ĐIỂM TIN BÁO CHÍ NGÀY 05/6 VÀ SÁNG NGÀY 06/6/2014

06/06/2014
Trong ngày 05/6 và đầu giờ sáng ngày 06/6/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Giao thông vận tải có bài: Hoạt động tư pháp còn bị chi phối bởi tiền bạc, tình cảm. Bài báo phản ánh: Đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) đã khẳng định như vậy khi thảo luận về dự án Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi) sáng 05/6.

ĐB Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) cho rằng, hiện nay các cơ quan tư pháp bị chi phối bởi 3 vấn đề: Thứ nhất là chính trị; Thứ hai là tiền bạc và Thứ ba là tình cảm. “Người ta nói: Chính trị, tiền bạc, tình cảm đi vào tòa thì công lý sẽ cắp cặp ra đi. Cái yếu nhất hiện nay là đội ngũ cán bộ chứ không phải là do tổ chức bộ máy. Bởi cán bộ của chúng ta bản lĩnh chính trị không vững vàng, không tinh thông về nghiệp vụ, đạo đức không trong sáng thì nó mới xảy ra oan và sai. Chứ không phải là do chúng ta nhập cơ quan này với cơ quan kia là mọi việc sẽ tốt lên “, ông Thuyền nói và đề nghị phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ có bản lĩnh, đầy nhiệt huyết, cái đầu phải lạnh nhưng bàn tay sạch thì mới làm cho cán cân công lý và công bằng xã hội được thực hiện.

Đồng tình với quan điểm này, ĐB Đỗ Văn Đương (TP HCM) cho rằng, sẽ là rất phù hợp khi giữ lại mô hình VKSND cấp huyện như hiện nay. Theo ông Đương, quan trọng là VKS phải kịp thời chống oan sai từ khi điều tra chứ không phải chờ khi tòa án quyết định.

“Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, không phải là cải cách trụ sở, không phải cải cách cái vỏ vật chất mà phải cải cách con người, cải cách cái đầu, cải cách lương tâm, cải cách trách nhiệm. Kinh phí phải tập trung vào những cái này. Làm sao để người thẩm phán, người kiểm sát viên độc lập, chỉ thực thi pháp luật. Phải dành cho họ chế độ, lương bổng thỏa đáng, họ không nghĩ đến tiền, không phải rơi vào tình trạng đói thì ăn vụng, túng làm liều”, ĐB TP HCM nói.

Cũng đồng tình việc không nên tổ chức VKSND khu vực, ĐB Hồ Văn Năm (Đồng Nai) đề nghị cần tăng cường kiểm soát từ giai đoạn điều tra để tránh tình trạng VKS yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung nhưng cơ quan điều tra lại bảo lưu quan điểm nên VKS phải tự điều tra. 

Trong khi đó, ĐB Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) cho rằng, việc tổ chức mô hình VKSND khu vực không phù hợp với việc xây dựng nền tư pháp gần dân. “Nhiều địa bàn, số lượng việc không lớn nhưng địa bàn rộng, việc phối hợp với các cơ quan khác sẽ không đảm bảo yếu tố kịp thời trong giải quyết thông tin tố giác, tin báo tội phạm, hành vi vi phạm”, ĐB tỉnh Quảng Bình nói.

      2. Báo Người cao tuổi có bài: Thành phố Hồ Chí Minh: Viết tiếp vụ kiện “Luật sư kiện luật sư bắt cá hai tay”: Tòa án nhân dân Quận 9 tổ chức phiên hòa giải bất chấp luật pháp?. Bài báo phản ánh: Như đã phản ánh tại bài viết “Trở lại vụ án “Luật sư kiện luật sư bắt cá hai tay”: Luật sư Trần Minh Thành và ông Vũ Công Thành vu khống luật sư Bạch Tuyết?” đăng số báo 60 (1377) ngày 15/4/2014, phản ánh: Giải quyết đơn kêu oan của ông Nguyễn Anh Hoàng (chồng, đại diện theo ủy quyền của bà Phạm Thị Bạch Tuyết), bà Phạm Thị Bạch Tuyết (bà Tuyết) và Công văn của Báo Người cao tuổi (NCT) “về gia đình đảng viên 55 năm tuổi đảng bị vu oan gần 10 năm chưa được giải quyết”, ngày 4/4/2014, ông Trần Thế Lưu, Trưởng ban Nội chính Thành ủy TP Hồ Chí Minh chủ trì buổi làm việc với Nhà báo Kim Quốc Hoa, Ủy viên Ban Thường vụ TW Hội NCT Việt Nam, Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi. Ban Nội chính Thành ủy ghi nhận LS Thành và ông Vũ Công Thành có hành vi vu khống đối với bà Tuyết; cần kiến nghị Viện KSND Tối cao hủy bỏ Văn bản số 470/VKSTP-1A ngày 23/3/2006 của Viện KSND thành phố Hồ Chí Minh để phục hồi điều tra, thực hiện đối chất buộc xin lỗi công khai, sớm chấm dứt vụ việc.

Trong khi Ban Nội chính Thành ủy đang có chỉ đạo nhanh chóng giải quyết để sớm chấm dứt vụ án đúng pháp luật, thì thẩm phán Trần Thị Kim Quy, TAND Quận 9 lại kí, gửi cho ông Nguyễn Anh Hoàng Thông báo về phiên hòa giải đề ngày 20/5/2014 (gọi là “Thông báo”- xem ảnh), có nội dung: “Đúng 9 giờ ngày 12/6/2014 có mặt tại phòng số 5, trụ sở TAND Quận 9, để tham gia phiên hòa giải”. Nhận thấy, việc triệu tập phiên hòa giải này là vi phạm Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS), ông Nguyễn Anh Hoàng có đơn kêu cứu khẩn cấp gửi Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi, với nội dung:

Thứ nhất, “ngày 22/5/2014, tôi nhận được “Thông báo” không số, không được bỏ vào bì thơ và không được tống đạt hợp lệ cho tôi theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, mà do ai đó vứt vào cổng trước nhà 1004/3A Nguyễn Duy Trinh (nhà này chúng tôi không ở); trong khi tại Thông báo này, bà Trần Thị Kim Quy có ghi rõ địa chỉ tôi đang ở tại nhà 1010 Nguyễn Duy Trinh.

Thứ hai, “nguyên đơn khởi kiện yêu cầu TAND Quận 9 buộc bị đơn là ông Vũ Công Thành bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do danh dự, uy tín bị xâm hại; TAND Quận 9 thụ lí số 112/2009/TLST- DS ngày 10/7/2009. Nhưng “Thông báo” lại yêu cầu tôi tham dự hòa giải với ông Trần Minh Thành, như vậy là giải quyết sai đối tượng. Mặt khác, TAND Quận 9 đưa ông Trần Minh Thành vào vụ án là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không xác định vị trí pháp lí của ông Trần Minh Thành là tham gia tố tụng với bên bị đơn hay có yêu cầu độc lập? Như vậy, “Thông báo” của TAND Quận 9 là trái quy định Điều 61, BLTTDS.

Thứ ba, TAND Quận 9 không tuân thủ quy định tại khoản 2, Điều 91, BLTTDS năm 2004, chuyển vụ án cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền xử lí các hành vi phạm pháp, cụ thể: “Tờ tường thuật sự thật” của bị đơn ông Vũ Công Thành là chứng cứ giả mạo có dấu hiệu tội phạm được ông Vũ Công Thành phát tán cho ông Trần Minh Thành gửi đến các cơ quan pháp luật (Cơ quan CSĐT Công an Quận 2 và TAND thị xã Bến Tre) giúp sức cho nội dung vu khống trong “Tờ tường thuật” của ông Trần Minh Thành. Sau khi “Tờ tường thuật sự thật” bị phát hiện, ông Vũ Công Thành tuy có khai nhận tại Biên bản đối chất hòa giải ngày 18/9/2009 của TAND Quận 9 là đã kí vào “Tờ tường thuật sự thật” là do nhầm lẫn. Nhưng đến nay đã 6 năm, ông Vũ Công Thành vẫn cố ý không thu hồi “Tờ tường thuật sự thật”, vẫn duy trì sự phát tán “Tờ tường thuật sự thật”, tạo điều kiện cho ông Trần Minh Thành sử dụng làm chứng cứ chứng minh cho nội dung “Tờ tường thuật” kéo dài hành vi vu khống bà Phạm Thị Bạch Tuyết.

Thứ tư, trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 19/9/2011 nguyên đơn đã tố cáo thẩm phán Trần Thị Kim Quy về vi phạm tố tụng; TAND thành phố cũng có yêu cầu TAND Quận 9 giải quyết đơn (Phiếu chuyển số 3664/TATP-VP ngày 28/12/2011), nhưng đến nay Chánh án TAND Quận 9 vẫn chưa giải quyết tố cáo theo quy định Điều 401 BLTTDS. Thẩm phán Quy là đối tượng đang bị tố cáo, không có quyền tổ chức phiên hòa giải.

Thứ năm, thẩm phán Kim Quy có những hành vi trả thù, trù dập nguyên đơn. Cụ thể: Kí, ban hành Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 52/2011/QĐST-DS ngày 8/9/2011 nhưng cố ý neo giữ đến ngày 14/1/2012 tức là sau 4 tháng 6 ngày mới chuyển giao qua đường bưu điện đến bà Tuyết ngày 16/1/2012 (đúng ngày 23 tháng Chạp) trước ngày TAND Quận 9 nghỉ làm việc để đón Tết Nhâm Thìn là 4 ngày. Việc làm này của thẩm phán Quy khiến cho nguyên đơn phải khốn đốn trong việc thực hiện thủ tục kháng cáo vào những ngày cận tết. Còn khi nhận đơn kháng cáo của bà Tuyết ngày 17/1/2012, bà Quy không giao ngay thông báo nộp tiền án phí kháng cáo, mà cố ý hẹn lại 14 giờ chiều ngày 18/1/2012 (tức ngày 25 tết) mới giao thông báo cho nguyên đơn đi đóng án phí kháng cáo.

Tiếp tục giải quyết vụ án lần này, thẩm phán Kim Quy cố tình không gửi thông báo tổ chức phiên hòa giải lần 1 cho nguyên đơn, nhằm tạo cớ cho rằng nguyên đơn không chấp hành để ra thông báo lần 2 (“Thông báo”), nhưng tại “Thông báo” lại không đề là thông báo lần 2 nhằm làm cho nguyên đơn nghĩ rằng “Thông báo” là thông báo hòa giải lần 1, Toà án còn có thể triệu tập hòa giải lần 2, nên không đến dự hòa giải. Khi đó, TAND Quận 9 sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án do lỗi của nguyên đơn.

Rõ ràng,TAND Quận 9 mở phiên hòa giải ngày 12/6/2014 là bất chấp pháp luật. Nguyên đơn yêu cầu TAND Quận 9 hủy bỏ “Thông báo” và phiên hòa giải ngày 12/6/2014; yêu cầu TAND Quận 9 áp dụng quy định khoản 2, Điều 91 của BLTTDS năm 2004, chuyển Cơ quan Điều tra có thẩm quyền xử lí việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm như phân tích, viện dẫn ở nội dung “Thứ ba” nêu trên, là có cơ sở. Việc TAND Quận 9 tổ chức giải quyết dân sự vụ án có dấu hiệu hình sự là không thực hiện đúng quy định khoản 2, Điều 91 của BLTTDS năm 2004 tiếp tục kéo dài vụ án, gây oan khuất cho nguyên đơn là không thể tránh khỏi.

3. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Dân Hà Nội ngơ ngác với Thừa phát lại. Bài báo phản ánh: Không giống TP.Hồ Chí Minh, Thừa phát lại (TPL) Hà Nội là mô hình hoàn toàn mới. Khó khăn đủ bề, đặc biệt là rào cản về nhận thức của người dân cũng như chính các cơ quan chức năng. 

Xác định phải vượt qua giai đoạn “vạn sự khởi đầu nan” đó, 5 Văn phòng TPL đầu tiên của Hà Nội đang ngày càng nỗ lực để được xã hội đón nhận. Hơn cả, như các TPL chia sẻ, họ hành nghề bằng “niềm tin nội tâm”.

Sau những thành công nhất định của chế định TPL tại TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội là một trong 13 địa phương được lựa chọn tiếp tục làm thí điểm theo Nghị quyết của Quốc hội. Để “ghi tên vàng” trong giai đoạn thí điểm tiếp theo này, cấp ủy, chính quyền và các ban ngành của thành phố đã thể hiện sự quyết tâm rất lớn với hy vọng người dân sẽ được hưởng những dịch vụ tốt nhất do TPL cung cấp. Bên cạnh đó là sự chỉ đạo sát sao, tích cực, sự vào cuộc của các cấp, các ngành. 

Kết quả sau những nỗ lực không ngừng đó là 5 Văn phòng TPL đầu tiên của Hà Nội đã được cấp phép và chính thức đi vào hoạt động cách đây hơn 2 tháng. Đó là các Văn phòng TPL: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân và Hà Đông.

Là một trong những văn phòng đầu tiên của Hà Nội đi vào hoạt động, những ngày đầu đối với Văn phòng TPL Hai Bà Trưng (có địa chỉ tại số 3, A11 Đầm Trấu, đường Nguyễn Khoái, phường Bạch Đằng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), theo lời của Trưởng Văn phòng Phạm Anh Dũng, quả là “rất đáng nhớ”. 

Nhìn tấm biển treo rất cao, đỏ rực ấn tượng nhưng rất nhiều người qua đường vẫn hỏi nhau không hiểu TPL là gì, làm những công việc gì. Hiểu được điều đó, Văn phòng TPL Hai Bà Trưng xác định muốn khách hàng đến với mình thì trước hết phải lấy việc tuyên truyền làm khâu đột phá.

Từ nhận thức đó, hàng loạt công việc được Văn phòng TPL Hai Bà Trưng rốt ráo triển khai.  Văn phòng đã gửi công văn đến các ngành chức năng trong quận, thành phố, cho hơn 300 xã, phường trên địa bàn Hà Nội, trong đó nêu rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của TPL cũng như quá trình thực hiện chế định này trên phạm vi cả nước. 

Đặc biệt, trong các văn bản gửi đến UBND các xã, phường, Văn phòng TPL Hai Bà Trưng còn đề nghị được phối hợp với bộ phận tiếp dân, tư pháp, địa chính của phường để tư vấn, giải đáp khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn phường và tư vấn tuyên truyền pháp luật. Mọi hoạt động tuyên truyền về TPL còn được “tranh thủ” trong nhiều buổi họp chi bộ, tổ dân cư, thôn xóm, xã, phường…

Đặc biệt, theo Trưởng Văn phòng TPL Hai Bà Trưng Phạm Anh Dũng, đến nay về cơ bản Văn phòng đã đặt được các điểm tuyên truyền, tư vấn và tiếp nhận các yêu cầu về TPL ở tất cả các quận, huyện trên địa bàn thành phố. Do hiện nay Văn phòng chỉ có 5 TPL nên việc tuyên truyền tại cơ sở do các cộng tác viên của Văn phòng (đó là những người có hiểu biết, có trình độ pháp luật, đã được qua tập huấn về TPL) đảm nhiệm. Các TPL cũng thường xuyên đi lưu động kiểm tra, đôn đốc các điểm tuyên truyền này để kịp thời hướng dẫn và giải quyết các vấn đề phát sinh.

Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, đến nay lượng khách hàng đến với Văn phòng ngày càng đông nhưng vẫn chủ yếu là yêu cầu lập vi bằng… ”Chúng tôi không băn khoăn nhiều về chuyện số phận pháp lý của TPL sẽ đi về đâu khi kết thúc thí điểm mà điều chúng tôi quan tâm nhất là làm sao đem đến những dịch vụ tốt nhất cho người dân, TPL phục vụ người dân bằng cái tâm của mình. 

Khi mình làm tốt rồi thì “hữu xạ tự nhiên hương” - ông Dũng nói. Có lẽ chính vì phương châm “Tâm sáng, trí tài, lực mạnh” mà Văn phòng đã đào tạo được đội ngũ TPL chuyên nghiệp, tận tâm, tận lực và một phong cách phục vụ chu đáo.

Cũng nằm trong top 5 Văn phòng đầu tiên, giữa tháng 4/2014 Văn phòng TPL Ba Đình (địa chỉ tại số 292 phố Đội Cấn, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội) khai trương và chính thức bước vào hoạt động. Qua gần hai tháng hoạt động, Văn phòng đã tiếp nhận 25 yêu cầu của tổ chức và cá nhân, chủ yếu là nhu cầu lập vi bằng; đã lập 17 vi bằng, thu trên 52 triệu đồng, chuẩn bị điều kiện để khi chính thức có văn bản của Sở Tư pháp gửi các Kho bạc Nhà nước theo quy định thì sẽ ký hợp đồng tống đạt văn bản với các cơ quan Thi hành án dân sự và TAND theo địa hạt được phân công.

Còn tại Văn phòng TPL quận Hà Đông (địa chỉ tại B14 Khu đấu giá đất Vạn Phúc, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, TP.Hà Nội), sau một tháng hoạt động đã từng bước ổn định về tổ chức nhân sự và bước đầu thực hiện được một số công việc như: Thụ lý và lập 11 vi bằng; thụ lý một hồ sơ xác minh điều kiện thi hành án. Một số khách hàng đến tìm hiểu về thi hành án nhưng vẫn còn mang tính thăm dò mà chưa quyết định việc thực hiện dịch vụ thi hành án của Văn phòng.

Đều là những Văn phòng đi tiên phong trong điều kiện vô cùng khó khăn, vất vả song ghi nhận tại các Văn phòng cho thấy đã có sự đầu tư đáng kể về cả sức người, sức của cho hoạt động này, và bước đầu chế định TPL được người dân Thủ đô đánh giá cao. Điều này là động lực không nhỏ cho các Văn phòng tiếp tục nỗ lực để khẳng định vị trí của mình trong “làng” TPL của cả nước. Tuy nhiên, cạnh đó cũng là những khó khăn hết sức đặc thù.

Theo Trưởng Văn phòng TPL Ba Đình Nguyễn Văn Lạng, TPL là chế định mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, do vậy để việc triển khai đạt hiệu quả đòi hỏi có sự phối hợp rất chặt chẽ, thường xuyên, có hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan. Qua tiếp xúc và trao đổi, hầu hết cán bộ cấp phường trên địa bàn chưa hiểu về tổ chức, vai trò, nhiệm vụ của TPL. 

Mặt khác, trước nay hầu hết các công việc TPL được làm đều đang do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, vì vậy người dân chưa hiểu, chưa quen nhìn nhận và sử dụng TPL như một dịch vụ trong lĩnh vực Tư pháp để hỗ trợ cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức của mình. Đây là trách nhiệm của bản thân các Văn phòng TPL và cũng là trách nhiệm của công tác tuyên truyền.

Bên cạnh đó, cũng theo ông Lạng, Nghị quyết của Quốc hội chỉ quy định về nguyên tắc việc thực hiện thí điểm chế định TPL, do đó văn bản có hiệu lực cao nhất về tổ chức và hoạt động của TPL chỉ mới là Nghị định của Chính phủ nên sẽ gây khó khăn, vướng mắc về áp dụng pháp luật, đặc biệt khi có xung đột, mâu thuẫn giữa nội dung Nghị định với các luật có liên quan về tố tụng, thi hành án dân sự, bảo hiểm, ngân hàng… , làm hạn chế hiệu lực hoạt động của TPL. 

Do đang trong giai đoạn thí điểm, các Văn phòng TPL vẫn còn đang vừa làm, vừa học, vừa dần ổn định, củng cố và dần phát triển, từng bước hình thành cơ chế quản lý, điều hành nội bộ. Đội ngũ TPL, Thư ký nghiệp vụ và nhân viên giúp việc tại các Văn phòng TPL vẫn còn thiếu, và đặc biệt là chất lượng không đồng đều, không được đào tạo bài bản, thiếu kỹ năng, kinh nghiệm trong giải quyết công việc.

Trưởng Văn phòng TPL quận Hà Đông Bùi Trọng Hào cũng chung nhận định: Chế định TPL còn rất mới mẻ nên người dân, doanh nghiệp, cán bộ, cơ quan nhà nước, thậm chí cán bộ tư pháp, những người hành nghề luật chưa biết đến “TPL” là gì.  

Người dân chưa có được niềm tin cần thiết đối với Văn phòng TPL. Vì vậy, họ vẫn còn băn khoăn khi sử dụng dịch vụ. Hiện các Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự chưa hợp tác và ký hợp đồng chuyển giao văn bản tống đạt cho các Văn phòng TPL. Văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động TPL cũng còn thiếu và chưa cụ thể, dẫn tới nhiều cách hiểu không thống nhất.

Từ thực tế này, ông Bùi Trọng Hào đề xuất: “Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về TPL nhằm nâng cao nhận thức và tiếp cận của người dân đối với dịch vụ này, đồng thời nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức trong việc thực hiện “Chế định TPL”. 

Ý kiến chung của các Văn phòng TPL tiên phong của Thủ đô cũng là mong muốn được các cơ quan chức năng tổ chức nhiều hơn nữa các khóa tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho TPL, Thư ký nghiệp vụ và nhân viên Văn phòng TPL; đồng thời cần có sự vào cuộc quyết liệt hơn nữa của các cơ quan chức năng, đặc biệt là sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan Tư pháp, Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự…

Bên cạnh đó, cần sớm thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện thí điểm chế định TPL tại những tỉnh, thành phố thực hiện thí điểm và phát huy vai trò tích cực chủ đạo của Ban này để đẩy mạnh công tác triển khai thực hiện một cách đồng bộ.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: 10 năm chờ tiền thi hành án. Bài báo phản ánh: Bà Lữ Thị Lệ Hồng, 295/12E Nơ Trang Long (phường 13, quận Bình Thạnh, TP.HCM) gửi đơn đến báo Pháp Luật TP.HCM phản ánh năm 2005, bà được tòa tuyên thắng kiện trong một vụ tranh chấp về hợp đồng cầm cố tài sản với bà Hương.

            Sau khi bản án có hiệu lực, bà làm đơn yêu cầu thi hành án (THA), tuy nhiên từ đó đến nay, Chi cục THA dân sự quận Bình Thạnh vẫn chưa giải quyết dứt điểm vụ việc.

Dương Thị Mai Lam, chấp hành viên Chi cục THA dân sự quận Bình Thạnh, cho biết do trước đây bà Hương cần tiền nên cầm cố căn nhà 295/12H Nơ Trang Long cho bà Hồng với giá sáu lượng vàng SJC tương đương 45 triệu đồng. Nhưng đến hạn trả, bà Hương không trả tiền, bà Hồng kiện ra tòa. Dù bản án đã có hiệu lực gần 10 năm nay nhưng hiện kinh tế bà Hương khó khăn, căn nhà 295/12H đang nằm trong khu quy hoạch để thực hiện dự án khu dân cư thương mại Bình Hòa do Công ty Tân Thuận thực hiện. Nay phía công ty chưa hiệp thương bồi hoàn đối với căn nhà nói trên nên chưa thể THA. Phía Công ty Tân Thuận đang tiếp tục triển khai hiệp thương bồi hoàn đối với những hộ dân cư còn lại thuộc ranh quy hoạch dự án. THA quận Bình Thạnh đã có văn bản gửi các cơ quan chức năng để yêu cầu đơn vị chi trả tiền bồi thường căn nhà 295/12H cho bà Hường chuyển trả lại cho bà Hồng thông qua cơ quan THA…

5. Báo Tiền phong có bài: Vụ 60 ngàn đồng và 94 tháng tù: Bị hại nhiều lần xin cho “kẻ cướp”. Bài báo phản ánh: Trước bản án 94 tháng tù dành cho 4 bị cáo tuổi vị thành niên trong vụ cướp mũ ở Tiên Lãng (Hải Phòng), Trung tâm trợ giúp pháp lý Sở Tư pháp Hải Phòng cho rằng việc xét xử các cháu tuổi vị thành niên cần lấy mục đích giáo dục, giúp đỡ để các cháu trở thành người có ích chứ không nhất thiết phải trừng phạt bằng án tù. Trong khi đó, gia đình bị hại tiếp tục nhiều lần gửi đơn xin giảm nhẹ cho các bị cáo.

Phiên tòa sơ thẩm xử vụ 4 thanh niên giật mũ nón của nữ sinh ngày 3/4/2014, TAND huyện Tiên Lãng đã tuyên phạt các bị cáo Vũ Văn Thành 36 tháng tù, Nguyễn Bá Thịnh 22 tháng tù, Vũ Thanh Hùng và Vũ Văn Lộc cùng mức 18 tháng tù. Ba bị cáo tuổi vị thành niên đang được tại ngoại là Thịnh, Hùng, Lộc đã kháng cáo xin hưởng án treo, riêng Thành đang bị giam giữ không kháng cáo.

Chúng tôi tìm về nhà cháu Trịnh Thu Hà (một trong hai bị hại trong vụ án cướp mũ) ở thôn Lộc Trù (xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng) vào một chiều hè cuối tháng 5. Cháu Hà cho biết sáng 23/9/2013, sau khi bị nhóm Thành, Lộc, Hùng, Thịnh đi xe máy giật mũ do nghĩ là trò đùa và chiếc mũ không đáng giá nên cháu đi học tiếp, không trình báo gì cả.

“Mấy hôm sau, cháu đang ngồi học thì có hai chú công an đến trường đi từng lớp hỏi xem có ai bị giật mũ không. Khi đến lớp cháu, cháu nói có bị giật chiếc mũ vải thế là các chú ấy đưa cháu tới văn phòng trường để làm việc”-Hà kể.

Tại đây, cán bộ công an ghi lời khai, nói Hà làm tường trình. Mấy hôm sau, công an tiếp tục tới trường yêu cầu Hà tới văn phòng trường làm việc. Hà và Vũ Thị Ngọc Anh, nữ sinh khối 12 bị giật nón cùng viết tường trình sự việc theo yêu cầu của công an. Mấy hôm sau, hai nữ sinh mới hay chuyện bốn thanh niên trêu đùa giật mũ, nón của mình đã bị công an bắt về hành vi cướp giật tài sản. “Cháu rất bất ngờ, chỉ là trò trêu đùa mà cũng bị bắt. Biết như vậy thì cháu chẳng khai báo mất mũ làm gì”-Hà nói.

Anh Trịnh Văn Nghìn (bố cháu Hà), công an viên xã Tiên Thắng, cho biết sau khi tòa xử tù 4 bị cáo cướp mũ của con mình, anh đã gửi đơn xin giảm nhẹ cho các cháu. “Cái mũ không đáng giá, hơn nữa chỉ là trò đùa mà bắt các cháu đi tù, tôi thấy bất nhẫn quá”-anh Nghìn nói. Theo anh Nghìn, mới đây khi biết 3 cháu Lộc, Hùng, Thịnh kháng cáo còn bị cáo Thành đang bị giam không kháng cáo, anh lại tiếp tục làm đơn xin giảm nhẹ cho riêng Thành. Tòa đã có văn bản thông báo về việc kháng cáo theo trình tự phúc thẩm cho gia đình anh.

Trước việc bị hại nhiều lần xin giảm nhẹ cho “kẻ cướp” và dư luận cho rằng mức án tù dành cho các bị cáo vị thành niên phạm tội chỉ vì trò trêu đùa là quá nặng, bà Hoàng Thị Toan, Chánh án TAND huyện Tiên Lãng cho biết bản án sơ thẩm có kháng cáo nên việc đánh giá đúng sai, nặng nhẹ thế nào phải chờ phiên phúc thẩm của tòa thành phố. “Dư luận là dư luận, còn tòa xử phải căn cứ theo quy định của pháp luật”-bà Toan nói.

Trước đó, trong phiên sơ thẩm ngày 3/4/2014, Trung tâm trợ giúp pháp lý (Sở Tư pháp TP Hải Phòng) đã cử 2 trợ giúp viên bảo vệ quyền lợi cho 3 cháu ở tuổi vị thành niên là Lộc, Hùng, Thịnh. Tại tòa, các trợ giúp viên phân tích các cháu phạm tội vai trò mờ nhạt, gia đình đã xin lỗi và khắc phục hậu quả với bị hại đề nghị tòa cho các cháu hưởng án treo. Tuy nhiên, tòa cho rằng hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, không đủ cơ sở cho hưởng án treo.

Theo bà Đào Thị Mai, Giám đốc Trung tâm, dù cả bị cáo, bị hại cho rằng việc giật mũ nón chỉ là trêu đùa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện các cháu có ý định chiếm đoạt. Các cháu sử dụng xe máy tiếp cận, giật mũ rồi tẩu thoát nên hành vi đó đã cấu thành tội danh chiếm đoạt bởi tội này không căn cứ vào giá trị tài sản cũng như mục đích sử dụng.

Nhận định về bản án của TAND huyện Tiên Lãng đối với các bị cáo vụ cướp mũ, bà Đào Thị Mai, Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý cho rằng các cháu còn ở tuổi vị thành niên thiếu hiểu biết nên tòa có thể vận dụng tối đa quy định để cho các cháu được hưởng án treo chứ không nhất thiết phải xử tù.

Tuy nhiên, bà Mai cho rằng nếu tòa áp dụng triệt để quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên thì có thể cho các cháu được hưởng án treo. “Không phải bỗng dưng mà Bộ luật Hình sự lại xây dựng hẳn chương 10 quy định về người chưa thành niên phạm tội”-bà Mai nói.

Theo đó, điều 69 Bộ luật Hình sự quy định về xử lý hình sự với người chưa thành niên thể hiện rõ quan điểm giáo dục, giúp đỡ để các cháu sửa chữa trở thành người tốt chứ không đặt mục tiêu trừng phạt lên hàng đầu.

Việc trừng phạt chỉ áp dụng với người chưa thành niên có nhân thân xấu, tái phạm nhiều lần, hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Còn các bị cáo trong vụ cướp mũ chỉ xuất phát từ việc trêu đùa, chưa phạm tội lần nào, có 2 cháu đang đi học nên pháp luật cần khoan hồng, cho các cháu hưởng án treo để tiếp tục được đi học trở thành người có ích.

Bà Mai nhận định tòa xử tù các cháu là đóng cánh cửa tương lai của chúng bởi vào tù khả năng thất học khó tránh khỏi. Hơn nữa, trong môi trường nhà tù, các cháu tiếp xúc nhiều với đối tượng phạm tội, xa gia đình nên tâm sinh lý rất dễ phát triển lệch lạc.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo hải quan online có bài: Bộ GD-ĐT thanh minh về văn bản "lạ". Bài báo phản ánh: Quy định con của người hoạt động cách mạng trước ngày 1-1-1945; con của người hoạt động cách mạng từ ngày 1-1-1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 sẽ được cộng điểm ưu tiên khi dự thi vào THCS, THPT quy định tại Thông tư 18/2014/TT-BGDĐT đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều của dư luận.

Tại cuộc họp báo ngày 4-6 về tổng kết kỳ thi tốt nghiệp THPT 2014, đại diện Vụ Giáo dục Trung học- Bộ GD-ĐT nói: Sở dĩ có quy định nêu trên là do Bộ GD-ĐT căn cứ vào pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ quốc hội về sửa đổi, bổ sung ưu đãi người có công với cách mạng, quy định tại các điều khoản như sau:

Khoản 5, điều 4: “Người có công với cách mạng và thân nhân được Nhà nước, xã hội quan tâm chăm sóc, giúp đỡ và tùy từng đối tượng được ưu tiên trong tuyển sinh...”;

Khoản 4 điều 9: “Con của người hoạt động cách mạng trước 1-1-1945 được hưởng chế độ ưu tiên, hỗ trợ quy định tại khoản 5, Điều 4 của pháp lệnh này”;

Và khoản 4 điều 10: “Con của người hoạt động cách mạng trước 1-1-1945 được hưởng chế độ ưu tiên, hỗ trợ quy định tại khoản 5, Điều 4 của pháp lệnh này”.

Một căn cứ pháp lý khác, theo Bộ GD-ĐT là khoản 1, điều 4 Nghị định số 31/2013/NDD-CP, ngày 9-4-2013 của Chính phủ đã quy định, thí sinh được ưu tiên cộng điểm khi thân nhân người có công là cha đẻ, mẹ đẻ; vợ hoặc chồng, con (con đẻ, con nuôi)”.

Đại diện Bộ GD- ĐT cũng cho biết trong thực tế, các sở GD- ĐT và các nhà trường, nhất là các trường trọng điểm, trường chất lượng cao vẫn thường xuyên phải giải quyết chế độ ưu tiên cho các trường hợp con đẻ và con nuôi của những người hoạt động cách mạng trước ngày 1-1-1945.

Tuy nhiên khi được hỏi về thống kê số lượng những đối tượng được cộng điểm ưu tiên vị đại diện này nói: Hiện chúng tôi chưa thống kê cụ thể nhưng đã biết trên thực tế có những trường hợp thuộc các đối tượng ưu tiên nói trên nên việc quy định các đối tượng ưu tiên này vừa đảm bảo các quy định của pháp luật, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tế.

2. Báo Khám phá.vn có bài: 'Cấm' công chức nói 'tiếng lóng': Không khả thi. Bài báo phản ánh: Liên quan đến quy định mới đây của UBND TP Hà Nội về quy định “cấm” công chức nói “tiếng lóng”, nhiều ý kiến cho rằng quy định này rất khó thực hiện trong thực tế.

Ngày 29/5, Chánh Văn phòng UBND TP Hà Nội đã ký ban hành văn bản về quy chế thực hiện kỉ cương hành chính và văn hóa công sở đối với công chức. Theo đó, công chức văn phòng phải nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về các quy định liên quan đến giải quyết công việc. Khi giao tiếp qua điện thoại, cần trao đổi ngắn gọn, tập trung vào nội dung công việc; không ngắt điện thoại đột ngột.

Trừ trường hợp được sự đồng ý của lãnh đạo cơ quan vào các dịp liên hoan, lễ tết, tiếp khách ngoại giao, các hành vi mà công chức Hà Nội bị cấm là hút thuốc lá trong phòng họp và nơi công cộng; sử dụng đồ uống có cồn trước và trong giờ làm việc tại công sở; không được đánh bạc, đánh cờ, chơi game hoặc chơi thể thao trong giờ làm việc.

Văn bản trên được ban hành sau khi kết quả từ cuộc điều tra thực trạng văn hóa ứng xử tại các cơ quan hành chính, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, nơi công cộng và khu dân cư ở Hà Nội, do Khoa Quốc tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Sở Văn hóa Hà Nội thực hiện mới đây cho thấy, 88% người được hỏi cán bộ lãnh đạo có hành vi ứng xử không phù hợp; 95% cho rằng công chức, viên chức ứng xử không phù hợp.

Tuy nhiên, ngay sau khi văn bản trên được ban hành, trong dư luận đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau.

Về vấn đề trên, ông Lê Như Tiến (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Giáo dục Thanh Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội) cho biết: “Khách quan mà nói thì quy định về các điều cấm công chức làm như trên là không mới, nó đã có từ lâu và cũng cần thiết phải thực hiện. Người cán bộ công chức phải là tấm gương để cho người dân nhìn vào. Thực tế thì hiện nay nhiều công chức đã quên mất điều đó. Văn hóa công sở hiện nay đang có vấn đề, cần phải chấn chỉnh lại”.

“Tuy nhiên, chấn chỉnh bằng cách nào lại là chuyện khác. Tôi nghĩ đây là vấn đề nói thì dễ, làm thì khó. Từ trước đến nay ta nói về vấn đề này rất nhiều rồi, nhiều cơ quan, nhiều địa phương cũng đã bao lần “hạ quyết tâm, thượng quyết tâm” để thực hiện, nhưng rồi kết quả thu được vẫn không như mong muốn”, ông Tiến nói.

Ông Tiến cho rằng: “Quy định này lại làm nhiều người nhớ đến hang loạt các quy định khác đã ban hành trước đó như: quy định cấm chửi bậy nơi công cộng, cấm tiểu tiện ngoài đường, cấm đánh chửi bố mẹ, cấm vợ chồng cãi nhau,… thậm chí đi kèm với những quy định trên là cả chế tài xử phạt, nhưng có ai thử hỏi từ đó đến nay các quy định này đã được thực hiện được ra sao, xử phạt được những ai, nộp ngân quỹ nhà nước bao nhiêu tiền? Nên tôi nghĩ thực hiện được là khó…”.

Liên quan đến văn bản quy định “cấm” công chức nói “tiếng lóng” và văn hóa ứng xử nơi công sở mới đây của UBND TP Hà Nội, Luật sư Lê Minh Hải (Trưởng Văn phòng Luật sư Royal, Hà Nội) cho rằng văn bản quy định ban hành nhưng không có hướng dẫn cụ thể, không có chế tài xử phạt thì không thể thực hiện được.

“Đã nói đến quy định, đến luật là phải nói đến chế tài. Chế tài là cơ sở để thực hiện, là công cụ để buộc đối tượng chịu sự chi phối bởi những quy định trên phải thực hiện. Ví dụ như trong văn bản quy định cấm công chức nói tục nơi công sở, thì đi kèm với cấm là phải có chế tài xử lý, ví như anh nói tục (vi phạm) thì sẽ bị xử lý như thế nào, phạt hành chính là bao nhiêu, hay áp dụng cách xử lý khác như đánh giá kết quả thi đua cuối năm, trừ lương,… chứ cứ chung chung thì quy định không có sức nặng để thực hiện”, Luật sư Hải nói.

Luật sư Hải so sánh: “Tôi lấy ví dụ như vào cuối năm ngoái, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, trong đó có nhiều quy định chi tiết về các hành vi có thể bị xử phạt hành chính như: nói bậy, chửi tục nơi công cộng, chồng lăng nhục vợ, con cái đánh chửi cha mẹ,…

Đây là nghị định đi kèm chế tài, nghĩa là khi đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh áp dụng của Nghị định trên vi phạm, thì cơ quan chức năng có cơ sở để xử lý. Còn ở văn bản của UBND TP Hà Nội mới ban hành gần đây tôi thấy rất chung chung, nó như kiểu nội quy trong lớp học đối với học sinh, nó rất khó thực hiện…”.

Ngoài ra, Luật sư Lê Minh Hải cho rằng trước khi ban hành một văn bản luật hay dưới luật, tính khả thi trong thực tế cần phải được tính đến kỹ lưỡng. “Thực tế trong thời gian qua, nhiều cơ quan chức năng nhà nước đã ban hành rất nhiều các quy định, các văn bản mà tính khả thi không cao, mà nói như người dân thì đó là những quy định… trên trời. Đây cũng là điều mà chúng tôi đề nghị cần phải xem xét lại”.

 3. Báo Pháp luật online có bài: Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. Bài báo phản ánh: Ngày hôm qua (5/6), tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đến dự và phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ 2014 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tổ chức. 

Đây là kênh đối thoại chính sách giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, được tổ chức thường niên nhằm mục đích xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững tại Việt Nam.

Phát biểu tại Diễn đàn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu bật những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời gian qua và chia sẻ sự việc đáng tiếc xảy ra vừa qua đối với các doanh nghiệp. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, gây phẫn nộ đối với cả dân tộc Việt Nam. Một số nơi người dân biểu tình phản đối hành động ngang ngược này của Trung Quốc, lợi dụng việc biểu tình yêu nước của người dân, một số người manh động đã cướp giật và phá hoại tài sản của doanh nghiệp. 

“Việt Nam chúng tôi đã ngăn chặn kịp thời và không để tái diễn tình trạng này như các bạn đã biết. Việt Nam chúng tôi đã chia sẻ, hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ và các doanh nghiệp bị thiệt hại, các doanh nghiệp đã trở lại sản xuất, kinh doanh bình thường” - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ.

Đồng thời, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định rõ quan điểm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các quốc gia, của cộng đồng quốc tế,  Việt Nam sẽ tiếp tục đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, phát triển kinh tế đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội.

Cho biết Việt Nam đang đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế với mục tiêu là để cạnh tranh cao hơn, hiệu quả cao hơn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển doanh nghiệp tư nhân, coi đây là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, đồng thời sẽ tạo mọi điều kiện để thu hút mạnh hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thương mại tại Việt Nam. 

Trước các doanh nghiệp, Thủ tướng cũng nhấn mạnh Việt Nam sẽ bảo đảm và phát huy quyền dân chủ trực tiếp của người dân cũng như quyền dân chủ của người dân thông qua các tổ chức tự nguyện và hợp pháp của mình và trong nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền, Việt Nam cũng đặc biệt coi trọng hoàn thiện xây dựng thể chế, chính sách, cải cách hành chính... 

Một lần nữa Thủ tướng khẳng định: “Việt Nam sẽ đảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối cho các tổ chức, các doanh nghiệp, người nước ngoài đang công tác, làm việc, học tập, làm ăn sinh sống ở Việt Nam”.

4. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: EVN ôm “quả đắng” vì ham xài đồ Trung Quốc. Bài báo phản ánh: Nguồn tin Pháp luật Việt Nam cho hay, một sự cố lịch sử vừa xẩy ra trên hệ lưới điện Bắc - Nam: Liên tiếp trong vòng một tuần, bắt đầu từ hôm 14/5, cả hai máy biến áp AT1 và AT2 của trạm biến áp 500 kV Hiệp Hòa (Bắc Giang) cùng bị xì dầu ra ngoài, hư hỏng nặng, buộc phải tách ra khỏi hệ thống, khiến ngành điện phải cắt đột hơn 1.000 MW. Đặc biệt, cả hai máy biến áp này đều là hàng Trung Quốc và sự cố xẩy ra ngay khi vừa hết hạn bảo hành.

Sự cố đầu tiên xẩy ra vào lúc 9h20 ngày 14/5. Pha A máy biến áp AT1 bất ngờ bị xì dầu ra ngoài. Hậu quả là làm mất điện máy biến áp AT1 Hiệp Hòa khi đang nhận điện từ hệ thống điện 500 kV với công suất hơn 700  MW, gây quá tải hàng loạt đường dây huyết mạch đồng thời làm điện áp khu vực giảm thấp. 

“Tai nạn” khiến ngành điện buộc phải cô lập máy biến áp AT1để tiến hành kiểm tra, khắc phục, an toàn hệ thống trông chờ hết vào máy biến áp AT2 còn lại. Oái ăm thay, đúng 1 tuần sau, đúng vào sáng sớm ngày 21/5, cỗ máy này cũng lăn đùng ra “chết”, không hẹn mà gặp cùng một hiện tượng bất ngờ xì dầu ra ngoài.

Sự cố làm mất điện máy biến áp AT2 Hiệp Hòa, đang nhận điện từ hệ thống 500 kV với công suất cũng gần 700 MW. Tiếp tục làm nhảy hàng loạt đường dây trọng yếu ở phía Bắc và tụt giảm nghiêm trọng điện áp khu vực. 

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) dường như muốn dấu nhẹm sự cố này, nhưng điều mà người dân không thể không thấy đó là tình trạng mất điện tại các trạm 110 kV qua các đường dây Hòa Bình – Việt Trì của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lao Cai, Sơn La, Lai Châu, mà tổng công suất mất có thể lên tới gần 600 MW. Nguy hiểm hơn, 2 vụ “xì dầu” vô tiến khoáng hậu trong lịch sử ngành điện này còn đe dọa tới khả năng đảm bảo cấp điện cho khu vực Thủ đô Hà Nội.

Theo nguồn tin của chúng tôi, cho đến nay cả 2 sự cố này vẫn chưa được khắc phục mặc dù ngành điện đang loay hoay đấu gộp 2 trạm AT1 và AT2 để “chữa cháy”.

Trao đổi với phóng viên về vụ việc này, các chuyên gia lâu năm trong ngành điện tỏ ra hết sức quan ngại. Lý do: thứ nhất, vì đây có thể nói là lần đầu tiên sau khi vận hành đường dây 500 kV Bắc – Nam lại xẩy ra sự cố liên tiếp đối với một trạm biến áp chiến lược; thứ hai, cả hai máy biến áp này đều là hàng Trung Quốc và gặp sự cố liền ngay sau khi hết hạn bảo hành.

Lần ngược lại thời gian. Do nhu cầu phát triển kinh tế vùng kinh tế trọng điểm Đông Bắc bộ, năm 2007 Chính phủ đã phê duyệt dự áp lắp đặt trạm 500 kV Hiệp Hòa. Trạm này có nhiệm vụ cung cấp điện cho khu vực Đông Bắc, nhằm mục tiêu đảm bảo nguồn năng lượng chiến lược, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng. Sauk hi đi vào vận nhành, trạm lấy điện từ Nhà máy  Thủy điện Sơn La và của cả hệ thống điện quốc gia. 

Vào cuối năm 2011, trạm được lắp đặt 2 máy biến áp 500/220/35 kV với công suất 900 MW mỗi máy. Như vậy, trạm Hiệp Hòa có công suất là 1.800 MW, lớn nhất khu vực Đông Dương và gần bằng công suất của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình (1.920 MW). Công trình chiến lược như vậy, nhưng nhà cung cấp lại là một cái tên đến từ Trung Quốc: hãng XIAN XD.

Tháng 3 năm 2012, trạm Hiệp Hòa chính thức đóng điện. Cho đến trước khi sự cố “xì dầu” xẩy ra, 2 máy biến áp này chỉ vận hành khoảng 60 – 70% công suất định mức. Và như một lời nguyền, vừa hết hạn bảo hành thì cả hai cùng hư hỏng nặng lần lượt chỉ trong vòng đúng 1 tuần. 

Khi AT1 bị hư hỏng, ngành điện phải cắt đột xuất gần 700 MW. Máy AT2 hư hỏng tiếp, ngành điện lại phải cắt thêm gần 600 MW. Hậu quả là không biết đã có bao nhiêu nhà máy, công xưởng phải ngừng sản xuất. Thiệt hại khó có thể đong đếm hết. 

“Chúng tôi đồng ý rằng trên hệ thống điện có xác suất rủi ro nhưng không phải cả 2 máy biến áp cùng xảy ra gần như đồng thời” – một chuyên gia lâu năm trong ngành điện bình luận. “Độ tin cậy của hệ thống điện ở đâu? Chưa nói đến khi mất điện tại trạm 500 kV Hiệp Hòa, hệ thống phải vận hành quá tải làm cho các đường dây khác, các trạm khác quá tải” – vị này nêu câu hỏi. 

Theo tài liệu của Pháp luật Việt Nam, các tiêu chuẩn đặt ra của ngành điện đều là tiêu chuẩn của châu Âu hoặc tiêu chuẩn Mỹ. Thực tế thì hầu hết các máy biến áp được lắp đặt trên hệ thống điện hiện nay trên 90% cũng là hàng châu Âu với các nhà sản xuất có uy tín. Thực nghiệm vận hành mấy chục năm qua đều cho thấy rất đảm bảo an toàn, tin cậy. Không hiểu tại sao, thời gian gần đây EVN ồ ạt mua hàng Trung Quốc. 

“Chúng  ta mua hàng của châu Âu, giá có thể lên tới 100 trăm tỷ đồng nhưng dùng được 30 năm, trong khi chọn mua Trung Quốc, chỉ 60 tỷ đồng nhưng tuổi thọ của nó chỉ được 2 năm. Quan chức ngành điện giải thích ra sao về bái toán kinh tế này” – vị chuyên gia nêu ý kiến. 

Như Pháp luật Việt Nam đã đưa trong bài viết “Ham chọn thầu giá rẻ, dễ mắc bẫy Trung Quốc” và bài “Bài học đau từ đấu thầu với Trung Quốc” gần đây, thực trạng khiến giới quan sát không thể cắt nghĩa được là vì sao gần đây EVN lại ham xài đồ Trung Quốc đến vậy. 

Con số thống kê do Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội công bố trước đây xác thực, tính đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC của Việt Nam do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm, trong đó chủ yếu là dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim. Còn theo khảo sát của Viện Nghiên cứu cơ khí, Việt Nam hiện có 20 dự án nhiệt điện thì có 15 công trình được phía Trung Quốc làm tổng thầu.