I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Sài Gòn đầu tư có bài: Nợ xấu bất động sản… bít đầu ra. Bài báo phản ánh: Dự thảo Thông tư hướng dẫn việc bán đấu giá tài sản bảo đảm của các Công ty quản lý tài sản trực thuộc ngân hàng do Bộ Tư pháp soạn thảo đang gây sự chú ý, bởi nhiều quy định mới được đưa vào có thể gây khó khăn, thậm chí cản trở việc xử lý tài sản bảo đảm là đất đai, bất động sản. Trong khi loại tài sản bảo đảm này hiện đã gặp không ít khó khăn để xử lý.
Dự thảo quy định tài sản có giá trị 10 tỷ đồng trở lên phải đem ra đấu giá. Công ty quản lý tài sản phải thuê đơn vị chuyên nghiệp tổ chức bán đấu giá tài sản; phải có đấu giá viên có bằng cấp điều hành cuộc đấu giá; và sau 2 lần tổ chức đấu giá thất bại, mới được thực hiện các biện pháp bán tài sản đảm bảo khác…
Tuy nhiên, chính những nội dung trên cũng là những vấn đề gây ra nhiều ý kiến tranh cãi và khiến Ban soạn thảo băn khoăn cần xin ý kiến chỉ đạo trong tờ trình về dự thảo Thông tư gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường.
Cụ thể, quy định hiện hành không đề cập về giá trị để xác định trách nhiệm thực hiện việc bán đấu giá. Hơn nữa, thực tế cho thấy, cần giao quyền chủ động cho Công ty Quản lý tài sản trong việc lựa chọn phương thức bán đấu giá qua tổ chức chuyên nghiệp hoặc Công ty trực tiếp thực hiện. Do vậy, Dự thảo Thông tư không nên đề cập vấn đề này.
Vấn đề gây tranh cãi thứ hai là lựa chọn tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện bán đấu giá. Có nhất thiết phải đưa ra các tiêu chí để Công ty Quản lý tài sản lựa chọn tổ chức bán đấu giá hay không. Bởi trên thực tế, đã là tài sản cần xử lý, doanh nghiệp đều muốn thu hồi vốn tối đa và họ muốn chủ động lựa chọn tổ chức bán đấu giá, nhằm tránh kéo dài thời gian xử lý tài sản.
Việc bắt buộc người điều hành cuộc bán đấu giá phải là đấu giá viên có bằng cấp cũng nhận được nhiều ý kiến phản đối, bởi khi Công ty trực tiếp thực hiện việc bán đấu giá, chỉ cần chủ tịch hội đồng bán đấu giá hoặc người có năng lực điều hành theo sự phân công của chủ tịch hội đồng. Việc bán đấu giá rút cuộc chỉ nhằm mục đích công bằng và đạt được giá trị cao nhất cho tài sản đem bán, trong khi trình tự đã có sẵn trong quy định, thì việc hạn chế người điều hành là không cần thiết.
Tài sản bảo đảm ngân hàng nhận được từ khách hàng gồm nhiều loại, trong đó, bất động sản là chủ yếu. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, có đến 60% dư nợ tại các ngân hàng được bảo đảm bằng bất động sản. Tài sản bảo đảm bằng bất động sản thông thường bao gồm nhà đất, bất động sản dự án. Xử lý tài sản đảm bảo, nhất là bất động sản luôn là vấn đề khó khăn của các tổ chức tín dụng, bởi vậy, đã có rất nhiều cuộc hội thảo được tổ chức nhằm lấy ý kiến đóng góp tháo gỡ các nút thắt về vấn đề này. Tuy nhiên, thực tế vẫn nảy sinh vô số tình huống khiến người trong cuộc khó xử.
Không ít doanh nghiệp thế chấp dự án đang triển khai làm tài sản bảo đảm để vay vốn ngân hàng hoặc huy động vốn qua trái phiếu. Nay nợ không trả được, một dự án bất động sản lại được thế chấp ở mấy ngân hàng khác nhau. Tài sản có thể đem ra đấu giá, nhưng các chủ nợ không thống nhất được phương án xử lý, nợ vẫn nằm đó, trong khi bất động sản nằm phơi gió phơi mưa.
Đại diện Ngân hàng Agribank từng kêu trời tại một số của hội thảo, vì Ngân hàng phát mãi nhà xưởng, đất đai của khách hàng theo hợp đồng hai bên ký kết, song chính quyền địa phương nhất định phản đối, bởi doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về đất đai tại địa phương, muốn chuyển chủ phải có ý kiến của cơ quan này.
Xử lý tài sản bảo đảm là các dự án đang triển khai dở dang, chủ đầu tư đã bán sản phẩm và thu một phần tiền của khách hàng cũng là vấn đề không ít ngân hàng đau đầu. Đơn cử như trường hợp các dự án của Công ty Megastar tại Hà Nội, hiện không một chủ nợ nào dám ôm vào, bởi việc xử lý hậu quả với những khách hàng công ty này đã bán nhà trên giấy sẽ vô cùng phức tạp.
Với tài sản đảm bảo là bất động sản thuộc quyền sở hữu của các cá nhân, nhiều ngân hàng đang sốt ruột như ngồi trên lửa. Một dạng thường gặp nhiều nhất là người đứng tên trên tài sản đảm bảo chỉ có quyền sở hữu một phần bất động sản, nay muốn bán tài sản đó phải có sự đồng ý của các chủ sở hữu hợp pháp khác như trường hợp vợ hoặc chồng mới mất, các con được quyền đồng sở hữu 1/2 căn nhà. Không ít ngân hàng đã buộc phải trích lập dự phòng ở mức cao cho khoản nợ có tài sản bảo đảm là nhà đất thuộc sở hữu cá nhân, nhưng vài năm không thể xử lý được tài sản do chủ tài sản phát sinh kiện cáo, tranh chấp với các hộ liền kề.
Rõ ràng, trong khi các ngân hàng và cả cơ quan quản lý đang tập trung xử lý nợ xấu, việc đưa ra nhiều quy định không thuận tiện cho việc xử lý tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản của các tổ chức tín dụng, sẽ càng làm cho cục máu đông này có nguy cơ phình to.
2. Báo Tuổi trẻ online có bài: Vụ neo xe cá: Thanh tra công an hoãn cuộc đối thoại. Bài báo phản ánh: Sáng 13-5, tài xế Lương Hoàng Mỹ và chủ xe Nguyễn Văn Tho đã có mặt tại phòng tiếp dân của Thanh tra Công an tỉnh Kiên Giang để đối thoại về việc khiếu nại vụ neo xe cá đòi bồi thường thiệt hại.
Luật sư Lê Văn Đức (văn phòng luật sư Hà Hải và cộng sự, TP.HCM) được chủ xe và tài xế mời tư vấn và bảo vệ quyền lợi.
Ba người cho biết tại đây, luật sư Đức xuất trình thẻ hành nghề và được ông Mỹ, ông Tho xác nhận mời đến để tham dự buổi đối thoại nhưng thượng tá Nguyễn Chí Nguyện - phó chánh thanh tra - cùng các cán bộ có mặt từ chối không cho tham dự. Phía thanh tra cho rằng ông Đức không có giấy phân công trợ giúp pháp lý và giấy ủy quyền nên không được phép tham dự. Luật sư Đức giải thích ông tham dự theo đề nghị trực tiếp của người khiếu nại là hoàn toàn đúng theo điều 16 Luật khiếu nại về quyền và nghĩa vụ của luật sư. Tuy nhiên, Thanh tra Công an tỉnh Kiên Giang vẫn không chấp nhận. Do ông Mỹ và ông Tho không đồng ý đối thoại nếu không có mặt luật sư nên cuộc đối thoại không diễn ra.
3. Báo Đất Việt có bài: Trung Quốc giúp nuôi gián đất: Đừng bàn tới... bồi thường! Bài báo phản ánh: Phòng Đăng ký Kinh doanh, Sở KHĐT Bắc Ninh bảo vệ quan điểm việc đăng ký ngành nghề kinh doanh con gián đất là đúng, đồng nghĩa sẽ không bồi thường.
Sáng14/5, công ty Hoàng Hiệp (Lương Tài, Bắc Ninh) - doanh nghiệp đã được Phòng Đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Ninh) cấp giấy chứng nhận được phép nuôi gián đất sau đó bị buộc phải tiêu hủy theo quyết định của Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn và UBND tỉnh Bắc Ninh đã có cuộc gặp với Phòng Đăng ký kinh doanh sau hơn 2 tuần gửi đơn kiện đơn vị này ra Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
Luật sư Phạm Đức Thảo - Công ty Luật TNHH Á Châu Việt, luật sư đại diện cho công ty Hoàng Hiệp cho biết, Phòng đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch Đầu tư Bắc Ninh) vẫn bảo vệ quan điểm là việc đăng ký ngành nghề kinh doanh con gián đất cho công ty Hoàng Hiệp là đúng, là có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, phía công ty Hoàng Hiệp cũng đưa ra quan điểm Phòng Đăng ký kinh doanh cấp phép là sai và viện dẫn những căn cứ pháp lý.
Luật sư Phạm Đức Thảo cũng thông tin, phương án bồi thường có được nhắc đến tuy nhiên Phòng Đăng ký Kinh doanh nói việc bồi thường phải có cơ sở pháp lý và phải chứng minh việc bồi thường là hợp pháp.
"Vì Phòng Đăng ký kinh doanh đang cho rằng họ không sai nên việc bồi thường không được bàn đến nhiều", luật sư Phạm Đức Thảo nói.
Cũng theo luật sư Phạm Đức Thảo, việc khởi kiện lên tòa, công ty Hoàng Hiệp đã nộp đơn nhưng đây mới chỉ là bước đầu của giai đoạn tố tụng. Trong quá trình nộp đơn và chuẩn bị thụ lý thì tòa án có thể hướng doanh nghiệp và cơ quan nhà nước hay nói đúng hơn là các đơn sự đến cách giải quyết ổn thỏa. "Nguyên tắc sau khi nộp, thụ lý đơn, cách giải quyết của tòa vẫn là thương lượng, đàm phán trước khi sử dụng căn cứ pháp lý để phán đoán tiếp", luật sư Phạm Đức Thảo nói.
Những bằng chứng về sự thiệt hại, vẫn được đưa ra cho Phòng Đăng ký kinh doanh. Tại đây, ông Phạm Khắc Nam - Trưởng Phòng Đăng ký kinh doanh cũng cho biết, sẵn sàng hợp tác để tìm đến giải pháp phù hợp nhất.
Sau cuộc gặp ngày 14/5, Phòng Đăng ký Kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Ninh) và công ty Hoàng Hiệp cũng đưa phương án về lần gặp tới, tuy nhiên trong 1-2 tuần tới sẽ không làm được vì bên Sở có công việc riêng.
Trước đó, vào ngày 28/4, Công ty TNHH Cơ khí Thương mại Hoàng Hiệp đã chính thức gửi đơn kiện Phòng Đăng ký kinh doanh mà trực tiếp là trưởng phòng Phạm Khắc Nam ra Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
Trong đơn kiện ghi cụ thể, Công ty Hoàng Hiệp khởi kiện Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở KHĐT Bắc Ninh về "hành vi cấp phép ngành nghề sai quy định gây thiệt hại nghiêm trọng".
Theo nội dung đơn, Công ty Hoàng Hiệp đề nghị Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Ninh tuyên, việc cấp phép cho nuôi con gián đất của phòng Đăng ký kinh doanh là trái pháp luật; Phòng Đăng ký kinh doanh phải bồi thường toàn bộ số tiền đầu tư cho việc gây nuôi con gián đất là 4.341.165.000 đồng.
Ông Phạm Đức Thảo cũng từng cho biết, về nguyên tắc, thiệt hại thực tế đến bao nhiêu sẽ phải bồi thường đến mức thiệt hại bấy nhiêu. Tuy nhiên, thực tế các bên có thể thương lượng để đi đến mức bồi thường hợp lý
Trước đó, sáng 20/3, ông Ngô Tân Phượng – Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bắc Ninh thừa nhận, vào khoảng tháng 9, tháng 10/2013, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã cấp phép cho doanh nghiệp nhân nuôi gián đất.
“Thực ra trong hướng dẫn doanh nghiệp được phép đăng ký côn trùng nhưng không chi tiết côn trùng nào được, côn trùng nào không nên anh em nghĩ vẫn có thể cấp được nhưng sau khi thấy ý kiến chỗ nọ chỗ kia không ổn nên cũng thu lại”, ông Phương nói.
Theo ông Phượng, khoảng tháng 9, tháng 10/2013, có 2 doanh nghiệp nuôi gián đất và trong đăng ký kinh doanh có khoảng 9-10 nội dung, trong đó có nội dung cấp nuôi gián đất, đến đầu năm 2014, khi có một vài thông tin lình xình, Sở đã trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp.
“Có thể nói, anh em không hiểu hết về côn trùng, không phải chuyên ngành nên không hiểu hết được, mỗi người một nghề và bản thân Sở Nông nghiệp cũng không trả lời được mà phải có ý kiến của Bộ Nông nghiệp mới xử lý được”, ông Phượng nói.
Mới đây, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư Bắc Ninh cho biết, tất cả mọi việc đều do Phòng đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm.
4. Báo Đời sống và Pháp luật online có bài: Kiện đòi bồi thường thiệt hại: Chuyện con voi, cái kiến? Bài báo phản ánh: Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước công nhận quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại. Tuy nhiên, để đòi được quyền lợi cho mình thì người bị thiệt hại phải mất rất nhiều thời gian.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc bồi thường thiệt hại chậm trễ, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do tranh chấp giữa thẩm quyền bồi thường và trách nhiệm bồi thường.
Theo Cục Bồi thường Nhà nước (Bộ Tư pháp), từ khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực (từ ngày 1/1/2010) đến ngày 30/7/2013, ngân sách Nhà nước đã chi trả bồi thường cho người bị thiệt hại trên 28,2 tỷ đồng.
Tuy nhiên, số tiền mà cán bộ, công chức hoàn trả Nhà nước do việc thực thi công vụ sai chỉ vài chục triệu đồng. Thậm chí có vụ trong lĩnh vực tố tụng, Nhà nước phải bồi thường hàng tỷ, song thu được một khoản tiền hoàn trả khoảng vài chục triệu đồng.
Mới đây nhất vào tháng 8/2013, cơ quan tố tụng buộc phải bồi thường cho người bị oan sai số tiền lớn nhất từ trước đến nay. “Khổ chủ” trong vụ án này là ông Lương Ngọc Phi, ở Thái Bình một doanh nhân đang làm ăn phát đạt bỗng bị sa vào vòng lao lý.
Trở lại vụ án ông Lương Ngọc Phi, vào tháng 4/1998, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình (CSĐT) ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can với ông Lương Ngọc Phi, Giám đốc công ty khai thác chế biến nông hải sản xuất khẩu Hoà Bình có trụ sở tại TP.Thái Bình, về hành vi “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 1/5/1998 ông Phi bị bắt giam, vài tháng sau, toàn bộ tài sản của ông Phi và công ty đã được cơ quan CSĐT, Công an tỉnh phát mại với giá hết sức rẻ mạt.
Ngày 29/9/1999, TAND tỉnh Thái Bình đã đưa vụ án ra xét xử và tuyên phạt ông Lương Ngọc Phi 14 năm tù về tội “lạm dụng tín nhiệm...” và 3 năm tù về tội “trốn thuế”. Tổng hợp hình phạt, ông Phi phải nhận 17 năm tù.
Ông Phi kháng án, ngày 25/4/2000, toà phúc thẩm, TAND tối cao xét xử phúc thẩm và tuyên: “Lương Ngọc Phi không phạm tội “lạm dụng tín nhiệm”. Huỷ phần “trốn thuế” của bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại.
Sau khi điều tra lại, ngày 12/12/2003, Viện KSND tỉnh Thái Bình ra quyết định đình chỉ điều tra và trả tự do cho ông Lương Ngọc Phi.
Từ khi bị bắt giam đến khi được trả tự do, ông Phi đã bị giam oan 35 tháng. Ngày 13/6/2006, ông Phi mới được TAND tỉnh công khai xin lỗi tại quê nhà. Ngay sau khi được minh oan, ông Phi đã tiến hành đòi bồi thường. Trong hành trình đòi bồi thường của mình, ông Phi đề nghị tách vụ kiện thành hai vụ riêng và đã được TAND TP thái Bình chấp thuận.
Vụ thứ nhất được Tòa xét xử vào ngày 21/7/2009, tuyên buộc TAND tỉnh phải bồi thường cho ông Phi 660 triệu đồng về các khoản thiệt hại về tổn thất tinh thần và thu nhập thực tế bị mất sau 35 tháng bị giam oan.
Vụ thứ hai được TAND TP.Thái Bình mở phiên xét xử ngày 26/8/2013, tuyên buộc TAND tỉnh Thái Bình phải bồi thường cho ông Phi số tiền 21,4 tỷ đồng vì đã ra bản án oan, gây thiệt hại về tài sản cho ông Lương Ngọc Phi.
Nhận định về vụ án của ông Lương Ngọc Phi, nhiều chuyên gia cho rằng đây là vụ án oan lớn cả về tính chất vụ việc ở thời điểm ông Phi bị bắt lẫn sự phức tạp, gian truân suốt gần một thập kỷ đi đòi bồi thường oan sai.
Tuy nhiên, đáng nói hơn cả, số tiền TAND tỉnh phải bồi thường cho ông Phi là số tiền không hề nhỏ và là tiền ngân sách phải “gánh” cho lỗi của một số người tiến hành tố tụng gây ra cả chục năm trước đây, trong khi số tiền mà những cán bộ, công chức trực tiếp gây oan sai phải hoàn trả khá khiêm tốn so với mức Nhà nước bỏ ra để bồi thường.
Một vụ án oan “động trời” không kém mà tới đây các cơ quan chức năng sẽ phải giải quyết khi người bị oan sai có đơn yêu cầu là vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Mức bồi thường chưa được xác định nhưng các cán bộ gây oan sai thì người đã chết, người về hưu, người chuyển công tác. Vì vậy, việc hoàn trả sẽ không đơn giản, nếu không muốn nói là chẳng khác nào “mò kim đáy bể”.
Trao đổi với ông Nguyễn Mạnh Hiền, vụ Trưởng Vụ kiểm sát điều tra án kinh tế và chức vụ, VKSND Tối cao về vấn đề trên, ông Hiền cho biết: Nghị định của Chính phủ đã quy định rõ trách nhiệm bổi thường đối với người bị oan sai, nhưng trên thực tế do nhiều vụ án hồ sơ bị trả đi trả lại, nên khó phân định rạch ròi trách nhiệm bồi thường thuộc đơn vị nào.
Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết bồi thường thiệt hại bị chậm trễ.
Thứ nhất do người được bồi thường không nắm rõ quy định của pháp luật nên họ có những đòi hỏi, yêu sách thái quá. Ví dụ, theo quy định pháp luật họ được bồi thường 1 tỷ, thế nhưng họ đòi tới 10 tỷ, dẫn đến quá trình thương lượng giữa người yêu cầu bồi thường và cơ quan có trách nhiệm bồi thường bị kéo dài. Thậm chí có vụ phải giải quyết bằng vụ án dân sự.
Thứ hai, người được bồi thường phải có đầy đủ hồ sơ liên quan đền việc yêu cầu đòi bồi thường như: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc người đó bị oan sai, các chứng từ liên quan chứng minh được mức thu nhập thực tế và thiệt hại do việc oan sai gây nên.
Thứ ba, tranh chấp về thẩm quyền bồi thường, như đã phân tích ở trên, nếu trong giai đoạn điều tra VKS phê chuẩn lệnh bắt gây ra oan sai thì VKS phảỉ chịu trách nhiệm bồi thường.
Trường hợp ông Nguyễn Thanh Chấn bị TAND tối cao xét xử phúc thẩm cuối cùng gây ra oan sai cho ông Chấn. Như vậy TAND tối cao phải có trách nhiệm bồi thường cho ông Chấn.
5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Ép cầm xe trả nợ, tội gì? Bài báo phản ánh: Ba sinh viên ép bạn học cầm xe máy trả nợ, bị truy tố tội cướp tài sản. Trước đây có vụ tương tự, tòa xử tội cưỡng đoạt tài sản…
Sắp tới, TAND thị xã Dĩ An (Bình Dương) sẽ đưa ra xét xử vụ ba sinh viên ép bạn học cầm xe trả nợ.
Theo hồ sơ, Võ Quốc Hùng là sinh viên năm tư Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM. Tháng 9-2013, Hùng và bạn nhờ Trần Văn Tiến (học cùng trường) thi tốt nghiệp giùm môn Anh văn. Tiến đồng ý, ra giá 10 triệu đồng. Hùng và bạn đưa trước 6 triệu đồng, hẹn có kết quả đậu tốt nghiệp sẽ trả hết.
Đến ngày thi, Tiến nhờ người vào thi hộ cho Hùng và bạn Hùng. Sự việc bị phát hiện, Hùng và bạn bị đình chỉ mỗi người một năm học. Tiến bèn hứa sẽ bồi thường 30 triệu đồng để Hùng và bạn không khai ra việc Tiến nhờ người thi hộ. Cả hai đồng ý.
Sau đó, Hùng nhiều lần tìm Tiến đòi tiền nhưng Tiến không trả. Ngày 17-12-2013, Hùng kể cho Nguyễn Trung Hiếu (học cùng trường) nghe, nhờ Hiếu tìm người đòi nợ giúp. Hiếu rủ Lê Văn Đạo (sinh viên Trường ĐH Thể dục Thể thao TP.HCM) đi đòi nợ.
Hùng, Hiếu, Đạo đến trường tìm Tiến, yêu cầu Tiến đến quán cà phê nói chuyện. Tại quán cà phê, Tiến nói không có tiền trả ngay thì bị Đạo đạp vào mặt. Hiếu thì lệnh cho Tiến “trong vòng 15 phút phải mượn được 15 triệu đồng, nếu không gọi bạn đến nhận xác”. Nghe vậy, Tiến nói sẽ mang xe đi cầm lấy tiền trả. Do xe của Tiến đã cũ nên Tiến gọi cho bạn học cùng trường mượn xe đi cầm nhưng không được. Nghe vậy, Hiếu giật điện thoại của Tiến và nói: “Mày không mang xe ra thì không nhìn thấy mặt thằng Tiến nữa”.
Lo sợ, bạn Tiến nhờ người mang chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius đến cho nhóm của Hùng. Không phải chính chủ nên nhóm Hùng không cầm xe được. Hùng bèn chở Tiến đến trường tìm chủ xe rồi sau đó chở chủ xe đi cầm xe. Xe chỉ cầm được 7 triệu đồng nên Hiếu yêu cầu Tiến viết giấy vay nợ 23 triệu đồng. Tiến không chịu thì Đạo dọa đánh nên Tiến đồng ý viết giấy nợ.
Số tiền cầm xe, Hiếu đưa cho Hùng 2 triệu đồng, hứa sẽ cho Đạo 1 triệu đồng, còn lại Hiếu giữ. Từ tố giác của Tiến, Hùng và Hiếu bị bắt ngay trong ngày, còn Đạo thì đến ngày 6-3-2014 ra đầu thú.
Hùng, Hiếu, Đạo đã bị khởi tố, truy tố về tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS). Xung quanh vụ án này có quan điểm cho rằng phải xử lý Hùng và đồng phạm về tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135 BLHS) mới đúng.
Luật sư Nguyễn Văn Hồng (Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích: Địa điểm giải quyết nợ nần là quán cà phê (nơi đông người) nên việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực của các bị can có phần hạn chế. Trong khoảng thời gian bị gây áp lực, nạn nhân không bị khống chế như trói, giam, dùng hung khí đe dọa… Ngoài ra, nạn nhân còn gọi cho bạn mượn xe, được Hùng chở đến trường tìm bạn và người bạn đã đem xe đi cầm lấy tiền trả. Do đó, không thể nói nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được, ý chí chống cự bị tê liệt hoàn toàn, không tìm được giải pháp khác để thoát khỏi tình huống nguy hiểm. Nạn nhân và bạn hoàn toàn có đủ thời gian, điều kiện để suy nghĩ, cân nhắc, tiến tới một hành động có lợi hơn như chống cự (khi tương quan lực lượng giữa hai bên không đáng kể), tri hô… nhưng không làm mà lại chấp nhận đem xe đi cầm rồi giao tiền cho các bị can.
Như vậy, theo luật sư Hồng, trong vụ này xử lý các bị can về tội cưỡng đoạt tài sản sẽ phù hợp hơn.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Người lao động có bài: Hai “quả đấm thép” của Cảnh sát biển sẽ tiếp cận giàn khoan 981. Bài báo phản ánh: Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam đã quyết định sẽ để “quả đấm thép” của lực lượng chấp pháp trên biển là các tàu CSB 8003 và 8001 đảm nhận nhiệm vụ tiếp cận giàn khoan Hải dương 981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép trong vùng biển Việt Nam.
2. Báo Vietnam.net có bài: Philippines tố TQ xây đường băng ở đảo tranh chấp. Bài báo phản ánh: Philippines hôm thứ Tư (14/5) đã cáo buộc Trung Quốc khai hoang đất trên một dải đá ngầm trong quần đảo tranh chấp ở Biển Đông, có vẻ như để xây dựng một đường băng, chỉ một ngày sau khi Washington miêu tả hành động của Bắc Kinh trong khu vực là "khiêu khích".
Trung Quốc xây dựng trên một trong số 8 dải đá ngầm và các hòn đảo mà họ chiếm đóng tại quần đảo tranh chấp, đồng thời sẽ đánh dấu một sự leo thang đáng kể trong căng thẳng có liên quan tới một số quốc gia trong khu vực, hãng thông tấn Reuters cho biết.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose cho biết Trung Quốc đã chuyển đất và các vật liệu tới dải đá ngầm thuộc quần đảo tranh chấp trong vài tuần gần đây. Ông nói rằng Trung Quốc đã khai hoang trong sự vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC).
"Họ có vẻ như sẽ xây dựng một đường băng," Reuters trích lời ông Jose.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Philippines cho biết bằng chứng về hoạt động của Trung Quốc trên dải đá ngầm đã được nhìn thấy qua các bức ảnh chụp từ trên cao của Hải quân Philippines. Philippines và Đài Loan cũng đã có đường băng trong khu vực.
Bộ Ngoại giao Philippines đã kháng nghị với Trung Quốc và đưa vấn đề này ra trước Hội nghị Thượng đỉnh Các quốc gia Đông Nam Á được tổ chức ở Myanmar vào cuối tuần trước, ông Jose cho biết thêm.
Căng thẳng trên Biển Đông đã tăng cao sau khi Trung Quốc đưa một giàn khoan dầu lớn tới một khu vực mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Vào hôm thứ Ba, trong một cuộc điện đàm với Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã chỉ trích việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu và vô số tàu vào vùng biển của Việt Nam là "khiêu khích", một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Mỹ xác nhận.
3. Báo Khám phá.vn có bài: Đốt nhà máy Trung Quốc: Bất lợi cho Việt Nam. Bài báo phản ánh: “Hành động đốt nhà máy Trung Quốc có thể bị đối phương vin cớ để gây bất lợi cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam”, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội nói.
Chiều 14/5, 400 đối tượng tham gia đập phá, đốt nhà máy, xí nghiệp của Trung Quốc, Đài Loan,... tại Bình Dương đã bị bắt giữ. Nhiều người dân tự in, phân phát nội dung kêu gọi mọi người “không tham gia biểu tình tự phát, không nghe bọn xấu kích động, đập phá. Mọi hành động lợi dụng biểu tình để đập phá tài sản, gây sự, xô xát lúc này đều nằm trong âm mưu kích động của Trung Quốc”.
Hàng ngàn chiến sỹ cảnh sát của tỉnh Bình Dương và của Bộ Công an đã không ngủ, thậm chí nhiều chiến sỹ không ăn để bảo vệ sự bình yên cho doanh nghiệp và người dân.
Ông Đặng Như Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, người Việt “rất không nên” có hành động đập phá nhà máy, xí nghiệp của doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam.
Bởi các doanh nghiệp Trung Quốc là nhà đầu tư phát triển kinh tế, họ không phải là cơ quan đại diện của Trung Quốc. Các doanh nghiệp sang Việt Nam làm ăn, cũng không có liên quan gì đến chủ trương xâm phạm lãnh hải của Việt Nam.
Họ cũng yêu hòa bình, có khi trong lòng phản đối chủ trương của lãnh đạo đất nước họ nhưng không dám nói ra vì sợ bị trừng phạt.
Ông Lợi cho rằng, nguyên nhân một số hành động quá khích là do nhận thức của người tham gia tuần hành chưa đúng, chưa hiểu biết. Bên cạnh đó, có kẻ xấu đứng đằng sau xúi giục công nhân. Đó là hành động rất không nên, là hành vi vi phạm pháp luật, phản tác dụng yêu nước. Hành động đập phá nhà máy cũng làm xấu hình ảnh đất nước và con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Đồng thời, có thể bị đối phương vin cớ vào đó để gây bất lợi cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam.
Do vậy, người dân có thể bày tỏ ý kiến bằng cách tuần hành văn minh, lịch sự, ôn hòa. Nhất quyết không được để xảy ra hàn
Tiến sĩ Xã hội học Trịnh Hòa Bình cho biết, phản ứng của người dân trước sự ngang ngược của Trung Quốc khi đặt giàn khoan trái phép là phản ứng tự nhiên, không có gì sai trái.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Bình, người dân tổ chức những cuộc tấn công các doanh nghiệp, nhà máy của Trung Quốc là thể hiện sự quá khích.
Ông Bình cho rằng, nguyên nhân là vì sự bột phát của một nhóm người, do tâm lý đám đông và không loại trừ có bàn tay phá rối của bọn xấu, kẻ địch. Đó là những người có quan điểm chính trị khác, thậm chí trong đó có thể có cả những người thân Trung Quốc muốn nhân cơ hội này đẩy sự việc lên mức nghiêm trọng không cứu vãn được.
4. Báo Lao động có bài: Trung Quốc gài bẫy để tạo chứng cứ. Bài báo phản ánh: Phía Trung Quốc thay đổi chiến thuật, quyết liệt tìm mọi cách gài bẫy để quay phim, chụp ảnh, hòng lu loa vu khống Việt Nam tấn công tàu của Trung Quốc. Tuy nhiên, biết trước được âm mưu này, các tàu chấp pháp của Việt Nam đã chủ động tránh tình huống va chạm, làm thất bại âm mưu đê hèn này.
Ngày 14.5, phía Trung Quốc thay đổi chiến thuật, quyết liệt tìm mọi cách gài bẫy để quay phim, chụp ảnh, hòng lu loa vu khống Việt Nam tấn công tàu của Trung Quốc. Tuy nhiên, biết trước được âm mưu này, các tàu chấp pháp của Việt Nam đã chủ động tránh tình huống va chạm, làm thất bại âm mưu đê hèn này.
7h sáng 14.5, các tàu 4033, 4032, 4013 cùng các tàu 2015, 2016, 8003 của lực lượng chấp pháp Việt Nam chia làm hai biên đội, cương quyết tiếp tục đi vào vùng nước 5 hải lý tiến về phía giàn khoan Hải Dương 981 để thực hiện quyền chấp pháp của mình.
Bộ chỉ huy đã cảnh báo các tàu hết sức bình tĩnh, không manh động rơi vào bẫy của Trung Quốc. “Khi chúng tôi cùng các tàu kiểm ngư vào tọa độ 13,2 độ vĩ bắc, 111,3 độ kinh đông thì gặp rất nhiều tàu hải cảnh, hải giám của Trung Quốc. Lúc 7h30, nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc bám sát mạn tàu 4032.
Tại thời điểm 7h30, ở tọa độ 15,40 độ vĩ bắc, 111,05 độ kinh đông, tàu Trung Quốc xuất hiện dày đặc các mũi và cả hai bên cánh phải, cánh trái đoàn tàu của chúng tôi, trong đó có tàu hải cảnh mang số hiệu 3411 của Trung Quốc theo tàu chúng tôi từ chiều qua, vẫn tiếp tục bám sát đuôi. Tiếp theo đó, tàu 3411 của Trung Quốc đã hung hăng, lao vào tàu 4032 của cảnh sát biển Việt Nam. Tuy nhiên, tàu của ta đã chủ động phòng tránh.
Hơn nửa tiếng sau, tàu 3012 của Trung Quốc làm động tác giả tiến nhanh về phía tàu 2013 của Việt Nam, nhưng sau đó chuyển ngay hướng sau lao vào tàu 4032. Lúc này, từ các đài quan sát, các tàu của Việt Nam phát hiện trên các tàu của Trung Quốc đã mở bạt che, chĩa tất cả các họng súng và vòi rồng vào phía các tàu của Việt Nam, nên chúng ta hết sức cảnh giác.
Tiếp theo đó, 2 tàu 3411, 3101 của Trung Quốc tiến vào sau đuôi tàu 4033, tạo thế gọng kìm, hai bên hông và phía sau lưng chúng tôi. Lúc này, trên trời, máy bay chiến đấu của Trung Quốc liên tục quần thảo, tạo nên thế cực kỳ nóng, khiến tình hình rất căng thẳng. Tuy nhiên, các tàu cảnh sát biển Việt Nam vẫn kiên trì bám trụ vị trí, không ai bị thương.
Về gần trưa, một tàu hải cảnh của Trung Quốc đã lao thẳng và chặn ngang trước tàu 2013 của Việt Nam với ý đồ để tàu 2013 của Việt Nam đâm vào tàu Trung Quốc, tạo cớ vu khống Việt Nam tấn công tàu của Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu thâm độc này đã không qua mắt được lực lượng dày dạn kinh nghiệm của chúng ta và tàu 2013 của Việt Nam đã chủ động đi lùi, rẽ sang hướng khác để tránh tình huống đáng tiếc xảy ra”.
Ngay sau đó, tàu 4032 thông báo qua bộ đàm, tàu hải cảnh Trung Quốc mang biển hiệu 3012 chắn ngang mũi tàu 4033. Nhận định đây là âm mưu quyết tâm cài bẫy để tàu cảnh sát biển của Việt Nam đâm vào. Thuyền trưởng bình tĩnh cho tàu lùi máy bẻ lái sang hướng nam thoát khỏi sự va chạm trong gang tấc.
Cùng đi trên tàu có Yariagai - phóng viên Hãng thông tấn Kyodo (Nhật Bản). Mục kích toàn bộ thái độ của các tàu Trung Quốc, anh thốt lên: “Tôi rất là sốc! Họ quả là hung hăng, ngạo mạn. Thật là trăm nghe không bằng một thấy. Tôi đã đọc báo, nghe tin nhiều, nhưng thực sự không hình dung tàu Trung Quốc ứng xử thô bạo như thế trên thực địa".
Chiều, các tàu ta và Trung Quốc tiếp tục quần thảo từng đôi một. So với những ngày trước đây, các tàu Trung Quốc chỉ chú mục vào việc gài bẫy để tàu ta đâm va vào tàu họ, nhằm tạo dựng chứng cứ lu loa, chứ không manh động như trước.
Được biết, phía Trung Quốc đã biết hầu hết trên các tàu Việt Nam đều có phóng viên trong và ngoài nước đi cùng nên thái độ cũng bớt hung hăng, không dùng vòi rồng phun nước và đâm húc như trước.