I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Dân Việt có bài Vụ 'ăn tiệc trong giờ làm ở Long An': Giám đốc Sở Tư pháp xin rút lại danh hiệu. Bài báo phản ánh: Liên quan đến vụ “ăn tiệc trong giờ làm, nhiều cán bộ phải giải trình”, ngày 24.6, bà Trần Thị Nhanh-Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Long An cho biết: Qua thông tin báo chí, lãnh đạo Tỉnh ủy đã kịp thời chỉ đạo Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh và Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tiến hành kiểm tra, giám sát vụ việc đúng như báo nêu.
Kết quả giám sát cho thấy, sáng 6.5, ông Trần Minh Mẫn - Giám đốc Sở Tư pháp Long An, với tư cách là Phó Cụm trưởng Cụm thi đua khu vực ĐBSCL cùng với Cục Thi hành án dân sự tỉnh tổ chức Hội nghị kiểm tra công tác thi đua tại Long An. Hội nghị có lãnh đạo Sở Tư pháp các tỉnh: Bạc Liêu, Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang tham dự. Kết thúc hội nghị có dùng cơm trưa, buổi cơm trưa đó Sở Tư pháp Long An có 5 người dự gồm: Ông Trần Minh Mẫn; Nguyễn Văn Lâm - Phó Giám đốc Sở Tư pháp; ông Nguyễn Văn Gấu - Cục trưởng Cục Thi hành án tỉnh; ông Nguyễn Thanh Liêm - quyền Chánh văn phòng sở và tài xế Trần Thế Kỷ.
Bà Nhanh còn cho biết thêm: Việc tổ chức dùng cơm trưa có uống bia như báo nêu là có, nên sau khi có dư luận không tốt, các đồng chí Mẫn, Gấu và Lâm đều tự giác nhìn nhận có thiếu sót, khuyết điểm, đã nhận khuyết điểm trước cấp ủy cơ sở, lãnh đạo cơ quan, đồng thời báo cáo giải trình với lãnh đạo cấp ủy cấp trên, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án, nghiêm túc kiểm điểm xem đây là bài học kinh nghiệm.
Riêng ông Mẫn có đơn xin rút tên ra khỏi danh sách nêu gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2013.
Bà Nhanh còn khẳng định: Hướng tới đây sẽ tiến hành thu hồi danh hiệu gương điển hình tiên tiến việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2013 và các hình thức khen, thưởng kèm theo; UBND tỉnh không xem xét nâng lương trước thời hạn đối với ông Mẫn. Đồng thời, Đảng ủy cơ sở Sở Tư pháp và Chi bộ cơ sở Cục Thi hành án dân sự tỉnh tổ chức kiểm điểm nghiêm túc theo quy trình tại chi bộ đối với các ông: Mẫn, Gấu, Lâm.
Riêng đối với công chức Liêm và viên chức Kỷ có tham gia uống bia, lãnh đạo Sở Tư pháp tổ chức kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tòa ra quyết định thi hành án, dân hưởng lợi. Bài báo phản ánh: ĐB Nguyễn Thái Học (Phú Yên) chỉ rõ thực tế: “Xác minh điều kiện THA là khâu thực tế đang có rất nhiều hạn chế, thậm chí tiêu cực. Nếu giao chấp hành viên xác minh điều kiện THA sẽ thuận lợi hơn cho người dân và tiết kiệm chi phí…”.
Giao Tòa ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành là khắc phục những tồn tại, cắt khúc như hiện nay; đồng thời gắn kết trách nhiệm của Tòa án trong giải thích, đính chính bản án của Tòa án, tăng niềm tin của người dân, góp phần giảm thiểu khiếu kiện, cũng tăng trách nhiệm của Tòa khi tuyên án.
Một trong những nội dung được nhiều Đại biểu Quốc hội (ĐB) đặc biệt quan tâm trong phiên thảo luận về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự (THADS) chiều qua 23/6 là có nên giao TAND ra “quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành”.
ĐB H’Yim Kđoh (Đắk Lắk) bày tỏ sự tán thành cao với quy định này, vì theo ĐB: “Kết quả thi hành án (THA) những năm qua đạt cao cho thấy mô hình cơ quan THA hiện nay là phù hợp. Quy định như Dự thảo sẽ đảm bảo tính ổn định, không làm tăng thêm bộ máy, biên chế, đồng thời đảm bảo sự gắn kết của Tòa án, bảo đảm bản án đã tuyên phải được các cơ quan, tổ chức thi hành nghiêm”.
Các ĐB Lê Đắc Lâm (Bình Thuận), Đinh Xuân Thảo (Hà Nội), Huỳnh Ngọc Ánh (TP.Hồ Chí Minh), Đào Thị Xuân Lan (Hưng Yên) cùng chung lập luận: THA là khâu cuối cùng của tố tụng. Thực tế nhiều bản án không rõ khó thi hành, khi THA đề nghị giải thích thì Tòa trả lời chậm hoặc không trả lời khiến quá trình THA bị kéo dài.
Vì thế giao Tòa ra quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành là khắc phục những tồn tại, cắt khúc như hiện nay; đồng thời gắn kết trách nhiệm của Tòa án trong giải thích, đính chính bản án của Tòa án, tăng niềm tin của người dân, góp phần giảm thiểu khiếu kiện, cũng tăng trách nhiệm của Tòa khi tuyên án.
Tại Báo cáo thẩm tra, Ủy ban Tư pháp cũng cho biết nhiều ý kiến tán thành với Tờ trình và Dự thảo Luật về giao TAND ra “quyết định đưa bản án, quyết định ra thi hành”. Quyết định này thể hiện quyền lực tư pháp, làm cơ sở cho cơ quan THADS tổ chức thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Quy định này vừa bảo đảm sự gắn kết trách nhiệm của TAND đối với bản án, quyết định của mình, đồng thời không gây ra xáo trộn lớn về tổ chức và thẩm quyền. Tuy nhiên, quá trình thảo luận cũng còn những ý kiến khác nhau.
ĐB Hồ Văn Năm (Đồng Nai) cho rằng nên giữ nguyên như hiện hành (Tòa án chỉ chuyển giao bản án, quyết định). Theo ĐB, muốn tăng cường trách nhiệm, Tòa án chỉ cần tăng cường kiểm tra và giải quyết các vấn đề vướng mắc khi ban hành bản án.
Theo Dự thảo Luật sửa đổi, người được THA phải có đơn yêu cầu THA. ĐB H’Yim KĐoh (Đắk Lắk) chỉ rõ: Trước đây pháp luật quy định người được THA không phải làm đơn, nhưng thực hiện quy định này gặp nhiều vướng mắc, nhiều bản án hai bên tự thực hiện với nhau dẫn đến tình trạng án tồn từ năm này qua năm khác.Thực tế thực hiện quy định này hiện nay cũng không vướng mắc, do đó có đơn yêu cầu như Dự luật là hợp lý.
ĐB Đinh Xuân Thảo (Hà Nội) và nhiều ĐB khác cũng nhận định quy định này phù hợp nguyên tắc của pháp luật dân sự, phù hợp thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ĐB bày tỏ sự quan ngại khi làm đơn sẽ khó khăn cho người dân, vì thực tế nhiều người dân ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số trình độ hiểu biết pháp luật rất hạn chế, họ không hiểu phải có đơn yêu cầu mới được thi hành.
Riêng quy định chuyển nghĩa vụ xác minh điều kiện THA từ người được THA về cho chấp hành viên, tuyệt đại đa số ĐB tán thành. ĐB Nguyễn Thái Học (Phú Yên) chỉ rõ thực tế: “Xác minh điều kiện THA là khâu thực tế đang có rất nhiều hạn chế, thậm chí tiêu cực. Nếu giao chấp hành viên xác minh điều kiện THA sẽ thuận lợi hơn cho người dân và tiết kiệm chi phí…”.
Về vấn đề này, tại Báo cáo thẩm tra, Ủy ban Tư pháp cũng tán thành với Dự thảo Luật về việc sửa đổi quy định về xác minh điều kiện THA theo hướng giao trách nhiệm này cho cơ quan THADS, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho người được THA tự mình hoặc nhờ cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định xác minh điều kiện của người phải THA để cung cấp thông tin cho cơ quan THADS. Tuy nhiên, về thủ tục, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được THA và nâng cao trách nhiệm của cơ quan THADS, Ủy ban Tư pháp cho rằng thời hạn tiến hành xác minh cần được rút ngắn hơn.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Bộ Tư pháp lấy ý kiến Nhân dân về Dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi). Bài báo đưa tin: Bộ Tư pháp - cơ quan được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan tiến hành soạn thảo Dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi) bắt đầu lấy ý kiến góp ý của các cá nhân, tổ chức đối với các quy định tại Dự thảo này. Bộ luật Dân sự – một Bộ luật có vai trò vô cùng quan trọng, là luật chung, luật gốc của các luật chuyên ngành, tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên cơ sở phạm vi sửa đổi cơ bản, toàn diện, Ban soạn thảo cho biết Dự thảo Luật có tổng số 685 điều, giữ nguyên 282 điều, sửa đổi 344 điều, bổ sung 117 điều, bãi bỏ 152 điều so với Bộ luật hiện hành.
4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Vụ “Ai trả tiền, vàng “lỡ” nộp thi hành án?”: Kháng nghị giám đốc thẩm lần hai. Bài báo phản ánh: Chánh án TAND Tối cao vừa kháng nghị giám đốc thẩm bản án phúc thẩm của TAND TP.HCM xử tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Đặng Thị Ba và Châu Thị Phượng theo hướng hủy án giao cho tòa này xử phúc thẩm lại.
Năm 1993, bà Ba được cha dượng cho mảnh đất ở Nhà Bè (có xác nhận của ấp). Sau đó bà Châu Phị Phượng (em cùng mẹ khác cha) được UBND huyện cấp giấy đỏ mảnh đất rộng 282 m2 bao trùm luôn cả nhà đất của bà Ba. Năm 2008, bà Phượng kiện bà Ba ra TAND huyện Nhà Bè tranh chấp quyền sử dụng đất. Xử sơ thẩm, tòa này bác đơn của bà Phượng, công nhận quyền sử dụng đất cho bà Ba. Bà Phượng kháng cáo. TAND TP.HCM xử phúc thẩm tuyên bà Ba thua kiện, phải chịu án phí. Đồng thời, tòa cho bà Ba sử dụng nhà đất nói trên nhưng phải trả cho bà Phượng 247 triệu đồng. Bà Ba đã thi hành án 202 triệu đồng (gồm hơn 10 triệu đồng án phí và 190 triệu đồng cho bà Phượng). Năm 2011, chánh án TAND Tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm theo hướng hủy án, giao cho TAND TP.HCM xử phúc thẩm lại và Tòa Dân sự TAND Tối cao đã chấp nhận kháng nghị.
Tháng 1-2013, TAND TP.HCM xử phúc thẩm lần hai bác yêu cầu của bà Phượng, công nhận quyền sử dụng đất cho bà Ba nhưng không đề cập đến số tiền 202 triệu đồng mà bà Ba đã thi hành án... Trước vấn đề này, chánh án TAND Tối cao vừa kháng nghị giám đốc thẩm như đã nêu.
5. Báo Người cao tuổi có bài Huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk: Vụ cưỡng chế trái luật ở thị trấn Ea Kar. Bài báo phản ánh: Ông Nguyễn Xuân Phước, người làm chứng tại phiên tòa xét xử vụ “Tranh chấp đất bị lấn chiếm” số 28/2012/DSST ngày 21/8/2012 giữa nguyên đơn là Công ty CP Thiên Long Phát sau đó đổi thành Công ty TNHH Thiên Long Phát (Công ty), bị đơn là các ông, bà Bùi Văn Hòa – Cao Thị Sinh và Nguyễn Thanh Tốt – Nguyễn Thị Phước khối 3A, thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk cho biết: Ngày 4/11/1989, UBND huyện Ea Kar ban hành Quyết định số 63/QĐ-UB giao 220,4m2 đất chiều dài 19m, chiều rộng 11,6m cho gia đình ông để làm nhà ở và dịch vụ kinh doanh buôn bán. Lô đất phía Bắc giáp Quốc lộ 26, phía Nam giáp tường rào Công ty Thương nghiệp, phía Đông giáp nhà ông Bích, phía Tây giáp nhà bà Ơn. Năm 1990 chuyển nhượng lại cho cho bà Trần Thị Phê 110m2 (hiện con trai bà Phê là Voòng Văn Thảo đang sử dụng), số đất còn lại gia đình ông sử dụng ổn định không tranh chấp. Năm 1998, do làm ăn thua lỗ và bị khởi kiện ra tòa, buộc ông Phước phải thỏa thuận giao 44m2 đất cho ông Triệu Đình Khuynh để trừ nợ, còn 66m2 đất và tài sản trên đất là ngôi nhà cấp 4 lợp tôn, nền láng xi-măng diện tích 65,4m2, xung quanh được xây tường rào bằng gạch chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Bùi Văn Hòa, bà Cao Thị Sinh sử dụng với giá 10 triệu đồng có giấy chuyển nhượng viết tay ngày 30/12/1998. Khi bàn giao đất và tài sản, ông Phước giao luôn Quyết định số 63 cho bà Sinh. Ông khẳng định thêm: “Diện tích đất chuyển nhượng cho ông Hòa, bà Sinh và ông Khuynh đều nằm trong diện tích 220,2m2 mà ông đã được UBND huyện Ea Kar cấp quyền sử dụng theo Quyết định số 63, không hề lấn chiếm đất Thương nghiệp”.
Đến ngày 29/2/2012, bà Nguyễn Thị Cẩm, Giám đốc Công ty TNHH Thiên Long Phát khởi kiện ra Tòa án là: “Quá trình khởi công xây dựng đã gần một năm… nhưng hiện tại khu đất được UBND tỉnh cấp để xây dựng vẫn còn một số hộ lấn chiếm không chịu giải tỏa, cố tình chây lì… mặc dù các cơ quan chức năng và UBND thị trấn đã yêu cầu giả tỏa”. Trong khi các hộ gia đình đã có Quyết định cấp đất từ năm 1989, thời điểm đó chưa có Quyết định 111, Ban Kinh tế Đảng chưa được cấp đất.
Ngày 26/9/2011, UBND thị trấn Ea Kar tạo lập biên bản hòa giải giải quyết tranh chấp đất đai giữa Công ty TNHH Thiên Long Phát với các hộ Cao Thị Sinh, Voòng Văn Thảo, Nguyễn Thị Phước, Voòng Văn Sinh cho rằng các hộ này cố tình vắng mặt để dùng biên bản không có chữ kí của các hộ nói trên làm cơ sở cho Tòa án thụ lí vụ án, xử theo nguyện vọng của bà Giám đốc Nguyễn Thị Cẩm. Ông Bùi Văn Hòa, bà Cao Thị Sinh đã làm đơn tố cáo Bí thư kiêm Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND thị trấn Ea Kar về tội vu khống theo Điều 122 Bộ luật Hình sự.
Vì “thấp cổ, bé họng” không kêu nổi “đại gia” và các vị “quan tòa”, ông Bùi Văn Hòa, bà Cao thị Sinh làm đơn xin cấp bổ sung GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai. Mặc dù hồ sơ của bà đã có đủ các loại giấy tờ thế nhưng UBND thị trấn Ea Kar không giải quyết.
Tại Bản án phúc thẩm số 82/2013/DSPT thực hiện ngày 31/5/2013, TAND tỉnh Đắk Lắk công nhận bà Sinh đã mua của ông Nguyễn Xuân Phước 65,4m2 đất với giá 10 triệu đồng, nhưng Tòa cho rằng ông Phước viết tay giấy ngày 30/12/1998 bán 65,40m2 đất cho bà Sinh là không hợp pháp. Tòa “phê” bản án sơ thẩm của Tòa huyện có những thiếu sót như việc bà Sinh khởi kiện UBND huyện Ea Kar về diện tích 65,4m2 bằng một vụ kiện hành chính chưa xét xử phúc thẩm, không cấp GCNQSDĐ đúng hiện trạng 145m2 đất đang sử dụng là cần phải rút kinh nghiệm. Thế nhưng khi tuyên, Tòa vẫn “buộc ông Bùi Văn Hòa bà Cao Thị Sinh trả lại cho Công ty TNHH Thiên Long Phát 65,4m2 đất bao chiếm trái phép chuyển nhượng từ ông Nguyễn Xuân Phước”, bất chấp Quyết định số 63/QĐ-UB của UBND huyện Ea Kar.
Hồi 13 giờ 30 phút ngày 8/1/2014, Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk tổ chức cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất cho Công ty, đập phá nhà và các công trình xây dựng trên đất, thu hồi tài sản, hàng hóa có giá trị gần 1 tỉ đồng khi bà Sinh đang ốm nặng phải điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kon Tum, ông Hòa đang phục vụ bà Sinh tại bệnh viện. Hiện gia đình bà Sinh không rõ số tài sản bị thu hồi đã mất hay còn, đang ở đâu? Bà Sinh đã nhiều lần gửi đơn đề nghị các cấp có thẩm quyền và TAND Tối cao giải quyết, đến nay đã hơn 6 tháng mà không được trả lời.
Tương tự với cách “hành xử trên, gia đình ông Nguyễn Thanh Tốt bà Nguyễn Thị Phước cùng 2 hộ gia đình lân cận sử dụng đất có nguồn gốc trước năm 1989 cũng bị vu cho là lấn chiếm, cũng bị Tòa tước đoạt để giao cho doanh nghiệp của vợ ông Bí thư kiêm Chủ tịch UBND thị trấn Ea Kar. Họ cũng đã dài cổ kêu hoài nhưng “trời” nghe chưa thấu.
Đất đai của bà Sinh - ông Hòa, ông Tốt, bà Phước sử dụng ổn định, không tranh chấp. Quyết định số 63 đã thể hiện một phần ranh giới thửa đất của 2 hộ liền kề của ông Phước, phía sau đều giáp với tường rào Thương nghiệp, lẽ nào chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng không nhận ra? UBND thị trấn Ea Kar cùng 2 cấp Tòa và Chi cục Thi hành án huyện Ea Kar “hành xử” như trên phải chăng là vì lợi ích nhóm? Gia đình bà Sinh, ông Tốt và nhiều người dân nơi đây đang mong chờ sự phán quyết của TAND Tối cao, nhằm giữ được sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
6. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Bi kịch thi hành án. Bài báo phản ánh: Bà Tuyết là nguyên đơn trong vụ “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” với bị đơn là Công ty TNHH sản xuất chế biến Suối Nho (trụ sở ở huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai) do ông Trần Trung Hòa đại diện pháp luật. Ngày 11-8-2011, Tòa án nhân dân (TAND) Q12 ban hành quyết định (QĐ) công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo đó, Cty Suối Nho có trách nhiệm trả cho bà Tuyết gần 5 tỷ đồng. Ngày 27-9-2011, bà Tuyết gửi đơn yêu cầu THA kèm theo văn bản cam kết của ông Hòa lập ngày 14-7-2011 làm cơ sở.
Cùng ngày 27-9-2011, ông Nguyễn Văn Quy - Chi cục Trưởng THA quận 12 - ban hành QĐ thi hành án cho bà Tuyết. Tuy nhiên, đúng một tháng sau (ngày 27-10) ông Quy ra QĐ thu hồi đồng thời ký QĐ ủy thác THA cho Cơ quan THA huyện Định Quán thực hiện. Căn cứ để THA quận 12 ủy thác việc này là dựa vào biên bản xác minh điều kiện THA của chấp hành viên (CHV) Phạm Thị Toàn ngày 24-10-2011 lập tại phường Trung Mỹ Tây (Q12), ghi: Cty Suối Nho có nhà máy sản suất chế biến tại xã Suối Nho, được Sở Tài nguyên - Môi trường (TN-MT) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ, sổ đỏ) 55.050m2 ngày 16-1-2008.
Trong khi bà Tuyết yêu cầu xác minh nội dung đơn cam kết trả nợ của Cty Suối Nho và khoản tiền bị người thứ ba chiếm giữ đang trong giai đoạn điều tra, thì CHV Toàn lại tự ý “rẽ hướng xác minh” tài sản khác là quyền sử dụng đất của Cty Suối Nho ở huyện Định Quán, mà không thông báo, trao đổi với bà Tuyết để giải quyết, chủ quan duy ý chí làm việc không theo luật định.
Không biết việc vi phạm của bà Toàn là do yếu kém về nghiệp vụ hay vì “chuyện tế nhị”? Thực tế Cty Suối Nho đã mang GCNQSDĐ này thế chấp vay tiền rồi khai dối bị mất, sau đó làm thủ tục xin cấp lại. Phát hiện chuyện động trời này, cơ quan có thẩm quyền đã ra QĐ thu hồi. Nhưng trước đó, phía Suối Nho đã kịp đem sổ đỏ cấp lại lần hai thế chấp vay hàng tỷ đồng tại NHNN&PTNT chi nhánh Bình Phú. Do đó, ngày 6-4-2012 THA huyện Định Quán đã thu hồi QĐ 46 và ban hành QĐ ủy thác lại cho THA quận 12 để THA cho bà Tuyết.
Thế nhưng, THA quận 12 lại ban hành công văn 898 với nội dung: “Ngày 8-12-2011, THA huyện Định Quán ra QĐ 03 tiến hành kê biên toàn bộ tài sản là 55.050m2 đất của Cty Suối Nho... Căn cứ điều 57 Luật THA dân sự 2008: trước khi ủy thác, cơ quan THA dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn... để từ chối nhận ủy thác. Tuy nhiên, QĐ 03 nêu trên là để THA cho bà Trần Thị Tuyết Mai (được THA trong một vụ khác mà người phải THA cũng là Cty Suối Nho) chứ không phải để THA cho bà Tuyết như viện dẫn của THA quận 12.
Khi ủy thác trở lại, THA huyện Định Quán cung cấp cho THA quận 12 QĐ hủy GCNQSDĐ của Cty Suối Nho và hợp đồng thế chấp GCNQSDĐ này để Suối Nho vay hàng tỷ đồng tại NH, nhằm chứng minh biên bản xác minh điều kiện THA ngày 24-10-2011 của CHV Toàn vi phạm pháp luật. Vậy mà THA quận 12 từ chối nhận ủy thác là vi phạm điều 57 Luật Thi hành án 2008: “Trường hợp QĐ ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác THA, nội dung THA thì cơ quan THA đã ủy thác phải nhận lại” - luật sư Cát nhấn mạnh.
Khi THA huyện Định Quán nhận lại hồ sơ tiếp tục thực hiện cho bà Tuyết, đã không tiến hành theo luật định mà để... đóng bụi, giúp Cty Suối Nho thay đổi pháp nhân, tên doanh nghiệp và người đại diện pháp luật... Đến ngày 15-4-2014, bà Tuyết nhận được QĐ trả lại đơn yêu cầu từ THA huyện Định Quán qua đường bưu điện sau gần ba năm “đá” trách nhiệm cho nhau (!).
Bức xúc, bà Tuyết gửi đơn tố cáo lãnh đạo và chấp hành viên THA có liên quan về các hành vi thiếu trách nhiệm, vi phạm quy định về thủ tục THA, có dấu hiệu bao che cho Cty Suối Nho tẩu tán tài sản..., nhưng chưa được giải quyết!
Thi hành án quận 12 vừa yêu cầu Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản TPHCM đưa căn nhà của bà Trần Thị Tuyết ra đấu giá để trả nợ ngân hàng. Trước đó, bà Tuyết đã dùng tài sản này bảo lãnh cho Cty Suối Nho vay 700 triệu đồng.
7. Báo Tuổi trẻ Online có bài Đấu giá tài sản sai luật, chi cục thi hành án phải bồi thường. Bài báo phản ánh: Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vừa chấp nhận đơn khởi kiện của ông Phạm Ngọc Chương và bà Đào Thị Hào khởi kiện Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa về việc đấu giá tài sản vi phạm pháp luật. Bản án dân sự sơ thẩm (lần 2) tuyên hủy kết quả bán đấu giá tài sản ngày 22-4-2010 đối với căn nhà gắn liền với thửa đất số 224, tờ bản đồ số 11 tại TP Biên Hòa do Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Đồng Nai thực hiện theo sự ủy quyền của Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa.
Ngoài ra, bản án này còn buộc Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa phải bồi thường cho người mua đấu giá khối tài sản trên số tiền 1,496 tỉ đồng (gồm cả tiền mua đấu giá và tiền lãi).
Theo nội dung bản án, ông Phạm Ngọc Chương và bà Đào Thị Hào phải trả nợ cho bà Nguyễn Thị Thùy Trang, bà Nguyễn Thị Yên và bà Vũ Kim Dung 791.118.250 đồng tiền vốn và lãi vay, theo các bản án đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Do ông Chương và bà Hào không có khả năng chi trả nên Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa đã ra lệnh cưỡng chế ngôi nhà gắn liền với đất do ông bà đứng tên sở hữu tại khu phố 2, phường Tân Biên, TP Biên Hòa. Tuy nhiên, hồ sơ vụ việc cho thấy Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa đã mang đấu giá tài sản không đúng theo quy trình, cụ thể là không gửi thông báo định giá đến người bị đấu giá, không dán thông báo tại địa phương và nơi có tài sản bị đấu giá.
Do vậy, khi căn nhà và thửa đất bị giảm giá khởi điểm để đấu giá từ 1,6 tỉ xuống chỉ còn 721 triệu đồng thì vợ chồng ông Chương, bà Hào và các con không được biết. Hơn nữa, người trúng thầu lại là bà Nguyễn Thị Thùy Trang (chủ nợ của ông Chương và bà Hào) nên càng khiến gia đình ông Chương bức xúc. Vợ chồng ông Chương khiếu nại nhiều lần đề nghị hủy bỏ quyết định thi hành án nhưng bị Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa bác đơn dù Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá nhưng không được Chi cục Thi hành án TP Biên Hòa chấp nhận.
Theo bản án sơ thẩm lần 2 này, HĐXX tuyên buộc bà Nguyễn Thị Thùy Trang phải trả lại căn nhà cho Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa để đơn vị này quản lý và xử lý theo Luật thi hành án dân sự.
Trước đó, bản án sơ thẩm lần 1 của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa đã tuyên bác đơn khởi kiện của ông Chương và bà Hào nhưng tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ xét xử lại.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo VietnamPlus có bài Manila kêu gọi 4 nước ASEAN thống nhất cách đối phó Trung Quốc. Bài báo phản ánh: Theo hãng Kyodo ngày 24/6. Tổng thống Philippines Benigno Aquino tuyên bố Manila đã nối lại kế hoạch kêu gọi tổ chức một cuộc họp giữa 4 nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa đang trong tình trạng tranh chấp ở Biển Đông, bao gồm Philippines, Việt Nam, Malaysia và Brunei, để đề ra một lập trường chung về cách thức đối phó với một Trung Quốc ngày càng quyết đoán trong đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo này.
Phát biểu với các phóng viên trên chuyến bay của hãng hàng không Philippines Airlines từ Tokyo đến Hiroshima trong khuôn khổ chuyến thăm Nhật Bản, Tổng thống Aquino cho biết ông đã thông báo với Thủ tướng nước chủ nhà Shinzo Abe về kế hoạch trên.
Ông Aquino nói: “Chúng tôi đã nói với họ rằng chúng tôi sẽ thảo luận với các nước ASEAN anh em, đặc biệt là ba nước có tuyên bố chủ quyền (khác) đang chuẩn bị tiến hành cuộc gặp với Trung Quốc để chúng tôi có một lập trường chung.”
Tuần trước, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario nói rằng Manila đang cố gắng “tạo sự đồng thuận giữa các nước tuyên bố chủ quyền và hy vọng các bên sẽ nhất trí để chúng tôi có thể lên lịch trình.”
Ông cho biết Philippines sẵn sàng đứng ra tổ chức cuộc họp này mà ông hy vọng sẽ diễn ra trước hội nghị ngoại trưởng ASEAN, dự kiến vào tháng Tám tới ở Myanmar.
Ông khẳng định Manila sẽ hối thúc đưa ra một tuyên bố chung kêu gọi Trung Quốc ngừng công việc lấn biển tại những vùng biển tranh chấp, như bãi Johnson South (Gạc Ma) và Fiery Cross (Đá chữ thập) ở quần đảo Trường Sa.
2. Báo Infonet có bài Ra luật riêng “cấm cửa” báo chí: Thanh Hóa đang tạo tiền lệ xấu?. Bài báo phản ánh: Đó là nhận định của nhiều nhà báo, luật sư khi nhận được thông tin UBND tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định 1276 với nội dung “tạo hàng rào” ngăn trở nhà báo hoạt động trên địa bàn.
Nội dung Quy chế quản lý Nhà nước về báo chí, được ban hành kèm theo Quyết định 1276 quy định: Cơ quan đại diện hoặc phóng viên thường trú có thể bị yêu cầu thay đổi hoặc dừng hoạt động khi vi phạm một trong các nội dung sau: Trưởng cơ quan đại diện hoặc phóng viên thường trú bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên; Trong 01 năm, có từ 03 nội dung thông tin trở lên nêu sai sự thật, đã được cơ quan có thẩm quyền xác minh, kết luận; Không thực hiện đúng các yêu cầu về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm được quy định đối với cơ quan đại diện và phóng viên thường trú.
Tại bài báo trước, Báo điện tử Infonet đã dẫn lời Luật sư Huỳnh Kim Ngân (Đoàn Luật sư Tp HCM) cho rằng đây là một quy định vi phạm Luật Báo chí và vi phạm các Nghị định hướng dẫn Luật Báo chí cũng như Nghị định 159/2013/ NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính lĩnh vực báo chí xuất bản. Nhiều nhà báo cho rằng, quy định này còn có tác động tiêu cực đến đời sống báo chí.
Trả lời phỏng vấn của PV báo điện tử Infonet ngày 23/6, ông Vương Văn Việt, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa khẳng định sẽ giao cho Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan quản lý nhà nước về báo chí trong địa bàn tỉnh Thanh Hóa xem xét lại nội dung Quyết định ông đã ký theo quy định của pháp luật. Nếu Quyết định này không đúng luật, Nghị định, không đúng với thẩm quyền của Ủy ban tỉnh thì Sở sẽ đề xuất hướng xử lý và tỉnh cũng không ngại gì việc đấy cả, vì mình làm không đúng thì mình phải sửa thôi. "Tôi rất cảm ơn báo chí đã kịp thời phản ánh và sẽ trao đổi với bộ phận tham mưu về vấn đề này ngày".
3. Báo Điện tử Chính phủ có bài CPI năm 2014 có thể ở mức 6%. Bài báo phản ánh: Diễn biến CPI tháng 6/2014 là tín hiệu khả quan để cả năm có thể thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch đề ra (khoảng 7%), thậm chí có thể còn tăng thấp hơn 6%, thấp nhất từ 2004 đến nay và đây là năm thứ 3 liên tục CPI tăng chậm lại.
Theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 6 (tăng 0,3% so với tháng 5) tuy tăng cao hơn so với tốc độ tăng bình quân 1 tháng trong 5 tháng đầu năm (0,18%), nhưng vẫn thuộc loại thấp. Tháng 6/2014 so với tháng 12/2013, CPI tăng 1,38%, thấp nhất so với con số tương ứng của cùng kỳ từ năm 2002 đến nay (bình quân tăng 5,91%).
Nếu tính theo năm như thông lệ quốc tế, tức là CPI tháng 6 năm nay so với tháng 6 năm trước, tăng 4,98%, cũng thấp so với con số tương ứng của nhiều tháng trước đó; bình quân 6 tháng năm nay so với cùng kỳ năm trước tăng 4,77%.
Như vậy, dù nhận diện dưới góc độ nào, thì CPI tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2014 cũng thuộc loại thấp so với các chỉ số tương ứng của các tháng trước và cùng kỳ các năm trước.