ĐIỂM TIN BÁO CHÍ NGÀY 09/6 VÀ SÁNG NGÀY 10/6/2014

10/06/2014
Trong ngày 09/6 và đầu giờ sáng ngày 10/6/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Ân nhân thiệt đơn thiệt kép vì công ty TNHH Vĩnh Tường. Bài báo phản ánh: Sau gần 3 năm dòng dã đòi nợ Công ty Vĩnh Tường, cuối cùng công lý cũng đã được thực thi, đạo lý được bảo vệ khi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai hoàn tất việc thi hành án, chuyển giao khách sạn Wooshu, TP Biên Hòa cho Công ty Vĩnh Thiện Đồng Nai để đối trừ khoản nợ 10 triệu USD mà Công ty Vĩnh Tường vay rồi định… bùng.

Xin được nhắc lại vụ việc này để thấy, mặc dù đã được cơ quan thi án cưỡng chế, buộc Công ty Vĩnh Tường phải thực hiện bản án, giao tài sản cho Công ty Vĩnh Thiện Đồng Nai nhưng “khổ chủ” vẫn chịu thiệt đơn, thiệt kép như thế nào.

Năm 2011, Công ty Vĩnh Tường của bà Linda Tan Woo đang mắc nợ Ngân hàng Nam Á với số tiền hơn 200 tỷ (bao gồm cả tiền lãi), lãi suất quá hạn lên đến 36%/năm. Với khoản nợ này và lãi suất quá “khủng” như trên, thời gian trả nợ càng kéo dài thì Công ty Vĩnh Tường sẽ lâm vào tình trạng mất trắng tài sản thế chấp là khách sạn Wooshu mà vẫn phải gánh một khoản nợ khổng lồ do tiền lãi sinh ra.

Giữa thời điểm khó khăn đó, bà Linda Tan Woo đã may mắn khi được chị Nguyễn Thị Bích Hạnh và gia đình giúp đỡ, vay được khoản tiền tương đương 10 triệu USD với lãi suất chỉ 1%/năm từ Công ty Orient do bà Lan làm đại diện tại Việt Nam. Với số tiền vay được, chính chị Hạnh đã đại diện cho Công ty Vĩnh Tường thanh toán toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng Nam Á. Như vậy, cả Công ty Vĩnh Tường và Ngân hàng đều may mắn thoát cảnh nợ nần nhờ nguồn vốn 10 triệu USD trên. Song, thời điểm đó, “ân nhân” cho Công ty Vĩnh Tường vay tiền vẫn rằng tin lòng tốt của họ sẽ không bị phản bội và họ không đoán biết điều gì đang đợi họ ở phía trước.

Đến hạn thanh toán khoản vay 10 triệu USD, chị Hạnh đã nhiều lần nhắc “cô” Linda Tan Woo phải trả nợ gốc và lãi vay vì trong suốt thời gian vay tiền, Công ty Vĩnh Tường mới trả được 6 tỷ tiền lãi. Tháng 7/2012, tiền vay cả gốc và lãi lên đến hơn 233 tỷ đồng nên chị Hạnh đã yêu cầu bà Linda Tan Woo phải sử dụng tài sản là khách sạn Wooshu để trả nợ như đã cam kết trong hợp đồng. Bà Linda Tan Woo vẫn tìm khách khất nợ, không có ý trả nợ. Do đó, với việc đã được ủy quyền xử lý tài sản để trả nợ, chị Hạnh buộc lòng phải chuyển giao tài sản cho chủ nợ với giá 228 tỷ đồng, chưa đủ trả khoản nợ lúc đó là hơn 233 tỷ đồng.

Lúc này, bà Linda Tan Woo mới thể hiện rõ ý đồ không muốn trả nợ bằng việc hủy bỏ việc ủy quyền cho chị Hạnh, trong đó có ủy quyền đi vay tiền, ủy quyền trả tiền cho ngân hàng và ủy quyền quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản để đảm bảo cho khoản vay 10 triệu USD. Bên cạnh đó, bà Linda Tan Woo còn tráo trở cho rằng, Công ty Vĩnh Tường không vay tiền của Công ty Orient nhằm không trả khoản tiền này cho chủ nợ. Một loạt giấy tờ được Công ty Vĩnh Tường trình ra để bảo vệ cho ý đồ “nuốt” không 233 tỷ tiền vay cả gốc và lãi, trong đó có cả việc nại ra hợp đồng hợp tác kinh doanh trò chơi đánh bạc, một dự án mà chưa bao giờ Công ty Vĩnh Tường được cấp phép, tính đến thời điểm này. Đây không phải lần đầu tiên bà Linda Tan Woo có ý đồ chiếm đoạt tiền vay của người khác. Trước đó, bà Linda Tan Woo từng bị khởi tố, bắt giam về hành vi “lạm dụng tín nhiệm”, vay mà không trả số tiền 2 triệu USD của bà Trương Mỹ Lan.

Nhưng, những chiêu trò đổi trắng thay đen của Công ty Vĩnh Tường đã không qua mặt được Tòa án. Với những chứng cứ vay tiền rất rõ ràng, từ việc Công ty này cần tiền trả nợ ngân hàng đến việc bà Linda Tan Woo và Công ty ủy quyền cho chị Hạnh vay tiền, trả tiền cho Ngân hàng Nam Á và quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản để đảm bảo khoản vay 10 triệu USD nên Tòa án đã công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà chị Hạnh đại diện cho Công ty Vĩnh Tường ký để đối trừ khoản nợ đã vay. Tòa cũng bác bỏ lý lẽ tráo trở của Công ty Vĩnh Tường khi cho rằng, đó không phải là tiền vay mà là tiền hợp tác để kinh doanh sòng bạc. Vì, không có dự án kinh doanh đánh bạc nào được cấp phép và đối tác mà Công ty Vĩnh Tường nại ra cũng phủ nhận việc “hợp tác” này và khẳng định, họ chỉ cho vay tiền.

Với chứng cứ trên, phán quyết của hai cấp Tòa án buộc Công ty Vĩnh Tường phải giao tài sản theo hợp đồng để đối trừ nợ vay là rất rõ ràng, đúng pháp luật và bảo vệ đạo lý “có vay, có trả”. Thế nhưng Công ty Vĩnh Tường vẫn bất phục mà tiếp tục luận điệu cũ là “không vay tiền”, đồng thời gửi đơn lên lãnh đạo các cơ quan nhà nước ở Trung ương với các nội dung sai sự thật trên để mong được can thiệp và thay đổi sự thật là Công ty Vĩnh Tường đã vay tiền nhưng không muốn trả tiền. Việc thi hành án cũng bị Công ty Vĩnh Tường cản trở, không chấp hành. Do đó, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã buộc lòng phải thực hiện biện pháp cưỡng chế. Nhưng, ngay khi chuẩn bị cưỡng chế thi hành án, vẫn có dấu hiệu cho thấy có sự can thiệp nhằm trì hoãn việc cưỡng chế thi hành án và thực thi công lý.

Từ ngày 23/5 đến ngày 6/6/2014, theo sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo công tác thi hành án, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai đã thực hiện việc cưỡng chế thi hành án và hoàn tất việc thi hành bản án của Tòa án, buộc Công ty Vĩnh Tường phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để đối trừ nợ vay. Theo thông tin bà Báo Pháp luật Việt Nam ghi nhận được, đến thời điểm này, việc thi hành án đã được thực hiện xong. Công ty CP Vĩnh Thiện Đồng Nai đã nhận giao tài sản và hoàn tất các thủ tục pháp lý để sở hữu tài sản và sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Mặc dù việc thi hành án đã xong, nhưng tính đến nay, chủ nợ của Công ty Vĩnh Tường vẫn thiệt đơn, thiệt kép. Khoản nợ 233 tỷ mới được đối trừ theo hợp đồng là 228 tỷ đồng. Nhưng thực tế, khách sạn Wooshu được định giá chỉ được 194 tỷ đồng. Do vậy, chủ nợ chưa thù hồi đủ tiền gốc, còn khoản lãi suất và chi phí vốn trong hơn 2 năm qua, coi như mất trắng. Chưa kể đến việc khách sạn Wooshu có vốn đầu tư lớn, hiệu suất khai thác thấp, nếu chủ mới tiếp tục kinh doanh sẽ phải chịu lỗ. Với viễn cảnh đó, “ân nhân” của Công ty Vĩnh Tường đang phải tiếp tục gánh “cục nợ” cho Công ty này. Đã thế, Công ty Vĩnh Tường đến nay vẫn không phục mà tiếp tục gửi đơn khiếu nại và tìm kiếm sự “giúp đỡ” để đảo ngược hiện trạng. Song, pháp luật tồn tại là để duy trì sự công bằng của xã hội và đạo lý, công lý phải được bảo vệ. Do vậy, liệu có ai dám đi ngược đạo lý và pháp luật để ủng hộ Công ty Vĩnh Tường tiếp tục gây đau khổ cho ân nhân đã thiệt đơn, thiệt kép vì Công ty này?

            2. Báo Hà Nội mới có bài: Liên thông thủ tục hành chính về đất đai: Khắc phục những bất cập. Bài báo phản ánh: Thủ tục hành chính (TTHC) lĩnh vực đất đai luôn đi liền với công chứng, song từ trước đến nay người dân thường phải tự mang hồ sơ đi thực hiện tại các cơ quan khác nhau.

Nhằm tạo sự thuận tiện cho người dân và bảo đảm công tác quản lý của cơ quan nhà nước, Bộ Tư pháp đã xây dựng dự thảo Đề án Liên thông các thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế.

 Theo quy định hiện hành, cá nhân, tổ chức trong quá trình thực hiện chuỗi thủ tục liên quan đến quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất phải qua 3 lần nộp hồ sơ tại 3 cơ quan, với hầu hết các thành phần hồ sơ giống nhau. Chưa kể, những lần phải xuất trình bản chính để đối chiếu tại một số cơ quan. Chẳng hạn như, phải nộp bản sao có công chứng các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và các giấy tờ khác liên quan tại tổ chức hành nghề công chứng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và trong hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài chính; phải xuất trình bản chính các giấy tờ theo quy định để đối chiếu khi thực hiện công chứng và khi nhận đăng ký quyền sử dụng đất, đăng ký biến động đất, tài sản gắn liền với đất…

Điều đáng nói là, có nhiều thành phần giấy tờ, hồ sơ trong chuỗi thủ tục không cần thiết vì trước đó cá nhân, tổ chức đã nộp và xuất trình trong khi thực hiện công chứng hợp đồng và thủ tục tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Cụ thể là bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của người yêu cầu đăng ký trong hồ sơ thủ tục giao dịch bảo đảm (đã có thông tin nhân thân trong hợp đồng giao dịch); bản sao các giấy tờ khác có liên quan đến việc xác định nghĩa vụ tài chính (gồm quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc giấy tờ mua, bán, tặng, cho, thừa kế nhà đất trong khi đã có phiếu chuyển thông tin địa chính của cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường). Ngoài ra, một số giấy tờ do cơ quan nhà nước cấp phát song lại yêu cầu người dân phải kê khai như tờ khai tiền sử dụng đất, tờ khai tiền thuê đất, tờ khai lệ phí trước bạ, tờ khai thuế chuyển quyền sử dụng đất, chứng từ đã nộp tiền thuê đất…

Để khắc phục tình trạng nêu trên, một số tổ chức hành nghề công chứng, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã tự liên kết với nhau để liên thông về thủ tục giữa công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất và thuế. Nhưng, do hoạt động liên thông chưa được thể chế hóa dẫn đến phát sinh tiêu cực trong hoạt động công chứng và đăng ký quyền sử dụng đất, còn Nhà nước thì bị thất thu thuế.

Dự thảo Đề án Liên thông các thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế do Bộ Tư pháp xây dựng nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức có nhiều cơ hội lựa chọn hình thức thực hiện thủ tục liên quan. Theo dự thảo, ngoài việc cá nhân, tổ chức có thể thực hiện thủ tục theo cách hiện hành, còn có thể lựa chọn đến duy nhất một đầu mối để nộp hồ sơ và nhận kết quả đó là tổ chức hành nghề công chứng. Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm thực hiện TTHC, luân chuyển hồ sơ đến cơ quan, tổ chức hữu quan để giảm gánh nặng chi phí tuân thủ TTHC cho cá nhân, tổ chức. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và cơ quan thuế tiếp nhận hồ sơ do tổ chức hành nghề công chứng chuyển đến và xử lý theo thẩm quyền, đồng thời chuyển kết quả giải quyết cho tổ chức hành nghề công chứng để trả người dân theo đúng thời gian quy định.

Mô hình liên thông này áp dụng đối với nhóm thủ tục: Đăng ký biến động trong trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Thời gian thực hiện tối đa là 21 ngày làm việc, trong đó, công chứng hợp đồng, giao dịch là 2 ngày; 1 ngày chuyển hồ sơ đến văn phòng đăng ký; 5 - 15 ngày tiếp nhận, giải quyết thủ tục tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và không quá 3 ngày giải quyết thủ tục về nghĩa vụ thuế tại cơ quan thuế. Mức phí dịch vụ thực hiện liên thông sẽ được Bộ Tài chính quy định thống nhất để tránh áp dụng tùy tiện, bảo đảm thực hiện thống nhất tại các tổ chức hành nghề công chứng và có căn cứ để thu thuế.

Dự kiến, khi đề án được thông qua, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức thực hiện thí điểm mô hình liên thông giữa cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan thuế, tổ chức hành nghề công chứng tại TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng (từ tháng 10-2014 đến tháng 12-2015). Trong thời gian thí điểm, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan sẽ chủ động rà soát TTHC, văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế và đề xuất phương án hoàn thiện mô hình liên thông, tiến tới triển khai đại trà từ tháng 6-2016.

3. Báo Tuổi trẻ online có bài: Đề nghị tạm dừng cấp chứng minh nhân dân công nghệ mới. Bài báo phản ánh: Đó là đề nghị chính thức từ thường trực Ủy ban Quốc phòng và an ninh sau cuộc khảo sát “việc thực hiện chính sách, pháp luật về căn cước công dân”.

Theo đó, thường trực ủy ban này cho rằng trong khi Chính phủ đang trình Quốc hội dự án Luật căn cước công dân, trước mắt đề nghị chỉ đạo tạm dừng việc cấp chứng minh nhân dân theo công nghệ mới, trong đó có số chứng minh nhân dân 12 số tại thành phố Hà Nội và một số địa phương để bảo đảm ổn định trong quản lý và sử dụng chứng minh nhân dân của công dân.

Dự án Luật căn cước công dân lần đầu tiên trình Quốc hội tại kỳ họp đang diễn ra, và sáng nay 9-6, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật này. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự án sản xuất, cấp và quản lý chứng minh nhân dân theo công nghệ mới và đã được Bộ Công an triển khai thí điểm từ tháng 9-2012, bước đầu tổ chức triển khai thực hiện trên toàn quốc.

Hiện nay, Bộ Công an đang tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị, cơ sở vật chất để đẩy nhanh việc tổ chức cấp chứng minh nhân dân theo công nghệ mới. Bộ Công an đã tích cực chỉ đạo bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, từng bước triển khai thực hiện ở các địa phương phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế và quyết định tổ chức cấp chứng minh nhân dân mẫu mới tại thành phố Hà Nội từ ngày 1-4-2014.

Qua khảo sát của ủy ban Quốc phòng và an ninh tại một số địa phương, tuy được đa số nhân dân đồng tình, ủng hộ việc cấp chứng minh nhân dân theo mẫu mới, nhưng cũng còn nảy sinh những bất cập do việc thay đổi số chứng minh nhân dân nhưng các tổ chức kinh tế- xã hội chưa được phổ biến hoặc chưa sẵn sàng chấp nhận số chứng minh mới nên việc giao dịch của công dân gặp khó khăn.

Theo Báo cáo của Bộ Công an, từ năm 1999 đến nay, toàn quốc đã cấp 68.124.934 chứng minh nhân dân (trong tổng số 70.482.713 người thuộc diện cấp chứng minh nhân dân), đạt 96,6%; trong đó cấp mới 34.090.538, đổi 18.034.383, cấp lại 16.000.013 chứng minh nhân dân.

Qua công tác kiểm tra sử dụng chứng minh nhân dân cho thấy, ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong sử dụng chứng minh nhân dân từng bước nâng cao. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý hoặc sử dụng chứng minh nhân dân để giao dịch còn nhiều sơ hở, thiếu sót, chưa thấy rõ vị trí, tầm quan trọng của loại giấy tờ cá nhân này. Nhiều trường hợp công dân làm mất, làm hỏng, làm giả chứng minh nhân dân, cho mượn chứng minh nhân dân hoặc cho mượn thông tin cá nhân (ảnh, giấy khai sinh, hộ khẩu, các giấy tờ cá nhân khác…) để người khác làm chứng minh nhân dân.

Lực lượng Công an đã xử phạt và đề xuất người có thẩm quyền xử phạt 229.726 trường hợp vi phạm quy định về quản lý, sử dụng chứng minh nhân dân với số tiền phạt trên 17 tỷ đồng, phạt cảnh cáo 80.359 trường hợp; qua kiểm tra chứng minh nhân dân đã phát hiện 50 đối tượng truy nã, 2.260 đối tượng nghi vấn hoạt động tội phạm, đồng thời cung cấp hàng nghìn nguồn tin cho các lực lượng điều tra, khám phá tội phạm. Qua đó, cơ quan chức năng đã phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý chứng minh nhân dân để chấn chỉnh, khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động này.

Đáng chú ý thông qua khai thác tàng thư căn cước phục vụ cấp chứng minh nhân dân, đã phát hiện 421.999 trường hợp một người sử dụng nhiều chứng minh nhân dân…

4. Trang Chinhphu.vn có bài: Dự thảo Luật văn bản quy phạm pháp luật. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang dự thảo Luật văn bản quy phạm pháp luật gồm 14 Chương 173 điều. Hiện dự thảo luật này đang được đưa ra lấy ý kiến nhân dân.

Bộ Tư pháp cho biết, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần đầu được Quốc hội ban hành năm 1996, được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2002 và đến ngày 3/6/2008, trên cơ sở sửa đổi, bổ sung toàn diện, Quốc hội đã ban hành Luật mới (Luật năm 2008).

Mặt khác, để tạo cơ sở pháp lý cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương, ngày 3/12/2004, Quốc hội đã ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (Luật năm 2004).

Qua 9 năm thực hiện Luật năm 2004 và 5 năm thực hiện Luật năm 2008, các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương đã ban hành 289.779 văn bản, trong đó tổng số văn bản do trung ương ban hành là 5.206 và địa phương là 284.519 văn bản. Từ năm 1996 đến nay, đã ban hành tổng số 240 luật và 109 pháp lệnh. Các luật, pháp lệnh do Chính phủ và các cơ quan khác chủ trì soạn thảo và được Quốc hội ban hành trong giai đoạn này đã bước đầu đáp ứng các tiêu chí của hệ thống pháp luật về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, khó áp dụng. Tính ổn định, thống nhất chưa cao. Tính đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật tuy có cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch lớn trong các lĩnh vực khác nhau. Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế. Còn có quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với nhiều hình thức, cấp độ hiệu lực khác nhau đang làm tăng gánh nặng chi phí tuân thủ.

Thêm vào đó, chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế, chưa bảo đảm sự đồng bộ trong chính sách và tính thống nhất pháp lý; tính khả thi của một số văn bản chưa bảo đảm dẫn đến phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung.

Theo Bộ Tư pháp, tiến độ ban hành văn bản vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh mặc dù đã giảm so với những năm trước đây, song chưa chấm dứt. Trung bình có chưa đến 60% số văn bản được ban hành đúng hạn theo chương trình, kế hoạch.

Theo Bộ Tư pháp, việc ban hành Luật văn bản quy phạm pháp luật mới làm cơ sở pháp lý cho công cuộc hoàn thiện thể chế, hoàn thiện toàn diện hệ thống pháp luật là hết sức cần thiết.

Bộ Tư pháp đã dự thảo Luật văn bản quy phạm pháp luật gồm 14 Chương 173 điều. Ngoài những quy định chung, dự thảo Luật nêu rõ những quy định về nội dung văn bản quy phạm pháp luật; soạn thảo, ban hành luật, pháp lệnh; xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước; xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ…

Đặc biệt, về tham gia soạn thảo và thi hành văn bản quy phạm pháp luật, theo Bộ Tư pháp, nhằm bảo đảm việc lấy ý kiến được thực hiện một cách thiết thực, hiệu quả hơn, khoản 1 Điều 5 của dự thảo Luật quy định hai đầu mối quan trọng trong việc tổ chức lấy ý kiến là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (đại diện và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân nói chung) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, doanh nhân). Đây là quy định mới so với Luật hiện hành.

5. Báo Tiền phong có bài: Mất hàng chục tỷ đồng vì thi hành án. Bài báo phản ánh: Sau hơn 5 năm trúng đấu giá tài sản thi hành án, đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hơn 37,2 tỷ đồng, nhưng đến nay, doanh nghiệp vẫn chưa được bàn giao đất đã bỏ tiền ra mua.

Nguyên nhân do cơ quan thi hành án TP Đà Lạt (Lâm Đồng) chây ỳ khó hiểu. Cực chẳng đã, doanh nghiệp soạn đơn kiện ra tòa.

            Tháng 2/2009, Cty TNHH Phương Trang Đà Lạt (Cty Phương Trang Đà Lạt) tham gia và trúng đấu giá khối tài sản gồm nhà đất (diện tích hơn 3.430m2), tại địa chỉ số 357 phố Phan Đình Phùng (phường 2, TP Đà Lạt). 

Ba mươi ngày sau, bên trúng đấu giá thanh toán đầy đủ số tiền mua tài sản hơn 37,2 tỷ đồng cho Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá Tài sản tỉnh Lâm Đồng (đơn vị được Chi cục Thi hành án Dân sự Lâm Đồng ủy quyền bán đấu giá). Thủ tục mua bán hoàn tất, công ty cũng được UBND tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất.

Tưởng chừng mọi chuyện xong xuôi. Tuy nhiên, sau nhiều lần đi lại, gửi văn bản yêu cầu bàn giao tài sản trúng đấu giá, đến nay, cơ quan Thi hành án Dân sự TP Đà Lạt vẫn không bàn giao. Trước những động thái chậm trễ đến khó hiểu của cơ quan này, các cơ quan pháp luật như Tổng cục Thi hành án Dân sự (Bộ Tư pháp), Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Lâm Đồng đã nhiều lần có văn bản khẳng định việc mua bán công khai, tài sản trúng đấu giá phải bàn giao cho bên mua (sau khi các thủ tục được hoàn tất). 

Thậm chí, cuối năm 2013, cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cũng có văn bản khẳng định, Cty Phương Trang Đà Lạt mua được tài sản là hợp pháp. Do đó, việc giao tài sản và cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá phải thực hiện theo đúng quy định. 

Tổng Cục Thi hành án Dân sự cũng ra văn bản gửi Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Lâm Đồng nêu rõ: “Cơ quan thi hành án dân sự cần giao tài sản theo quy định của pháp luật”. Trong khi đó, lý do không bàn giao tài sản được Thi hành án Dân sự TP Đà Lạt viện: “Cần phải báo cáo cấp trên và xin ý kiến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. 

Ông Nguyễn Hữu Luân, Giám đốc Cty Phương Trang Đà Lạt cho biết: “Việc chây ỳ bàn giao tài sản đã mua khiến chúng tôi không thể triển khai được hoạt động sản xuất kinh doanh như đã định. Riêng số tiền lãi phải trả cho ngân hàng để thanh toán tiền mua tài sản bán đấu giá đã lên đến hơn 30 tỷ đồng. Tiền thiệt hại đã bằng cả số tiền đã bỏ ra mua tài sản”. 

Trước sự việc nay, Cty Phương Trang Đà Lạt cho biết, đang hoàn tất các thủ tục cần thiết để khởi kiện đơn vị liên quan nhằm đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Info.net có bài: Những sự kiện đáng chú ý nhất nghị trường tuần này. Bài báo phản ánh: Vào tuần làm việc mới này, nghị trường Quốc hội sẽ "nóng" hơn với những sự kiện được mong chờ nhất trong mỗi kỳ họp.

Sự kiện được mong đợi nhất diễn ra trong tuần này là Quốc hội sẽ tiến hành chất vấn các thành viên Chính phủ. Phiên chất vấn được tiến hành từ thứ 3 ngày 10/6.

Trước khi bước vào phiên chất vấn, trong buổi sáng cùng ngày, Quốc hội sẽ tổ chức phiên “họp riêng” để thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và dự án Luật Công an nhân dân (sửa đổi).

Sang chiều 10/6, phần chất vấn và trả lời chất vấn sẽ được tường thuật, phát thanh trực tiếp để người dân và cử tri trên cả nước tiện theo dõi. Mở đầu phiên chất vấn, Trưởng Ban dân nguyện Nguyễn Đức Hiền sẽ trình bày báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII.

Phiên chất vấn và trả lời chất vấn sẽ được kéo dài trong 2,5 ngày. Bốn Bộ trưởng, trưởng ngành sẽ đăng đàn trả lời chất vấn tại phiên họp thứ 7 này gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận và Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng có thể sẽ trả lời chất vấn về tình hình Biển Đông theo đề nghị của ĐBQH.

Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ trả lời xoay quanh vấn đề giá cả thị trường, kiểm soát thuế, đổi mới DNNN; Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ trả lời về việc triển khai Hiến pháp, thi hành án dân sự; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ giải đáp vấn đề đổi mới giáo dục, thay SGK, chất lượng đào tạo, dạy nghề; Tổng Thanh tra Chính phủ sẽ trả lời việc giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng.

Ngoài ra cũng tại tuần làm việc này, Quốc hội sẽ thảo luận về những vấn đề dân sinh khác liên quan đến hộ tịch và căn cước công dân.

Trong tuần, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2012, Nghị quyết về cân đối ngân sách trung ương và ngân sách địa phương năm 2013 (nếu có), biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế.

Bên cạnh đó, Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 35/2012/QH13 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

2. Báo Người đưa tin có bài: Hội Luật gia được ủy quyền họp báo về tình hình Biển Đông tại VN. Bài báo phản ánh: Với tư cách là một trong hơn 100 tổ chức thành viên của IADL, Hội Luật gia Việt Nam được Hội luật gia dân chủ quốc tế (IADL) ủy quyền tổ chức cuộc họp báo ở Việt Nam về tình hình Biển Đông.

Hội luật gia dân chủ quốc tế (IADL) là một tổ chức phi chính phủ có tư cách cố vấn tại Hội đồng kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc (ECOSOC), được lập ra để ủng hộ và duy trì luật pháp quốc tế, bảo vệ quyền của các dân tộc được phát triển, bình đẳng về kinh tế và tiếp cận những thành quả tiến bộ khoa học cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Trước sự việc Trung Quốc  hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, IADL đã ra tuyên bố thể hiện sự quan ngại về tình hình căng thẳng leo thang ở Biển Đông, đồng thời, đề nghị Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế, dừng và kiềm chế các hành động gây phức tạp tình hình, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực, đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.

Với tư cách là một trong hơn 100 tổ chức thành viên của IADL, Hội Luật gia Việt Nam được IADL ủy quyền tổ chức cuộc họp báo ở Việt Nam để công bố bản tuyên bố nói trên. Ông Jitendra Sharma, thành viên Ban thường vụ IADL, Chủ tịch danh dự IADL, nguyên chủ tịch IADL nhiệm kỳ 1999 - 2004 và 2004 - 2009, sẽ sang Việt Nam để dự cuộc họp báo và đọc bản tuyên bố nói trên.

3. Trang Chinhphu.vn có bài: Diễn đàn ARF: Các nước đặc biệt quan tâm vấn đề Biển Đông. Bài báo phản ánh: Ngày 9/6, tại Yangon, Myanmar, đã diễn ra cuộc họp các Quan chức cấp cao (SOM) của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), đại diện 27 nước tham gia ARF cùng EU và Ban Thư ký ASEAN đã tham dự Cuộc họp trên. Trong trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực, vấn đề Biển Đông được các nước đặc biệt quan tâm.

Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh, Trưởng SOM ASEAN-Việt Nam làm Trưởng đoàn. Hội nghị đã tập trung trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, kiểm điểm các hoạt động hợp tác ARF trong năm qua, và bàn việc chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng ARF vào đầu tháng 8/2014.

Trong trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực, vấn đề Biển Đông được các nước đặc biệt quan tâm. Các nước đều bày tỏ quan ngại sâu sắc trước những diễn biến phức tạp và căng thẳng ngày càng gia tăng ở Biển Đông, nhấn mạnh việc phải thực hiện kiềm chế, phê phán mạnh mẽ việc sử dụng những hành động đơn phương vi phạm luật pháp quốc tế (LPQT), Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) và tinh thần và lời văn của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhấn mạnh việc tuân thủ LPQT và UNCLOS 1982 và DOC, sớm đạt được Bộ quy tắc COC.

Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Phạm Quang Vinh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông, mối quan tâm chung của các quốc gia trong và ngoài khu vực.

Tuy nhiên, tại Biển Đông đã và đang diễn ra những vụ vi phạm nghiêm trọng do việc Trung Quốc trái phép hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 và đưa nhiều tàu hộ tống bảo vệ xâm phạm sâu vào trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam kể từ ngày 1/5/2014.

Các tàu của Trung Quốc liên tục có những hành động gây hấn, đâm húc và dùng vòi rồng phun nước, làm hư hại nhiều tàu kiểm ngư, cảnh sát biển và tàu cá của Việt Nam; các hành động trên là sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và Công ước Luật Biển, làm gia tăng căng thẳng và ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, ổn định và an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.

Việt Nam yêu cầu Trung Quốc phải rút ngay giàn khoan và các tàu hộ tống bảo vệ ra khỏi vùng biển của Việt Nam.

Ngày 10/5, các Bộ trưởng ngoại giao ASEAN đã ra Tuyên bố chung bày tỏ quan ngại sâu sắc về những vụ việc phức tạp nêu trên và nhấn mạnh việc phải tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và Tuyên bố DOC, yêu cầu thực hiện kiềm chế, không được có các hành động làm phương hại hòa bình và ổn định ở khu vực, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa hay sử dụng vũ lực.

Tuyên bố trên của ASEAN đã được các nước trong và ngoài khu vực ủng hộ mạnh mẽ. Việt Nam kêu gọi các nước và cộng đồng quốc tế tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ để phản đối các hành động xâm phạm của Trung Quốc.

Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và vùng biển của mình, song hết sức kiềm chế, kiên trì đối thoại và sử dụng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế để yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và các tàu hộ tống bảo vệ ra khỏi vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Việt Nam nhấn mạnh việc nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982, ủng hộ việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả các quy định của DOC, đồng thời khẳng định nhu cầu cấp thiết phải sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử có tính chất ràng buộc ở Biển Đông (COC) nhằm bảo đảm hòa bình, ổn định và an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.

Về định hướng tương lai của ARF, Thứ trưởng Phạm Quang Vinh đánh giá cao đóng góp của ARF trong 20 năm qua (1994–2014); đề nghị ARF cần phải tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được và đặc biệt chú ý việc tăng cường xây dựng lòng tin trong bối cảnh khu vực đang có sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và đang phải đối phó với những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống phức tạp.

Để đạt được điều đó, ARF cần phải tiếp tục nỗ lực thúc đẩy các nguyên tắc về lòng tin, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế; tiếp tục góp phần thúc đẩy việc xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực và nguyên tắc ứng xử chung của khu vực vì các mục tiêu chung là hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực.

Trước đó, tối ngày 8/6, đã diễn ra Cuộc họp Quan chức cao cấp (SOM) Hợp tác Hạ nguồn Mekong (LMI) (gồm các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và Mỹ) và Cuộc họp Quan chức cao cấp Hợp tác Hạ nguồn Mekong–những người bạn (FLM) (gồm đại diện các nước Mekong, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, EU).

Tại cuộc họp Quan chức cao cấp (SOM) hợp tác Hạ nguồn Mekong–Mỹ (LMI), các nước đã thảo luận về định hướng hợp tác LMI trong 5 năm tới và chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao LMI lần 7.

Đánh giá hợp tác giai đoạn vừa qua, các thành viên chia sẻ nhận định rằng LMI đã từng bước khẳng định được vai trò trong hợp tác khu vực; nhiều chương trình hợp tác về môi trường và nước, y tế, giáo dục, kết nối, an ninh năng lượng, nông nghiệp và an ninh lương thực đã được triển khai thành công.

Các bên cũng cơ bản nhất trí hợp tác LMI 5 năm tới sẽ tập trung vào các dự án trọng điểm với hiệu quả cao, đồng thời tăng cường thảo luận về các vấn đề mang tính liên ngành có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững tăng trưởng kinh tế của tiểu vùng Mekong như mối liên hệ giữa nước – năng lượng – lương thực, kết nối khu vực và bình đẳng giới.

Tại Cuộc họp SOM Hợp tác Hạ nguồn Mekong–những người bạn (FLM), đại diện các đối tác phát triển đã tái khẳng định quan tâm và kế hoạch tăng cường hợp tác với các nước tiểu vùng Mekong, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển và hỗ trợ giải quyết các thách thức chung của khu vực. Các bên thống nhất lựa chọn “phát triển bền vững” làm chủ đề thảo luận chính tại Hội nghị Bộ trưởng LMI lần 7 và FLM lần 4 dự kiến tổ chức tại Naypyidaw vào tháng 8/2014.

Phát biểu tại các cuộc họp, Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh, Trưởng đoàn Việt Nam, nhấn mạnh hợp tác LMI giai đoạn tới cần phát huy các thành quả đã đạt được, chú ý tới nhu cầu và sự phát triển bền vững của tiểu vùng Mekong, kết hợp giữa thực hiện các dự án cụ thể với đối thoại chính sách, đặc biệt là về quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mekong.

Thứ trưởng cũng đề nghị FLM đẩy mạnh chia sẻ thông tin, tăng cường phối hợp giữa các cơ chế hợp tác hiện có; và kêu gọi “những người bạn” tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác của LMI.