính trẻ em đó”. Căn cứ các điều khoản trên, việc bàn giao bé T.A. không đáp ứng được các thủ tục cần thiết như giấy chứng nhận nuôi con nuôi của UBND P.Trần Đăng Ninh, TP. Nam Định, nơi BV Phụ sản Nam Định trú đóng.

Về bản chất, biên bản bàn giao bé T.A. chỉ là việc tự thỏa thuận giữa BV và ni sư Đàm Lan. Lẽ ra, nếu BV phát hiện có trẻ bị bỏ rơi, phải đề nghị phường sở tại xác nhận tình trạng bỏ rơi, sau đó phải tiến hành đưa bé vào cơ sở bảo trợ xã hội do nhà nước quản lý để nuôi dưỡng. Từ đó, cơ sở này mới tiến hành làm thủ tục đăng ký với Sở Tư pháp để tìm gia đình thay thế cho bé. Luật Nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP, ngày 21/3/2011 quy định rất chi tiết, chặt chẽ. Trong trường hợp của T.A., dường như phía BV và chùa Bồ Đề đã bỏ qua vai trò quản lý nhà nước của P.Trần Đăng Ninh. Luật quy định rất rõ “nếu trẻ bị bỏ rơi chưa chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng thì UBND cấp xã (phường, thị trấn) nơi trẻ bị bỏ rơi có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi cho trẻ”. Thêm vào đó, bé T.A. đã được phía BV xác định “test dương tính với HIV” thì càng phải được chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng có chế độ chăm sóc y tế đặc biệt. Vì lý do gì mà BV lại đem bé giao cho một nơi không hề có tư cách gì trong lĩnh vực bảo trợ xã hội?

Sự vòng vo, luẩn quẩn, tiền hậu bất nhất của ni sư Đàm Lan trong việc khai báo số lượng cho, nhận con nuôi cũng là một vấn đề nổi cộm. Đơn cử, theo báo cáo của UBND Q.Long Biên tại thời điểm tháng 5/2013, trẻ được nuôi tại chùa Bồ Đề là 121 trẻ, số lượng trẻ sơ sinh là 25. Tổng số đối tượng bảo trợ ở tại chùa từ ngày 6/5/2013 là 200 người - kể cả người già.

Tuy nhiên, bốn ngày sau đó, con số này đã giảm xuống còn 192 người, nhà chùa không giải thích được lý do vắng mặt của tám đối tượng. Mới đây nhất, tại biên bản cuộc họp ngày 17/7/2014, với các ban, ngành chức năng địa phương, ni sư Đàm Lan tự khai báo số lượng hiện tại đang ở chùa là 106 trẻ, trong đó có 18 trẻ sơ sinh. Như vậy, con số khai báo trẻ sơ sinh so với hơn một năm trước (25 trẻ), lại hụt mất bảy bé mà không hiểu vì sao.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Vietnam.net có bài: UNESCO vinh danh bằng chứng Hoàng Sa của VN. Bài báo phản ánh: Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam đã chính thức được UNESCO trao bằng công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Kí ức thế giới Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương 2014 (MOWCAP) sáng nay 30/7 tại Hà Nội.

UNESCO đánh giá cao giá trị nội dung, tính xác thực, độc đáo, duy nhất và tầm ảnh hưởng của Châu bản triều Nguyễn đối với khu vực và quốc tế.

Đây là khối tài liệu hành chính duy nhất còn lưu giữ được của một vương triều phong kiến Việt Nam, lưu giữ bút tích của các vua triều Nguyễn phê duyệt các vấn đề của đất nước.

Châu bản triều Nguyễn chứa đựng nhiều thông tin phong phú, phản ánh mọi lĩnh vực trong xã hội dưới triều Nguyễn như chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, giáo dục… Đặc biệt, theo nội dung các châu bản, các cơ quan của triều đình nhà Nguyễn đã tiến hành xác lập, thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; cử nhiều đoàn khảo sát liên tục ra 2 quần đảo này để khảo sát, cắm mốc, đo vẽ bản đồ. Châu bản ngày 21/6 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) cho biết: Kết quả của đoàn khảo sát Hoàng Sa năm 1838 đã khảo sát được 25 đảo, trong đó có 13 đảo được khảo sát lần đầu…

Như vậy, Châu bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thứ 4 của Việt Nam được UNESCO công nhận sau Mộc bản triều Nguyễn (2007), 82 Bia đá Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (2010) và Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (2012). Việc vinh danh Châu bản triều Nguyễn góp phần làm phong phú thêm kho di sản tư liệu kí ức của Việt Nam và của thế giới.

2. Trang Chinhphu.vn có bài: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì phiên họp Chính phủ tháng 7. Bài báo phản ánh: Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong hai ngày 30 và 31/7/2014, Chính phủ tiến hành phiên họp thường kỳ tháng 7/2014.

Tại phiên họp, Chính phủ nghe, thảo luận về Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2014, tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014; Tờ trình về một số giải pháp về thuế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất; Báo cáo một số cơ chế, chính sách phát triển y tế…

Chính phủ cũng sẽ thảo luận về một số dự án luật như: Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Dự án Luật An toàn vệ sinh lao động; Dự án Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo; Dự án Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi)…

Phát biểu khai mạc Phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các thành viên Chính phủ trên cơ sở Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2014, tập trung thảo luận những vấn đề lớn liên quan đến tái cơ cấu nền kinh tế, tăng trưởng GDP, kinh tế vĩ mô; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp… trên tinh thần không điều chỉnh mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2014.

Tại Phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng lưu ý các bộ, ngành chức năng phối hợp chặt chẽ, thực hiện tốt các phương án đảm bảo an toàn cho hơn 1.500 người Việt Nam đang lao động tại Libya.