I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Đất Việt có bài: Bộ trưởng Tư pháp: Bắt dân photocopy tại cơ quan là sai. Bài báo phản ánh: Đang có hiện tượng lạm dụng bản sao chứng thực. Điều này vừa gây phiền hà, tốn kém cho người dân, lãng phí cho xã hội.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã nói như vậy trước thực trạng lạm dụng bản sao có chứng thực trong thực hiện thủ tục hành chính khiến người dân bức xúc.
Trên thực tế không ít hồ sơ dù yêu cầu nộp bản sao có công chứng nhưng sau đó cán bộ vẫn yêu cầu người dân xuất trình bản chính. Như vậy xem ra dấu chứng thực dường như không có ý nghĩa nhiều đối với văn bản đó, đặc biệt là trong hồ sơ tuyển sinh, tuyển dụng.
Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho rằng: Theo Nghị định số 79 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, người dân có quyền lựa chọn, hoặc nộp bản sao được cấp từ sổ gốc và bản sao được chứng thực từ bản chính; hoặc nộp bản photocopy xuất trình kèm bản chính để công chứng, để người tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm tự kiểm tra, đối chiếu bản chụp photocopy với bản chính.
Ông cũng thừa nhận hiện có tình trạng sử dụng bản sao có chứng thực đã vượt quá sự cần thiết, trở thành hiện tượng lạm giấy tờ chứng thực.
"Điều này vừa gây phiền hà, tốn kém cho người dân, lãng phí cho xã hội; vừa tạo áp lực quá tải cho UBND cấp xã, Phòng tư pháp cấp huyện, nhất là vào mùa thi cử, tuyển sinh các cấp học", ông Cường nói.
Không chỉ thế, còn có tình trạng tại một số UBND cấp xã, khi thực hiện bản sao từ bản chính giấy tờ/văn bản cho dân thì người tiếp nhận hồ sơ không chấp nhận bản photocopy từ bản chính do người dân tự mang đến mà thường yêu cầu phải photocopy tại trụ sở UBND và thu tiền photocopy.
Theo ông Cường: "nếu yêu cầu người dân không chấp nhận bản photocopy do người dân mang đến, yêu cầu photocopy tại cơ quan mình là sai so với quy định".
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng cho rằng: “hiện nay tất cả các phòng tư pháp cấp huyện, đa phần các xã đều có máy photocopy, nên nếu người dân cần chứng thực bản sao, thì nên mang bản chính đến nơi công chứng và yêu cầu bộ phận tư pháp photocopy, sau đó chứng thực cho mình. Vừa thuận tiện cho người dân, vừa đảm bảo an toàn cho công tác chứng thực”.
Bộ trường Bộ Tư pháp cũng cho biết, ngày 20/6/2014 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 17 về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính. Chỉ thị đã giao cho Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện các nhóm nhiệm vụ chủ yếu và đều phải hoàn thành trước ngày 31/3/2015.
2. Báo Nhân dân có bài: Một bản án thiếu sức thuyết phục. Bài báo phản ánh: Trong các ngày gần đây, dư luận nhân dân ở Thủ đô Hà Nội hết sức bức xúc về kết quả phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân TP Hà Nội khi Hội đồng xét xử tuyên phạt Trịnh Ngọc Chung, nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, Hà Nội về tội: "Ra quyết định trái pháp luật" với mức án 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Lý do làm cho dư luận bất bình là vì, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Trịnh Ngọc Chung mức án quá nhẹ so với hành vi phạm tội mà bị cáo này đã gây ra đối với hoạt động tư pháp và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Ngày 12-8-2011, Báo đã đăng bài: "Vụ thi hành án gây bức xúc dư luận ở Hà Nội" nêu rõ nhiều sai phạm của Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong quá trình tổ chức thi hành quyết định của Tòa án nhân dân (TAND) TP Hà Nội công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, nhất là việc thi hành bản án không có hiệu lực pháp luật, tổ chức cưỡng chế giao nhà 194 Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội có nhiều sai phạm, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Căn cứ kết quả kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm trong bài báo nói trên của Báo Nhân Dân, ngày 28-10-2011, thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đã ký quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội: "Ra quyết định trái pháp luật" quy định tại Ðiều 296 Bộ luật Hình sự xảy ra tại Chi cục THADS quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ðến ngày 10-4-2012, Cơ quan điều tra VKSNDTC đã ra quyết định khởi tố bị can đối với Trịnh Ngọc Chung lúc đó là Chi cục trưởng chi cục này về tội: "Ra quyết định trái pháp luật". Những hành vi phạm tội của Trịnh Ngọc Chung đã gây thiệt hại cho gia đình ông Hoàng Ngọc Minh ở 194 Phố Huế, Hà Nội lên đến hơn 6,6 tỷ đồng. Kết quả điều tra đã khẳng định, trong quá trình thi hành án, Trịnh Ngọc Chung đã có hàng loạt vi phạm mang tính cố ý như: Kê biên nhà 194 Phố Huế cũng như quá trình bán đấu giá không thông báo cho các đồng chủ sở hữu biết; nhà 194 Phố Huế chưa có "sổ đỏ", không đủ điều kiện để chuyển dịch bất động sản cũng như đang bị phong tỏa mà chưa có quyết định giải tỏa; chỉ đạo thư ký giả mạo chữ ký, thêm nội dung vào biên bản thi hành án trái với ý chí, nguyện vọng của người thi hành án; vận dụng Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26-7-2010 không đúng, tự chế ra mẫu quyết định cưỡng chế sai với biểu mẫu theo quy định của Bộ Tư pháp. Do đó, đủ căn cứ để xác định Trịnh Ngọc Chung biết rõ quyết định cưỡng chế giao nhà là trái pháp luật. Vì vậy, ngày 8-7-2013, VKSNDTC đã có cáo trạng truy tố Trịnh Ngọc Chung ra trước Tòa án nhân dân TP Hà Nội để xét xử theo Khoản 3, Ðiều 296 Bộ luật Hình sự về tội "Ra quyết định trái pháp luật". Theo quy định tại Khoản 3, điều luật này, Trịnh Ngọc Chung đã phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và phải bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
Những ai quan tâm đến vụ án này tưởng rằng Tòa án nhân dân TP Hà Nội sẽ sớm đưa vụ án ra xét xử để bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Thế nhưng, quá thời hạn pháp luật quy định, vụ án vẫn chìm trong im lặng. Nhiều bạn đọc đã gửi đơn đề nghị và gia đình bị hại đã gửi đơn kêu cứu khẩn cấp đến Báo Nhân Dân cũng như nhiều cơ quan báo chí khác với mong muốn Báo tiếp tục lên tiếng để vụ án được đưa ra xét xử. Thể theo yêu cầu chính đáng nói trên của bạn đọc, ngày 30-5-2014, Báo Nhân Dân đã đăng bài: Vì sao vụ án "Ra quyết định trái pháp luật" ở Hà Nội chậm đưa ra xét xử? Và sau đó, mãi đến ngày 7 và 8-7-2014, vụ án mới được đưa ra xét xử. Ðiều khiến dư luận và nhiều người trực tiếp dự phiên tòa hết sức bất bình là Hội đồng xét xử chỉ tuyên phạt bị cáo Trịnh Ngọc Chung 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thấp hơn rất nhiều so với đề nghị của đại diện VKSND TP Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên tòa là từ năm đến sáu năm tù.
Hội đồng xét xử cũng đã thừa nhận, mặc dù bị cáo Chung quanh co chối tội, nhưng có đủ căn cứ để khẳng định Trịnh Ngọc Chung đã chỉ đạo nhân viên cấp dưới sửa chữa, làm sai lệch hồ sơ thi hành án, biết rõ việc ban hành văn bản thi hành án là sai luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện, gây thiệt hại lớn cho người dân. Ðồng thời, việc Hội đồng xét xử viện dẫn tình tiết giảm nhẹ để áp dụng Khoản 2, Ðiều 296 Bộ luật Hình sự: "Mặc dù quá trình thẩm vấn tại phiên tòa bị cáo Chung quanh co chối tội, nhưng do bị cáo là người trưởng thành trong quân đội, lại có rất nhiều bằng khen của các cấp cơ quan nên Tòa thấy không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội" là không thuyết phục. Vì Hội đồng xét xử đã thừa nhận Trịnh Ngọc Chung cố ý phạm tội, gây thiệt hại lớn cho người dân, mà thiệt hại ở đây được cáo trạng xác định là hơn 6,6 tỷ đồng, có nghĩa rằng đã ở mức rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy, bị cáo này lại "quanh co chối tội", không có biểu hiện của sự "ăn năn hối cải". Mặt khác, kể từ khi bị khởi tố bị can đến lúc Tòa tuyên án đã gần ba năm, nhưng bị cáo Chung vẫn không hề có động thái tích cực nào để ngăn ngừa, giảm bớt tác hại do hành vi phạm tội của mình gây ra cho người dân và cũng chưa hề có hành vi nào khắc phục hậu quả. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân TP Hà Nội còn có sự ưu ái khác đối với Trịnh Ngọc Chung bằng cách không coi gia đình ở số nhà 194 Phố Huế là "bị hại" mà chỉ là "người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan"; đồng thời tách phần bồi thường thiệt hại thành một vụ án khác. Ðiều đó có nghĩa rằng, gia đình này đã bị tước đi quyền kháng cáo đối với bản án Hội đồng xét xử đã tuyên ngày 10-7-2014 và hình phạt đối với bị cáo Chung mà chỉ có quyền kháng cáo bản án về các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại dân sự.
Có thể nói, hệ thống hành vi phạm tội của Trịnh Ngọc Chung là cố ý, đã xâm hại nghiêm trọng đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp và quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, gây bất bình và mất niềm tin trong quần chúng nhân dân về sự nghiêm minh của pháp luật. Ðể bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, đề nghị VKSND TP Hà Nội và VKSNDTC cần sớm kháng nghị bản án sơ thẩm nói trên để xét xử theo hướng tăng nặng hình phạt đối với Trịnh Ngọc Chung.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Kiểm tra một luật sư có dấu hiệu khai thác cát lậu. Bài báo phản ánh: Ngày 13-7, luật sư Nguyễn Toàn Thiện, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận, cho biết đã nhiều lần liên lạc với ông Trần Văn Xê, luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp, để yêu cầu giải trình về dư luận xung quanh việc ông Xê tổ chức khai thác cát lậu nhưng bất thành.
Ngày 11-7, đoàn kiểm tra liên ngành có báo cáo cho UBND tỉnh Bình Thuận về các sai phạm của ông Xê. Theo báo cáo, tại xã Hàm Liêm (Hàm Thuận Bắc) có ba hộ khai thác cát trái phép, riêng ông Xê khai thác trên diện tích 10 ha. Khu vực khai thác cát trái phép của ông Xê nằm trong diện tích 27 ha mà ông Xê khi còn là giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận đã lấn chiếm. Từ đầu năm 2013 đến nay, chính quyền địa phương đã nhiều lần kiểm tra, tịch thu của ông Xê sáu động cơ diesel, một đầu bơm hút cát và xử phạt 30 triệu đồng nhưng ông Xê không chấp hành. Nguồn gốc diện tích đất trên, theo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bình Thuận, ông Xê đã mạo danh người khác mua đất, làm giả hồ sơ và được cấp năm “giấy đỏ”. Năm 2009 huyện Hàm Thuận Bắc ra quyết định thu hồi giao cho UBND xã Hàm Liêm quản lý nhưng ông Xê không chấp hành. Theo đoàn kiểm tra, việc khai thác khoáng sản trái phép của ông Xê đã hủy hoại đất, ảnh hưởng đến môi trường, cảnh quan. Vị trí khai thác gần trụ điện cao thế 500 KV, đe dọa đến an toàn móng trụ…
Vào tháng 7-2009, ông Xê xin từ chức giám đốc Sở Tư pháp sau khi Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bình Thuận phanh phui hàng loạt sai phạm và khối tài sản bất minh của ông Xê. Sau khi nghỉ việc, năm 2012 ông Xê lập văn phòng luật sư và Thanh tra Sở Tư pháp yêu cầu xem xét lại hoạt động của văn phòng này.
4. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Người tâm thần gây án: Biết trước hậu quả nhưng thiếu phòng ngừa. Bài báo phản ánh: Người tâm thần không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nói nôm na, khi họ gây án thì không phải đi tù mà chỉ phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Nhưng bệnh tâm thần dù đã được điều trị ổn định vẫn có nguy cơ tái phát và tiếp tục gây ra những hậu họa khôn lường, trong khi pháp luật tố tụng hình sự lại chưa có quy định buộc người tâm thần phải đến cơ sở khám chữa bệnh để điều trị nếu họ chưa… gây án.
Mới đây, chỉ vì bực tức khi thấy cháu ruột là bé Bùi Nguyễn Hoài Thương (15 tháng tuổi) quấy khóc đòi mẹ, đối tược Bùi Quyết Thắng (20 tuổi, tạm trú tại tổ 13, khu phố Quang Trung, phường Vĩnh Quang, TP.Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, là em ruột mẹ bé Thương), đã lấy than nhét vào miệng cháu bé khiến cháu tử vong. Được biết, Thắng là đối tượng bị tâm thần vĩnh viễn sau vụ tai nạn bị cây đè.
Trước đó, trong vòng 3 ngày, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh cũng xảy ra 2 vụ án mạng đau lòng mà hung thủ có biểu hiện bệnh lý về tâm thần. Vụ thứ nhất xảy ra vào khoảng 21h ngày 5/6, đối tượng gây án là Lê Minh Tâm (38 tuổi, ngụ ấp Tân Tiến, xã Tân Lập, huyện Tân Biên) trong lúc không kiểm soát được hành vi của mình đã dùng dao đâm vào cổ con gái mới 7 tuổi của mình khiến cháu bé thiệt mạng. Theo người nhà cho biết, Tâm có biểu hiện của bệnh tâm thần, cách đây 3 năm đã được đi khám và chữa bệnh tại Bệnh viện T.Ư 2 (Đồng Nai).
Cách đây không lâu, tại Thanh Hóa cũng xảy ra vụ án mạng đau lòng do người tâm thần gây ra khiến hai cháu bé là anh em ruột chết thảm. Người đàn ông hàng xóm vốn rất hiền lành bỗng vô cớ xông vào nhà các em vung dao chém tới tấp khi các em đang nằm chơi trên giường khiến người lớn không kịp trở tay.
Sau chuyện này, người gây án buộc phải vào cơ sở chữa bệnh thay vì phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng khi người bệnh được bệnh viện cho về vì sức khỏe đã ổn định thì cả làng, cả xóm lo ngay ngáy. Họ lo một ngày nào đó, bệnh tâm thần của người này lại có nguy cơ tái phát và biết đâu sẽ cướp đi sinh mạng của bao nhiêu người khác nữa.
Và không chỉ người dân mà cả các cơ quan, đoàn thể thuộc chính quyền thôn, xã đều viết đơn lên tỉnh, lên Trung ương đề nghị cách ly “kẻ giết người” khỏi địa phương, nhưng tất cả những đề nghị của họ đều không được giải quyết bởi một lý do đơn giản: pháp luật chưa có quy định cách ly người tâm thần ra khỏi cộng đồng khi họ đã được điều trị bệnh ổn định.
Không thể kể hết những hậu quả mà người tâm thần gây ra và điều đau lòng hơn, hầu hết những nạn nhân trong các vụ án mạng đều là ruột thịt hoặc người thân của người bị tâm thần. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, chính gia đình của người bị tâm thần lại giấu bệnh của con em mình khiến mọi người xung quanh chủ quan và không cảnh giác, để đến khi họ gây ra án mạng thì sự việc đã không thể cứu vãn.
Ngay từ năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/2011/NĐ-CP về việc thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh tâm thần. Nhưng việc chữa bệnh bắt buộc này chỉ được áp dụng từ giai đoạn điều tra theo quyết định của cơ quan tố tụng - tức là khi đã có hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật hình sự - còn trước khi người tâm thần gây án, họ không bị bắt buộc chữa bệnh để ngăn ngừa hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Nhiều luật sư cho rằng, mặc dù có thể nhìn thấy trước hậu quả do hành vi nguy hiểm của người tâm thần gây ra nhưng pháp luật hiện hành đang thiếu hẳn quy định về phòng ngừa người tâm thần gây án cũng như trách nhiệm người “cầm chịch” trong việc đưa người tâm thần đi chữa bệnh (chính quyền địa phương hay các cơ quan tố tụng?). Và dù cơ quan chức năng có yêu cầu gia đình bệnh nhân đưa người tâm thần vào các trung tâm chữa trị, nhưng nếu gia đình họ không có tiền hoặc neo đơn thì cũng chẳng thể xử lý được.
Trường hợp này, cơ quan điều tra đành giao cho chính quyền địa phương quản lý, tuy nhiên việc làm đó phần nhiều mang tính hình thức, không phải lúc nào chính quyền cũng có điều kiện để mắt đến người tâm thần. Chính vì vậy, việc phải sống chung với người tâm thần đang là mối lo ngại của toàn xã hội khi họ không được quản lý và kiểm soát chặt chẽ.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Ống nước sông Đà liên tục vỡ, cần truy cứu trách nhiệm từng cá nhân. Bài báo phản ánh: Theo quan điểm của luật sư, về trách nhiệm cụ thể, cơ quan có thẩm quyền chưa chỉ rõ cá nhân, đơn vị nào phải chịu trách nhiệm trong việc gây hậu quả nghiêm trọng.
Sau 7 lần xảy ra sự cố vỡ đường ống nước, chiều ngày 10/7, trước khi trả lời HĐND Hà Nội về nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp khắc phục việc đường ống dẫn nước sông Đà bị vỡ tới 7 lần, ảnh hưởng cuộc sống của 70.000 hộ dân, Phó chủ tịch UBND TP Nguyễn Quốc Hùng thông báo: “Đường ống nước sạch sông Đà về Hà Nội lại vỡ rồi".
Theo ông Hùng, việc đường ống dẫn nước sông Đà về Hà Nội vỡ đến lần thứ 8 cũng không phải là vấn đề mới vì ngay từ đầu sự cố đường ống dẫn nước được UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo đưa ra rất nhiều giải pháp khắc phục. Thay mặt UBND thành phố, ông Hùng cũng mong sẽ nhận được sự chia sẻ của nhân dân.
Khi thông tin này chưa kịp "nguội", thì 4h sáng nay 12/7, ống nước Sông Đà lại tiếp tục... vỡ!
Như vậy, tính đến nay, sau 6 năm đi vào sử dụng đường ống nước sông Đà đã 9 lần bị vỡ. Dự án làm đường ống thứ 2 dẫn nước sông Đà về Hà Nội đang được lên kế hoạch nhưng từ giờ đến khi được thực hiện hàng chục nghìn hộ dân vẫn phải thấp thỏm sống trong cảnh ống vỡ - mất nước.
Liên quan đến sự việc này, Luật sư Vi Văn Diện – Giám đốc Công ty luật Thiên Minh đưa ra quan điểm rằng, cơ quan cảnh sát điều tra cần vào cuộc xem xét hành vi vi phạm của các đơn vị trúng thầu thi công đường ống dẫn nước Sông Đà bị vỡ và sửa chữa đi, sửa chữa lại đến 8 lần.
"Đường ống dẫn nước Sông Đà được xem là công trình đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân sinh, hơn thế đây là một công trình có quy mô lớn, có sử dụng vốn đầu tư lớn nên việc giám sát, thi công công trình phải được kiểm soát một cách chặt chẽ để bảo đảm chất lượng công trình". Luật sư Diện nhấn mạnh.
Ông Diện cũng cho biết thêm: Tuy nhiên, công trình này đã bị hư hỏng và phải sửa chữa nhiều lần và kéo theo đó là việc tiêu tốn tiền của của nhà nước, của nhân dân nhưng vấn đề trách nhiệm cụ thể thì không thấy chỉ rõ cá nhân nào phải chịu, hoặc do thiếu trách nhiệm mà các cơ quan chức năng không quyết liệt trong việc xử lý các đơn vị có liên quan, những cá nhân, đơn vị thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Xét thấy có dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật hình sự được quy định tại Điều 165 về tội danh "Cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" và Điều 285 về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng". Vì vậy, theo LS Diện, cơ quan điều tra cần thiết phải vào cuộc làm sáng rõ có hay không hành vi phạm tội của những cá nhân, đơn vị đã gây ra hậu quả nghiêm trọng này.
2. Báo Việt Nam.net có bài: Đường lưỡi bò của TQ nuốt chửng vùng biển láng giềng. Bài báo phản ánh: TQ ngụy biện khi liên hệ đường lưỡi bò với các khái niệm quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển hiện đại. Không phải 80% Biển Đông trong phạm vi đường lưỡi bò mà gần như 100% vùng biển của VN, Malaysia, Philippines bị vẽ thuộc về TQ.
Do không có sự rõ ràng trong lập trường chính thức của TQ và để đối phó với sự chất vấn liên tục của các nhà nghiên cứu nước ngoài, tại các diễn đàn quốc tế, các học giả TQ đã cố gắng đưa ra ít nhất 3 cách giải thích khác nhau về nội dung yêu sách của đường lưỡi bò.
Theo cách giải thích thứ nhất, thẩm phán Tòa án Luật biển quốc tế, GS Cao Chí Quốc (Gao Zhiguo), nguyên Viện trưởng Viện chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương quốc gia TQ cho rằng đường này yêu sách sở hữu các đảo nằm bên trong hơn là một đường biên giới biển. Ông nhận xét: Nghiên cứu kỹ các tài liệu TQ cho thấy TQ chưa bao giờ yêu sách toàn bộ cột nước của biển Nam Trung Hoa mà chỉ các đảo và vùng nước xung quanh các đảo nằm trong đường này.
Về cách giải thích thứ hai, Phan Thạch Anh (Pan Shiying) cho rằng con đường này đã tồn tại một nửa thế kỷ nay, không quốc gia nào phản đối và vì vậy đã tạo ra một danh nghĩa lịch sử cho TQ, là con đường biên giới quốc gia. TQ yêu sách chủ quyền không chỉ các đảo, đá của bốn quần đảo Đông Sa, Tây Sa (Hoàng Sa), Trung Sa (bãi ngầm Macclefield) và Nam Sa (Trường Sa) mà toàn bộ vùng nước trong đường chữ U đó. Theo ông, chính phủ TQ, thông qua việc ấn bản các bản đồ này muốn gửi ba thông điệp tới cộng đồng quốc tế:
1. Khu vực nằm trong đường biên giới này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của TQ trong lịch sử.
2. Phù hợp với các công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con đường đứt khúc 11 đoạn này (sau thay bằng 9 đoạn) đã được vạch theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa với đường bờ biển của các quốc gia kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian đó của chiếm cứ, chiếm hữu và quản lý.
3. Thực tiễn sử dụng các đường đứt khúc hơn là một đường liên tục để đánh dấu một số các khu vực chủ chốt đã chỉ ra thực chất của việc chưa dứt điểm, để lại khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai.
Nói cách khác, vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của TQ. Con đường này chỉ là hình thức, còn danh nghĩa lịch sử của TQ trên vùng biển này mới là nội dung.
Một biến thể của cách giải thích này được kết hợp với Công ước Luật biển UNCLOS sẽ cho phép TQ coi đường lưỡi bò là đường cơ sở để từ đó mở rộng thêm các vùng lãnh hải 12 hải lý, đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Nói một cách khác, không phải 80% Biển Đông trong phạm vi đường lưỡi bò mà gần như 100% vùng biển của VN, Malaysia, Philippines thuộc TQ.
Về cách giải thích thứ ba, GS Zou Keyuan, Lancashire Law School of the University of Central Lancashire, Anh cho rằng yêu sách của TQ không nên xem như yêu sách vùng nước lịch sử theo nghĩa truyền thống mà giống như một dạng yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán lịch sử chứ không phải là yêu sách chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối.
Có nghĩa là các đảo, đá, địa vật trong Biển Đông được hưởng các vùng nước lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa như luật biển quy định. Tại các vùng nước bên ngoài các vùng biển này nhưng nằm trong đường lưỡi bò, TQ có các quyền lịch sử về đánh cá, về tài nguyên không sinh vật...
Nói cách khác, đây là sự nguỵ biện liên hệ đường lưỡi bò với các khái niệm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển hiện đại.
Đây là cách vừa biện minh đường lưỡi bò, vừa chứng tỏ TQ không đi ngược lại các cam kết của mình khi ký và phê chuẩn Công ước Luật biển như ông Wang Junming đã phát biểu.
3. Báo Dân trí có bài: "Không thể chấp nhận được". Bài báo phản ánh: Đó là câu nói của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – không phải một lần mà nhắc đi, nhắc lại nhiều lần tại buổi làm việc với Tổng cục Thuế và Hải quan ngày 9.7.
Câu nói đó là xuất phát từ sự cảm thông, chia sẻ, thấu hiểu nỗi khổ của cộng đồng doanh nghiệp khi phải đối diện với quá nhiều khó khăn mà thuế và hải quan là hai chướng ngại rất ghê gớm. Đúng ra, các cơ quan này sinh ra để phục vụ doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp, không phải sinh ra để làm một lực cản.
Nhưng trên thực tế, nó là một lực cản.
Thời gian nộp thuế mỗi năm 876 giờ, thời gian xuất nhập khẩu 21 ngày thì còn sức đâu để cạnh tranh, bao nhiêu cơ hội bị vuột qua. Câu hỏi đơn giản vì sao các nước khác rút ngắn được chỉ 1/3 thời gian nộp thuế của Việt Nam mà Việt Nam không làm được. Câu trả lời duy nhất là do cơ chế hành chính công và con người thực thi công vụ.
Ngành thuế sòng phẳng cho rằng cán bộ thuế trực tiếp làm việc với doanh nghiệp dễ nảy sinh tiêu cực, vậy thì thông minh nhất là hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp đó. Chính phủ điện tử, thành tựu công nghệ thông tin, tự động hóa mà nhân loại phát kiến tại sao lại không đưa vào khai thác. Nếu như các hoạt động nhà nước – công dân công khai trên hệ thống điện tử thì không có nhiều cơ hội tiêu cực, cho dù không xóa được hết thì cũng loại bỏ được rất nhiều.
Doanh nghiệp nộp thuế là làm nghĩa vụ ngân sách, là đóng góp đồng tiền do trí tuệ, sức lao động và sự lương thiện của mình. Vậy thì ngành thuế phải tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đó. Doanh nghiệp chân chính không muốn trốn thuế, không muốn chia chác với cán bộ thuế để thu lợi bất chính. Chưa kể, cán bộ thuế liêm khiết thì cho dù doanh nghiệp có muốn làm điều sai trái đó cũng không được.
Nói như vậy để khẳng định rằng, tiêu cực là do chính bộ máy công quyền.
Hải quan cũng không khác. Hiện nay, doanh nghiệp đến với hải quan như thảo dân diện kiến “long nhan”, bẩm thưa, xin xỏ để dược kinh doanh. Tại sao lại vậy, việc của doanh nghiệp là kinh doanh, việc của hải quan là thực hiện các thủ tục kinh doanh cần thiết cho doanh nghiệp theo thẩm quyền. Hải quan lãnh lương cũng từ đồng tiền thuế mà ra, trong đó có thuế thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Không ai có thể nhớ hết có bao nhiêu cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp và chính quyền các địa phương, trung ương để “tháo gỡ khó khăn”. Tuy nhiên, càng tháo thì càng rối thêm và cuộc gặp nào doanh nghiệp cũng đưa ra những khó khăn cũ để xin được tháo gỡ. Vậy thì những cuộc tiếp xúc đó có ý nghĩa gì, có hiệu quả gì?
Câu nói “Không thể chấp nhận được” của Thủ tướng chính là tối hậu thư để giải quyết tồn tại bao nhiêu năm qua. Thuế, hải quan phải thay đổi, cải tiến trên tinh thần phục vụ nhân dân thì mới nâng sức mạnh của doanh nghiệp và tác động tích cực vào nền kinh tế đất nước.