Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 7 năm 2014Trong ngày 16/7 và đầu giờ sáng ngày 17/7/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau: > >I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Nhận hối lộ, nguyên chấp hành viên hầu tòaBài báo phản ánh: Sáng 16-7, TAND tỉnh Vĩnh Long đã xử phúc thẩm, bác kháng cáo xin giảm án, y án hai năm tù đối với Lê Quốc Việt (nguyên chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long) về tội nhận hối lộ.Theo tòa, cấp sơ thẩm đã xử thỏa đáng, Việt không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên tòa không thể giảm án.2. Trang VnExpress có bài Hai luật sư tống tiền chủ cơ sở y tế. Bài báo phản ánh: Ngày 15/7, Công an tỉnh Bắc Ninh khởi tố bị can, tạm giam Nguyễn Văn Thư (37 tuổi, trưởng văn phòng đại diện một tạp chí về pháp luật) và Đào Thị Liễu (25 tuổi, nhân viên của ông Thư) để điều tra hành vi cưỡng đoạt tài sản.Theo điều tra, Thư và Liễu đã sử dụng giấy khám sức khỏe của một cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Bắc Ninh cấp sai thẩm quyền để gây áp lực với lãnh đạo ở đây. Họ đe dọa sẽ viết bài phản ánh nếu chủ cơ sở y tế không giao tiền thông qua hình thức ký hợp đồng tuyên truyền trên tạp chí với mức 20-30 triệu đồng một lần đăng.Khi nạn nhân từ chối, Thư và Liễu tiếp tục gây sức ép buộc đưa 5 triệu đồng. Trưa 4/7, hai bên đang giao nhận tại một quán nước trên đường Nguyễn Văn Cừ (thành phố Bắc Ninh) thì bị công an phát hiện.Tại cơ quan điều tra, Thư và Liễu khai với thủ đoạn trên còn cưỡng đoạt tài sản của 5 cơ sở y tế khác trên địa bàn tỉnh với tổng số tiền gần 30 triệu đồng. Trao đổi với VnExpress, một lãnh đạo Liên đoàn luật sư Việt Nam cho biết việc tước thẻ luật sư của Thư và Liễu sẽ căn cứ kết quả điều tra cũng như phán quyết của tòa án.3. Báo Pháp luật ViệtNam có bài Người phạm tội có thể nộp tiền thay vì chấp hành hình phạt tù?Bài báo phản ánh: Theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS), hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Có đến 74/267 điều của BLHS có quy định về hình phạt tiền, song thực tiễn cho thấy hình phạt tiền được áp dụng rất ít trên thực tế.Một ví dụ rất điển hình được một thẩm phán Tòa Hình sự TAND TP.Hà Nội dẫn ra tại cuộc hội thảo hoàn thiện quy định của BLHS về hệ thống hình phạt không tước tự do do Bộ Tư pháp tổ chức. Đó là một vụ án có tình tiết rất éo le. Một nhóm bạn đến thăm vợ người bạn ốm. Ham vui, mấy ông bày trò đánh bài ăn tiền. Bị bắt quả tang trên chiếu bạc với số tiền hơn 2 triệu đồng (2 triệu là mức để truy tố), cả nhóm bị đưa ra Tòa. Khi xét xử, thẩm phán nói trên đã rất băn khoăn bởi hoàn cảnh của các bị cáo đa phần khó khăn, lại sinh sống ở nông thôn nên nếu phạt họ 5 - 10 triệu thì cũng khó lòng thu được. Sau khi cân nhắc, thay vì phạt tiền, thẩm phán nọ đã tuyên bị cáo cải tạo không giam giữ. Theo phân tích của thẩm phán này, cải tạo không giam giữ thì bị cáo vẫn có điều kiện chăm sóc vợ ốm. Trong trường hợp này, có lẽ việc tuyên án của Tòa vẫn là “hợp lý” hơn cả. Bởi bị cáo vừa không phải nộp tiền, lại vẫn được về gia đình sinh sống “bình thường”, hết thời hạn thì được xóa án tích.Nhiều thẩm phán cũng rơi vào “hoàn cảnh” tương tự như trường hợp nêu trên và họ cho biết sự lựa chọn của họ cũng không phải là phạt tiền. Thực tế có rất nhiều vụ đánh bạc với giá trị nhỏ (vài triệu), phạm tội lần đầu, đối tượng có nhân thân tốt… nhưng cũng không “được” phạt tiền mà sẽ áp dụng các hình phạt khác tương tự như vụ án nói trên.Theo Bộ Tư pháp, mục đích của các tội phạm kinh tế chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, do vậy cần nghiên cứu, bổ sung theo hướng tăng cường áp dụng hình phạt tiền (có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) đối với các tội phạm về kinh tế nhằm nâng cao tính răn đe và giảm nguy cơ tái phạm. Theo hướng này thì cần mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền ngay cả đối với các tội phạm nghiêm trọng, thậm chí là một số trường hợp phạm các tội rất nghiêm trọng, đồng thời nâng mức phạt tiền cao hơn mức hiện hành; đồng thời sửa đổi một số quy định liên quan đến việc thi hành án để nâng cao tính răn đe và hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tiền và các hình phạt mang tính vật chất khác; nghiên cứu khả năng áp dụng các biện pháp tư pháp như: tịch thu tiền, tài sản, cấm vĩnh viễn hoặc cấm có thời hạn biện pháp tư pháp cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định liên quan đến các hoạt động kinh tế; nghiên cứu khả năng chuyển đổi hình phạt tiền (với ý nghĩa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung) với hình phạt tù có thời hạn khi mà người phạm tội có thái độ cố tình không chấp hành hình phạt tiền hoặc có biểu hiện tẩu tán tài sản gây khó khăn cho quá trình thi hành án. Ngoài ra, nghiên cứu khả năng nâng mức hình phạt (hình phạt tù và các hình phạt khác) đối với các tội phạm về kinh tế nhưng lại có nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người như các tội phạm liên quan đến an toàn, vệ sinh thực phẩm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh...TS Phạm Quý Tỵ đồng tình với quan điểm “giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền” nhưng đề nghị phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.Để đảm bảo tính khả thi của hình phạt tiền trong thực tiễn thi hành hình phạt, trường hợp người phải chấp hành phạt tiền không thi hành thì chuyển sang phạt tù. Quy định như vậy, theo TS Phạm Quý Tỵ, để việc áp dụng hình phạt này được chặt chẽ, đáp ứng được mục đích chung của hình phạt là vừa trừng trị, vừa giáo dục, cải tạo người phạm tội, tránh vận dụng một cách tràn lan, dễ nảy sinh tiêu cực.Giảng viên Lê Trung Kiên (Khoa Luật, Học viện Cảnh sát nhân dân) ủng hộ chủ trương mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng hình phạt tiền vì theo thống kê của ông Kiên, BLHS của Việt Nam hiện chỉ có trên 47% điều luật quy định về hình phạt tiền trong khi ở các nước tỷ lệ này rất cao. “Đành rằng không phải cao là tốt vì nó còn liên quan đến quan niệm thế nào là tội phạm, song cũng cần nghiên cứu” - ông Kiên nói và cho rằng, nên quy định điều kiện để áp dụng phạt tiền theo hướng nghiêm khắc hơn, ví dụ chỉ được nộp một lần với tội ít nghiêm trọng.Một trong những yêu cầu của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số công việc trọng tâm của cải cách tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “giảm hình phạt tù, hạn chế hình phạt tử hình, tăng cường các hình phạt không phải tù như phạt tiền, cải tạo không giam giữ…”. Để cụ thể hóa yêu cầu của các Nghị quyết nói trên, nhiều ý kiến đồng thuận cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS theo hướng mở rộng phạm vi các trường hợp có thể áp dụng hình phạt tiền. Thậm chí, có thể quy định việc người phạm tội có thể nộp tiền thay vì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù, không nhất thiết phải cách ly họ khỏi xã hội. Đặc biệt, trong các nhóm tội về tham nhũng, xử nặng không phải là “liều thuốc đặc trị” mà vấn đề không kém phần quan trọng là thu hồi tài sản do hành vi tham nhũng gây ra. Nếu người phạm tội tham nhũng tự nguyện nộp lại tài sản do tham nhũng mà có thì sẽ được giảm nhẹ hình phạt.4. Báo Người Lao động có bài Lợi bất cập hạiBài báo phản ánh: Đưa thông tin trên giấy khai sinh vào thẻ căn cước công dân (nay là CMND) để bỏ luôn giấy khai sinh được cho là một trong những biện pháp đơn giản hóa bộ giấy tờ cá nhân, được đưa ra trong quá trình xây dựng Luật Căn cước công dân và Luật Hộ tịch.Làm cho bộ giấy tờ cá nhân được gọn nhẹ mà vẫn bảo đảm việc sử dụng giấy tờ có hiệu quả và tiện lợi trong giao dịch là điều tốt nhưng thật ra, không có nước nào làm gọn giấy tờ cá nhân bằng cách hợp nhất thẻ căn cước và giấy khai sinh. Lý do là mỗi loại giấy tờ có tính chất, chức năng riêng, phục vụ cho những mục tiêu riêng cả đối với cơ quan quản lý và đối với người mang giấy tờ liên quan.Thẻ căn cước dùng để nhận dạng con người, cần thiết cho việc phân biệt người này với người khác khi tham gia giao dịch dân sự, hành chính, đề phòng sự giả danh để gian lận, lừa lọc. Giấy khai sinh để xác nhận việc có một người được sinh ra tại một thời điểm, có xuất xứ địa lý, gia đình… được ghi nhận rõ trong điều kiện có nguồn thông tin liên quan đáng tin cậy. Giấy khai sinh cùng với các giấy tờ hộ tịch khác tạo thành bộ tài liệu về lai lịch dân sự của cá nhân và là một phần của đời tư.Là một loại giấy tờ hành chính nhằm phục vụ trước hết cho công tác quản lý của nhà chức trách, thẻ căn cước được xuất trình trong khuôn khổ thực hiện nghĩa vụ công dân trong quan hệ xã hội, cộng đồng. Thí sinh đi thi, hành khách bước lên máy bay, chủ sở hữu nhà đến cơ quan công chứng để xác lập giao dịch mua bán nhà… đều phải xuất trình thẻ căn cước để được nhận dạng. Nếu không có thủ tục này thì khó ngăn chặn nguy cơ phá hoại, lừa đảo của kẻ xấu.Trong khi đó, giấy khai sinh được yêu cầu xuất trình một khi điều đó cần thiết cho việc bảo đảm thụ hưởng các quyền lợi mà luật pháp dành cho người này, người nọ có liên quan trong cuộc sống dân sự. Chẳng hạn, khi cần xác định tuổi của người xin đi học, xin đi làm, bầu cử, ứng cử; khi cần phải xác định quan hệ cha mẹ - con để giải quyết việc thừa kế tài sản, việc thiết lập quan hệ hợp tác giữa nhà trường và cha mẹ để giám hộ đối với học sinh...Ở góc độ cung ứng dịch vụ công, có thể học kinh nghiệm của các nước tiên tiến rồi cải tổ bộ máy hành chính để số thẻ căn cước dùng được cho việc tìm kiếm các thông tin cá nhân khác, bao gồm thông tin về hộ tịch. Ví dụ, thay vì giao cho cơ quan công an quản lý việc cấp thẻ căn cước và cơ quan tư pháp quản lý hệ thống hộ tịch, chỉ cần thành một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý dữ kiện cá nhân: chỉ cần nạp số căn cước vào tài khoản giao dịch thì các dữ kiện về ngày tháng năm sinh, quê quán, cha mẹ, vợ chồng, con cái... có thể được cung cấp theo yêu cầu.Ý kiến hợp nhất thẻ căn cước và giấy khai sinh có thể được bảo vệ bằng lý này, lẽ khác. Nhưng thử hình dung một ngày nào đó thẻ căn cước thay thế luôn cho giấy khai sinh và được cấp cho một người bị bỏ rơi lúc mới sinh, không xác định được cha mẹ. Ai nói được tâm trạng của người này mỗi khi đi thi, lên máy bay, lập chứng thư mua bán nhà, buộc phải xuất trình một tờ giấy có tác dụng nói cho tất cả mọi người biết rằng mình vốn là một đứa trẻ vô thừa nhận?!II- THÔNG TIN KHÁC1. Báo Đại đoàn kết có bài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Chủ động và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Bài báo đưa tin: Hôm qua (16-7) dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ đã họp Phiên chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật. Mở đầu phiên họp, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao đã báo cáo cập nhật tình hình liên quan tới việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam. Theo đó, từ tối 15-7, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam và đến sáng 16-7, giàn khoan 981 cùng các tàu hộ tống bảo vệ đã ra khỏi vùng biển của Việt Nam.Tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp và các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế; yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam. Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi và cùng phát triển. Với tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng cùng Trung Quốc và các bên liên quan đàm phán hòa bình, giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế.Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao và biểu dương các cơ quan chức năng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển, bà con ngư dân, đồng bào ta cả trong và ngoài nước với lòng yêu nước nồng nàn đã biểu thị thái độ và trách nhiệm cao, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Việt Nam trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường chính nghĩa của Việt Nam; lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, bảo vệ chủ quyền là nhiệm vụ thiêng liêng đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên, liên tục chủ động và kiên quyết đấu tranh với mọi hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. 2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tỉnh ủy Bình Phước chỉ đạo thu hồi quyết định sa thải Bài báo phản ánh: Thường trực Tỉnh ủy Bình Phước vừa chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Tỉnh ủy tiếp tục đôn đốc Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Bình Phước yêu cầu Sở Y tế tỉnh thu hồi quyết định sa thải trái pháp luật đối với dược sĩ (DS) Trần Thị Kiều Oanh, Phòng Giám định y khoa (GĐYK) - Sở Y tế tỉnh Bình Phước.Trước đó, Thường trực Tỉnh ủy Bình Phước cũng đã chỉ đạo Sở Y tế phải làm lại quy trình xử lý vụ việc, tổ chức kiểm điểm, xử lý kỷ luật đối với tập thể và cá nhân tại Phòng GĐYK liên quan những sai phạm mà DS Oanh tố cáo đúng. Dù Thường trực Tỉnh ủy đã chỉ đạo thu hồi quyết định sa thải sai nhưng đến nay lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Bình Phước vẫn chưa thu hồi quyết định sa thải DS Oanh theo chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Phước...“Việc lãnh đạo Sở Y tế không chấp hành chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh là một hành vi coi thường pháp luật, không chấp hành chỉ đạo của cấp trên. Tôi sẽ kiên quyết theo đuổi vụ việc đến cùng. Bởi người bị tố cáo có sai phạm lại ra quyết định đuổi việc tôi” - DS Oanh cho biết. 3. Báo Sài Gòn đầu tư tài chính có bài Thiếu vốn, thiếu luật Bài báo phản ánh: Khái niệm đặc khu kinh tế (ĐKKT) thường được hiểu là một khu vực giới hạn về địa lý riêng biệt, vị trí thuận lợi. Ở đó được quản lý bởi một cơ quan quản lý ở cấp thể chế cao nhằm cung cấp các ưu đãi nhất định về thuế, thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Mục tiêu hướng đến của ĐKKT là xây dựng thể chế có sức cạnh tranh vượt trội để thu hút các nguồn lực đầu tư, làm động lực tạo ra sự phát triển kinh tế - xã hội vượt bậc.Năm 2002, Việt Nam bắt đầu thí điểm mô hình KKT mở Chu Lai (Quảng Nam) và đến nay đã có 28 KKT cửa khẩu, 18 KKT ven biển với tổng diện tích khoảng 54.000ha. Kết luận 74-KL/TW ngày 17-10-2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa XI) một lần nữa đặt ra yêu cầu cần sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai thực hiện một số đề án thành lập khu hành chính - kinh tế đặc biệt. 3 ĐKKT được chọn gồm Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) và Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa). Ngoài 3 khu vực trên, nhiều địa điểm khác có thể được lựa chọn là Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu (KKT trọng điểm phía Nam); Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh (KKT trọng điểm phía Bắc), Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Định (KKT trọng điểm miền Trung)...Trên thực tế, dù nhận được nhiều ưu đãi, nhưng đến nay chưa có một KKT nào phát triển đúng nghĩa. Điều đáng nói, một trong số những KKT này đang chạy theo phong trào, muốn “đặc cách” trở thành ĐKKT để hưởng ưu đãi nhiều hơn. Tỉnh Quảng Ngãi vừa qua ngỏ ý xin trung ương thành lập mô hình ĐKKT Dung Quất hay Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa mới đây cũng đề xuất xin thành lập một ĐKKT với nhiều ưu đãi đặc thù là những trường hợp điển hình. Và ngay lập tức, đề xuất trên của Formosa bị Chính phủ bác bỏ vì KKT này vốn được Chính phủ ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành.Có thể nói, thực trạng phát triển ĐKKT ở nước ta chẳng khác gì “dò đá qua sông”. Sở dĩ nói như vậy là đến thời điểm này vẫn chưa có Luật về ĐKKT và đây chính là rào cản lớn khiến các nhà đầu tư quan ngại. Đối với những nhà đầu tư lớn “sừng sỏ”, cái họ quan tâm là một môi trường đầu tư mà ở đó khung pháp lý ổn định, đầy đủ, dịch vụ hành chính công chuyên nghiệp chứ không phải là những cam kết, hứa suông, tầm nhìn mông lung. Còn với những đòi hỏi được hưởng cơ chế ưu đãi kịch trần, chưa có tiền lệ như Formosa vừa qua thực chất là biểu hiện của việc nước ta đang thiếu khung pháp lý rõ ràng, nặng nề cơ chế “xin - cho”.Để Hồng Công, Thâm Quyến, Dubai… thành công với mô hình ĐKKT như hiện nay, Chính phủ của họ này đã chi hàng trăm tỷ USD, đến khi có hiệu quả thực mới dám nghĩ đến việc nhân rộng. Bởi họ hiểu rằng muốn thu hút nhà đầu tư vào đặc khu phải mở hầu bao ngân sách thật rộng để đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh. Tiềm năng phát triển ĐKKT tại Việt Nam có đủ nhưng thứ chúng ta thiếu là vốn. Nhưng dường như cấp quản lý vĩ mô cho đến chính quyền các địa phương đang đặt mục tiêu phát triển ĐKKT một cách cảm tính, quá nhiều, quá dàn trải. Riêng 3 ĐKKT tại Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, ước tính nguồn vốn xây dựng cơ bản lên đến vài chục tỷ USD. Như Quảng Ninh, đề án phát triển ĐKKT Vân Đồn giai đoạn 2014-2030 cần đến 12 tỷ USD. Với nguồn vốn khổng lồ như vậy, Chính phủ sẽ lấy nguồn thu ở đâu để phân bổ cho Quảng Ninh và nhiều nơi xây dựng đặc khu? Cần thấy rằng bài học xương máu về hệ lụy phát triển ồ ạt cảng biển, khu tế cửa khẩu, KKT ven biển vẫn còn nguyên giá trị.Với thực trạng như hiện nay, có thể nói con đường phát triển thành công mô hình ĐKKT đối với Việt Nam phía trước là một hành trình dài. Nếu thực hiện một cách nghiêm túc thì đây chính là điều kiện tốt để tận dụng thu hút các nguồn lực bên ngoài như công nghệ, vốn, nhân tài, kinh nghiệm, nhằm kích hoạt và phát triển các vùng kinh tế, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống người dân. Nhiều ý kiến cho rằng, muốn phát triển thành công mô hình ĐKKT, trước hết Chính phủ cần sớm thông qua Luật về ĐKKT để xác định các tiêu chí, điều kiện, ngành nghề ưu tiên phát triển và lộ trình thực hiện. Từ đó đề ra các giải pháp, chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thương mại, đầu tư, phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực, cũng như vấn đề được nhà đầu tư quan tâm như phát triển hàng không, rộng cửa cho casino…Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, rất nhiều ĐKKT bị thất bại do quá phụ thuộc vào khuyến khích miễn giảm thuế, tiền thuê đất, bơm các gói ưu đãi hào phóng, nhưng ngược lại chính sách áp dụng không cho thấy tính cạnh tranh. Chẳng hạn như, xúc tiến đầu tư kém hiệu quả; thủ tục chấp thuận đầu tư, cấp phép, phê duyệt dự án rườm rà; thủ tục hải quan phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa nhiêu khê; thiếu một hệ thống ngân hàng với quy chế hoạt động riêng để đáp ứng về tài chính; chính sách lao động và phát triển nguồn nhân lực, cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài bất cập. Cùng với “hạ tầng cứng”, cơ sở “hạ tầng mềm” đóng một vai trò hết sức quan trọng, song thường bị xem nhẹ đã tạo ra một rào cản vô hình, làm giảm tính năng động, linh hoạt và hiệu quả của các ĐKKT
Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 7 năm 2014
17/07/2014
Trong ngày 16/7 và đầu giờ sáng ngày 17/7/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Nhận hối lộ, nguyên chấp hành viên hầu tòa. Bài báo phản ánh: Sáng 16-7, TAND tỉnh Vĩnh Long đã xử phúc thẩm, bác kháng cáo xin giảm án, y án hai năm tù đối với Lê Quốc Việt (nguyên chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự TP Vĩnh Long) về tội nhận hối lộ.
Theo tòa, cấp sơ thẩm đã xử thỏa đáng, Việt không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên tòa không thể giảm án.
2. Trang VnExpress có bài Hai luật sư tống tiền chủ cơ sở y tế. Bài báo phản ánh: Ngày 15/7, Công an tỉnh Bắc Ninh khởi tố bị can, tạm giam Nguyễn Văn Thư (37 tuổi, trưởng văn phòng đại diện một tạp chí về pháp luật) và Đào Thị Liễu (25 tuổi, nhân viên của ông Thư) để điều tra hành vi cưỡng đoạt tài sản.
Theo điều tra, Thư và Liễu đã sử dụng giấy khám sức khỏe của một cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Bắc Ninh cấp sai thẩm quyền để gây áp lực với lãnh đạo ở đây. Họ đe dọa sẽ viết bài phản ánh nếu chủ cơ sở y tế không giao tiền thông qua hình thức ký hợp đồng tuyên truyền trên tạp chí với mức 20-30 triệu đồng một lần đăng.
Khi nạn nhân từ chối, Thư và Liễu tiếp tục gây sức ép buộc đưa 5 triệu đồng. Trưa 4/7, hai bên đang giao nhận tại một quán nước trên đường Nguyễn Văn Cừ (thành phố Bắc Ninh) thì bị công an phát hiện.
Tại cơ quan điều tra, Thư và Liễu khai với thủ đoạn trên còn cưỡng đoạt tài sản của 5 cơ sở y tế khác trên địa bàn tỉnh với tổng số tiền gần 30 triệu đồng.
Trao đổi với VnExpress, một lãnh đạo Liên đoàn luật sư Việt Nam cho biết việc tước thẻ luật sư của Thư và Liễu sẽ căn cứ kết quả điều tra cũng như phán quyết của tòa án.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Người phạm tội có thể nộp tiền thay vì chấp hành hình phạt tù?. Bài báo phản ánh: Theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS), hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Có đến 74/267 điều của BLHS có quy định về hình phạt tiền, song thực tiễn cho thấy hình phạt tiền được áp dụng rất ít trên thực tế.
Một ví dụ rất điển hình được một thẩm phán Tòa Hình sự TAND TP.Hà Nội dẫn ra tại cuộc hội thảo hoàn thiện quy định của BLHS về hệ thống hình phạt không tước tự do do Bộ Tư pháp tổ chức. Đó là một vụ án có tình tiết rất éo le. Một nhóm bạn đến thăm vợ người bạn ốm. Ham vui, mấy ông bày trò đánh bài ăn tiền. Bị bắt quả tang trên chiếu bạc với số tiền hơn 2 triệu đồng (2 triệu là mức để truy tố), cả nhóm bị đưa ra Tòa.
Khi xét xử, thẩm phán nói trên đã rất băn khoăn bởi hoàn cảnh của các bị cáo đa phần khó khăn, lại sinh sống ở nông thôn nên nếu phạt họ 5 - 10 triệu thì cũng khó lòng thu được. Sau khi cân nhắc, thay vì phạt tiền, thẩm phán nọ đã tuyên bị cáo cải tạo không giam giữ.
Theo phân tích của thẩm phán này, cải tạo không giam giữ thì bị cáo vẫn có điều kiện chăm sóc vợ ốm. Trong trường hợp này, có lẽ việc tuyên án của Tòa vẫn là “hợp lý” hơn cả. Bởi bị cáo vừa không phải nộp tiền, lại vẫn được về gia đình sinh sống “bình thường”, hết thời hạn thì được xóa án tích.
Nhiều thẩm phán cũng rơi vào “hoàn cảnh” tương tự như trường hợp nêu trên và họ cho biết sự lựa chọn của họ cũng không phải là phạt tiền. Thực tế có rất nhiều vụ đánh bạc với giá trị nhỏ (vài triệu), phạm tội lần đầu, đối tượng có nhân thân tốt… nhưng cũng không “được” phạt tiền mà sẽ áp dụng các hình phạt khác tương tự như vụ án nói trên.
Theo Bộ Tư pháp, mục đích của các tội phạm kinh tế chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, do vậy cần nghiên cứu, bổ sung theo hướng tăng cường áp dụng hình phạt tiền (có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) đối với các tội phạm về kinh tế nhằm nâng cao tính răn đe và giảm nguy cơ tái phạm.
Theo hướng này thì cần mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền ngay cả đối với các tội phạm nghiêm trọng, thậm chí là một số trường hợp phạm các tội rất nghiêm trọng, đồng thời nâng mức phạt tiền cao hơn mức hiện hành; đồng thời sửa đổi một số quy định liên quan đến việc thi hành án để nâng cao tính răn đe và hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tiền và các hình phạt mang tính vật chất khác; nghiên cứu khả năng áp dụng các biện pháp tư pháp như: tịch thu tiền, tài sản, cấm vĩnh viễn hoặc cấm có thời hạn biện pháp tư pháp cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định liên quan đến các hoạt động kinh tế; nghiên cứu khả năng chuyển đổi hình phạt tiền (với ý nghĩa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung) với hình phạt tù có thời hạn khi mà người phạm tội có thái độ cố tình không chấp hành hình phạt tiền hoặc có biểu hiện tẩu tán tài sản gây khó khăn cho quá trình thi hành án.
Ngoài ra, nghiên cứu khả năng nâng mức hình phạt (hình phạt tù và các hình phạt khác) đối với các tội phạm về kinh tế nhưng lại có nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người như các tội phạm liên quan đến an toàn, vệ sinh thực phẩm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh...
TS Phạm Quý Tỵ đồng tình với quan điểm “giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền” nhưng đề nghị phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Để đảm bảo tính khả thi của hình phạt tiền trong thực tiễn thi hành hình phạt, trường hợp người phải chấp hành phạt tiền không thi hành thì chuyển sang phạt tù. Quy định như vậy, theo TS Phạm Quý Tỵ, để việc áp dụng hình phạt này được chặt chẽ, đáp ứng được mục đích chung của hình phạt là vừa trừng trị, vừa giáo dục, cải tạo người phạm tội, tránh vận dụng một cách tràn lan, dễ nảy sinh tiêu cực.
Giảng viên Lê Trung Kiên (Khoa Luật, Học viện Cảnh sát nhân dân) ủng hộ chủ trương mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng hình phạt tiền vì theo thống kê của ông Kiên, BLHS của Việt Nam hiện chỉ có trên 47% điều luật quy định về hình phạt tiền trong khi ở các nước tỷ lệ này rất cao. “Đành rằng không phải cao là tốt vì nó còn liên quan đến quan niệm thế nào là tội phạm, song cũng cần nghiên cứu” - ông Kiên nói và cho rằng, nên quy định điều kiện để áp dụng phạt tiền theo hướng nghiêm khắc hơn, ví dụ chỉ được nộp một lần với tội ít nghiêm trọng.
Một trong những yêu cầu của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số công việc trọng tâm của cải cách tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là “giảm hình phạt tù, hạn chế hình phạt tử hình, tăng cường các hình phạt không phải tù như phạt tiền, cải tạo không giam giữ…”.
Để cụ thể hóa yêu cầu của các Nghị quyết nói trên, nhiều ý kiến đồng thuận cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS theo hướng mở rộng phạm vi các trường hợp có thể áp dụng hình phạt tiền. Thậm chí, có thể quy định việc người phạm tội có thể nộp tiền thay vì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù, không nhất thiết phải cách ly họ khỏi xã hội.
Đặc biệt, trong các nhóm tội về tham nhũng, xử nặng không phải là “liều thuốc đặc trị” mà vấn đề không kém phần quan trọng là thu hồi tài sản do hành vi tham nhũng gây ra. Nếu người phạm tội tham nhũng tự nguyện nộp lại tài sản do tham nhũng mà có thì sẽ được giảm nhẹ hình phạt.
4. Báo Người Lao động có bài Lợi bất cập hại. Bài báo phản ánh: Đưa thông tin trên giấy khai sinh vào thẻ căn cước công dân (nay là CMND) để bỏ luôn giấy khai sinh được cho là một trong những biện pháp đơn giản hóa bộ giấy tờ cá nhân, được đưa ra trong quá trình xây dựng Luật Căn cước công dân và Luật Hộ tịch.
Làm cho bộ giấy tờ cá nhân được gọn nhẹ mà vẫn bảo đảm việc sử dụng giấy tờ có hiệu quả và tiện lợi trong giao dịch là điều tốt nhưng thật ra, không có nước nào làm gọn giấy tờ cá nhân bằng cách hợp nhất thẻ căn cước và giấy khai sinh. Lý do là mỗi loại giấy tờ có tính chất, chức năng riêng, phục vụ cho những mục tiêu riêng cả đối với cơ quan quản lý và đối với người mang giấy tờ liên quan.
Thẻ căn cước dùng để nhận dạng con người, cần thiết cho việc phân biệt người này với người khác khi tham gia giao dịch dân sự, hành chính, đề phòng sự giả danh để gian lận, lừa lọc. Giấy khai sinh để xác nhận việc có một người được sinh ra tại một thời điểm, có xuất xứ địa lý, gia đình… được ghi nhận rõ trong điều kiện có nguồn thông tin liên quan đáng tin cậy. Giấy khai sinh cùng với các giấy tờ hộ tịch khác tạo thành bộ tài liệu về lai lịch dân sự của cá nhân và là một phần của đời tư.
Là một loại giấy tờ hành chính nhằm phục vụ trước hết cho công tác quản lý của nhà chức trách, thẻ căn cước được xuất trình trong khuôn khổ thực hiện nghĩa vụ công dân trong quan hệ xã hội, cộng đồng. Thí sinh đi thi, hành khách bước lên máy bay, chủ sở hữu nhà đến cơ quan công chứng để xác lập giao dịch mua bán nhà… đều phải xuất trình thẻ căn cước để được nhận dạng. Nếu không có thủ tục này thì khó ngăn chặn nguy cơ phá hoại, lừa đảo của kẻ xấu.
Trong khi đó, giấy khai sinh được yêu cầu xuất trình một khi điều đó cần thiết cho việc bảo đảm thụ hưởng các quyền lợi mà luật pháp dành cho người này, người nọ có liên quan trong cuộc sống dân sự. Chẳng hạn, khi cần xác định tuổi của người xin đi học, xin đi làm, bầu cử, ứng cử; khi cần phải xác định quan hệ cha mẹ - con để giải quyết việc thừa kế tài sản, việc thiết lập quan hệ hợp tác giữa nhà trường và cha mẹ để giám hộ đối với học sinh...
Ở góc độ cung ứng dịch vụ công, có thể học kinh nghiệm của các nước tiên tiến rồi cải tổ bộ máy hành chính để số thẻ căn cước dùng được cho việc tìm kiếm các thông tin cá nhân khác, bao gồm thông tin về hộ tịch. Ví dụ, thay vì giao cho cơ quan công an quản lý việc cấp thẻ căn cước và cơ quan tư pháp quản lý hệ thống hộ tịch, chỉ cần thành một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý dữ kiện cá nhân: chỉ cần nạp số căn cước vào tài khoản giao dịch thì các dữ kiện về ngày tháng năm sinh, quê quán, cha mẹ, vợ chồng, con cái... có thể được cung cấp theo yêu cầu.
Ý kiến hợp nhất thẻ căn cước và giấy khai sinh có thể được bảo vệ bằng lý này, lẽ khác. Nhưng thử hình dung một ngày nào đó thẻ căn cước thay thế luôn cho giấy khai sinh và được cấp cho một người bị bỏ rơi lúc mới sinh, không xác định được cha mẹ. Ai nói được tâm trạng của người này mỗi khi đi thi, lên máy bay, lập chứng thư mua bán nhà, buộc phải xuất trình một tờ giấy có tác dụng nói cho tất cả mọi người biết rằng mình vốn là một đứa trẻ vô thừa nhận?!
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Đại đoàn kết có bài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Chủ động và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Bài báo đưa tin: Hôm qua (16-7) dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ đã họp Phiên chuyên đề về công tác xây dựng pháp luật.
Mở đầu phiên họp, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao đã báo cáo cập nhật tình hình liên quan tới việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam. Theo đó, từ tối 15-7, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam và đến sáng 16-7, giàn khoan 981 cùng các tàu hộ tống bảo vệ đã ra khỏi vùng biển của Việt Nam.
Tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp và các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế; yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam. Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi và cùng phát triển. Với tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng cùng Trung Quốc và các bên liên quan đàm phán hòa bình, giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao và biểu dương các cơ quan chức năng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển, bà con ngư dân, đồng bào ta cả trong và ngoài nước với lòng yêu nước nồng nàn đã biểu thị thái độ và trách nhiệm cao, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Việt Nam trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường chính nghĩa của Việt Nam; lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, bảo vệ chủ quyền là nhiệm vụ thiêng liêng đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên, liên tục chủ động và kiên quyết đấu tranh với mọi hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tỉnh ủy Bình Phước chỉ đạo thu hồi quyết định sa thải. Bài báo phản ánh: Thường trực Tỉnh ủy Bình Phước vừa chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Tỉnh ủy tiếp tục đôn đốc Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh Bình Phước yêu cầu Sở Y tế tỉnh thu hồi quyết định sa thải trái pháp luật đối với dược sĩ (DS) Trần Thị Kiều Oanh, Phòng Giám định y khoa (GĐYK) - Sở Y tế tỉnh Bình Phước.
Trước đó, Thường trực Tỉnh ủy Bình Phước cũng đã chỉ đạo Sở Y tế phải làm lại quy trình xử lý vụ việc, tổ chức kiểm điểm, xử lý kỷ luật đối với tập thể và cá nhân tại Phòng GĐYK liên quan những sai phạm mà DS Oanh tố cáo đúng. Dù Thường trực Tỉnh ủy đã chỉ đạo thu hồi quyết định sa thải sai nhưng đến nay lãnh đạo Sở Y tế tỉnh Bình Phước vẫn chưa thu hồi quyết định sa thải DS Oanh theo chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Phước...
“Việc lãnh đạo Sở Y tế không chấp hành chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh là một hành vi coi thường pháp luật, không chấp hành chỉ đạo của cấp trên. Tôi sẽ kiên quyết theo đuổi vụ việc đến cùng. Bởi người bị tố cáo có sai phạm lại ra quyết định đuổi việc tôi” - DS Oanh cho biết.
3. Báo Sài Gòn đầu tư tài chính có bài Thiếu vốn, thiếu luật. Bài báo phản ánh: Khái niệm đặc khu kinh tế (ĐKKT) thường được hiểu là một khu vực giới hạn về địa lý riêng biệt, vị trí thuận lợi. Ở đó được quản lý bởi một cơ quan quản lý ở cấp thể chế cao nhằm cung cấp các ưu đãi nhất định về thuế, thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Mục tiêu hướng đến của ĐKKT là xây dựng thể chế có sức cạnh tranh vượt trội để thu hút các nguồn lực đầu tư, làm động lực tạo ra sự phát triển kinh tế - xã hội vượt bậc.
Năm 2002, Việt Nam bắt đầu thí điểm mô hình KKT mở Chu Lai (Quảng Nam) và đến nay đã có 28 KKT cửa khẩu, 18 KKT ven biển với tổng diện tích khoảng 54.000ha. Kết luận 74-KL/TW ngày 17-10-2013 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khóa XI) một lần nữa đặt ra yêu cầu cần sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai thực hiện một số đề án thành lập khu hành chính - kinh tế đặc biệt.
3 ĐKKT được chọn gồm Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) và Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa). Ngoài 3 khu vực trên, nhiều địa điểm khác có thể được lựa chọn là Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu (KKT trọng điểm phía Nam); Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh (KKT trọng điểm phía Bắc), Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Định (KKT trọng điểm miền Trung)...
Trên thực tế, dù nhận được nhiều ưu đãi, nhưng đến nay chưa có một KKT nào phát triển đúng nghĩa. Điều đáng nói, một trong số những KKT này đang chạy theo phong trào, muốn “đặc cách” trở thành ĐKKT để hưởng ưu đãi nhiều hơn. Tỉnh Quảng Ngãi vừa qua ngỏ ý xin trung ương thành lập mô hình ĐKKT Dung Quất hay Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa mới đây cũng đề xuất xin thành lập một ĐKKT với nhiều ưu đãi đặc thù là những trường hợp điển hình. Và ngay lập tức, đề xuất trên của Formosa bị Chính phủ bác bỏ vì KKT này vốn được Chính phủ ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành.
Có thể nói, thực trạng phát triển ĐKKT ở nước ta chẳng khác gì “dò đá qua sông”. Sở dĩ nói như vậy là đến thời điểm này vẫn chưa có Luật về ĐKKT và đây chính là rào cản lớn khiến các nhà đầu tư quan ngại. Đối với những nhà đầu tư lớn “sừng sỏ”, cái họ quan tâm là một môi trường đầu tư mà ở đó khung pháp lý ổn định, đầy đủ, dịch vụ hành chính công chuyên nghiệp chứ không phải là những cam kết, hứa suông, tầm nhìn mông lung. Còn với những đòi hỏi được hưởng cơ chế ưu đãi kịch trần, chưa có tiền lệ như Formosa vừa qua thực chất là biểu hiện của việc nước ta đang thiếu khung pháp lý rõ ràng, nặng nề cơ chế “xin - cho”.
Để Hồng Công, Thâm Quyến, Dubai… thành công với mô hình ĐKKT như hiện nay, Chính phủ của họ này đã chi hàng trăm tỷ USD, đến khi có hiệu quả thực mới dám nghĩ đến việc nhân rộng. Bởi họ hiểu rằng muốn thu hút nhà đầu tư vào đặc khu phải mở hầu bao ngân sách thật rộng để đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh.
Tiềm năng phát triển ĐKKT tại Việt Nam có đủ nhưng thứ chúng ta thiếu là vốn. Nhưng dường như cấp quản lý vĩ mô cho đến chính quyền các địa phương đang đặt mục tiêu phát triển ĐKKT một cách cảm tính, quá nhiều, quá dàn trải. Riêng 3 ĐKKT tại Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, ước tính nguồn vốn xây dựng cơ bản lên đến vài chục tỷ USD. Như Quảng Ninh, đề án phát triển ĐKKT Vân Đồn giai đoạn 2014-2030 cần đến 12 tỷ USD.
Với nguồn vốn khổng lồ như vậy, Chính phủ sẽ lấy nguồn thu ở đâu để phân bổ cho Quảng Ninh và nhiều nơi xây dựng đặc khu? Cần thấy rằng bài học xương máu về hệ lụy phát triển ồ ạt cảng biển, khu tế cửa khẩu, KKT ven biển vẫn còn nguyên giá trị.
Với thực trạng như hiện nay, có thể nói con đường phát triển thành công mô hình ĐKKT đối với Việt Nam phía trước là một hành trình dài. Nếu thực hiện một cách nghiêm túc thì đây chính là điều kiện tốt để tận dụng thu hút các nguồn lực bên ngoài như công nghệ, vốn, nhân tài, kinh nghiệm, nhằm kích hoạt và phát triển các vùng kinh tế, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống người dân.
Nhiều ý kiến cho rằng, muốn phát triển thành công mô hình ĐKKT, trước hết Chính phủ cần sớm thông qua Luật về ĐKKT để xác định các tiêu chí, điều kiện, ngành nghề ưu tiên phát triển và lộ trình thực hiện. Từ đó đề ra các giải pháp, chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thương mại, đầu tư, phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực, cũng như vấn đề được nhà đầu tư quan tâm như phát triển hàng không, rộng cửa cho casino…
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, rất nhiều ĐKKT bị thất bại do quá phụ thuộc vào khuyến khích miễn giảm thuế, tiền thuê đất, bơm các gói ưu đãi hào phóng, nhưng ngược lại chính sách áp dụng không cho thấy tính cạnh tranh.
Chẳng hạn như, xúc tiến đầu tư kém hiệu quả; thủ tục chấp thuận đầu tư, cấp phép, phê duyệt dự án rườm rà; thủ tục hải quan phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa nhiêu khê; thiếu một hệ thống ngân hàng với quy chế hoạt động riêng để đáp ứng về tài chính; chính sách lao động và phát triển nguồn nhân lực, cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài bất cập. Cùng với “hạ tầng cứng”, cơ sở “hạ tầng mềm” đóng một vai trò hết sức quan trọng, song thường bị xem nhẹ đã tạo ra một rào cản vô hình, làm giảm tính năng động, linh hoạt và hiệu quả của các ĐKKT.