I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tiền phong có bài: Nhiều cô gái Tây Nguyên kết hôn 'chui' với người Trung Quốc. Bài báo phản ánh: Ngày 12/5, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum cho biết, toàn tỉnh hiện có 6 trường hợp là phụ nữ địa phương (chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số) đã được giải quyết đăng ký kết hôn với người Trung Quốc.
Tuy vậy, tình trạng phụ nữ người dân tộc thiểu số chung sống với lao động quốc tịch Trung Quốc sang làm việc, sinh con nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam vẫn có.
Cơ quan chức năng tỉnh Kon Tum nhận định, 6 cặp vợ chồng Việt Nam - Trung Quốc được cấp giấy đăng ký kết hôn chỉ là con số quản lý trên giấy tờ. Thực tế có lẽ là nhiều hơn, đặc biệt là các huyện biên giới, vùng đặc biệt khó khăn, nơi có những công trình liên doanh làm thủy điện, khai thác khoáng sản với công ty Trung Quốc.
Trước tình trạng trên, UBND tỉnh Kon Tum đã ban hành công văn chỉ đạo các xã, thị trấn phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Kon Tum kiểm soát tình trạng hôn nhân trên địa bàn, đặc biệt là với những lao động là người Trung Quốc, nhằm đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ người dân tộc thiểu số.
2. Trang Sea Times có bài: Khởi tố điều tra viên, ai bồi thường cho ông Chấn? Bài báo phản ánh: “Ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự thì theo khoản 3 điều 300 BLHS thì chắc chắn cán bộ vi phạm phải bồi thường theo quy định của luật bồi thường Nhà nước" luật sư Nguyễn Hồng Thái chia sẻ.
Liên quan tới vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn tại Bắc Giang, sáng 9/5, Cơ quan điều tra Viện Kiểm nhân dân Tối cao đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với ông Trần Nhật Luật - Phó trưởng Công an huyện Việt Yên (Bắc Giang) và ông Đặng Thế Vinh - Trưởng phòng 10, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao về tội “Cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án”.
Sau khi thông tin này được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, đã có một số ý kiến băn khoăn rằng ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự với tội danh trên thì hai cán bộ này có phải bồi thường thiệt hại gì cho ông Nguyễn Thanh Chấn không?
Luật sư Nguyễn Hồng Thái, giám đốc công ty luật TNHH Đào và đồng nghiệp đã cho biết:
“Việc bắt giam 2 vị cán bộ này chỉ là mở đầu của việc xử lý vụ việc. Vụ án Nguyễn Thanh Chấn là vụ án nổi cộm và gây bất bình lớn trong dư luận xã hội và nó cũng thể hiện sự hạn chế trong nghành tư pháp của Việt Nam”.
Theo tôi, ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự thì theo khoản 3 điều 300 BLHS thì chắc chắn cán cán bộ vi phạm phải bồi thường theo Điều 26. Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự. Nghĩa vụ bồi thường gồm tất cả nhưng tổn hại thực tế mà gia đình ông Chấn gặp phải như: gia đình ông mất đi người lao động chính, cùng với đó, vợ ông cũng mắc bệnh và nhập viện. Được biết, ngoài những tổn thất về mặt kinh tế thì gia đình ông đã phải vay nợ khoảng 500 triệu đồng để chữa bệnh và chi phí kêu oan cho ông. Đó là chưa kể tới những tổn thương về tinh thần, danh dự và sức khỏe mà ông đã phải chịu đựng trong suốt 10 năm qua. Như vậy, Tòa sẽ có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Thanh Chấn, sau đó hai cán bộ này sẽ phải hoàn trả lại số tiền đó cho Tòa”, Luật sư Thái chia sẻ thêm.
Ngày 9/5, Cơ quan điều tra Viện Kiểm nhân dân Tối cao đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, đồng thời ra lệnh bắt tạm giam đối với 2 cán bộ trong vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn.
Theo đó, hai bị can trong vụ án này là Đặng Thế Vinh, Trưởng phòng 10, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang, là kiểm sát viên thụ lý chính vụ án oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn. Trần Nhật Luật (thượng tá, điều tra viên cao cấp) Phó Trưởng Công an huyện Việt Yên (Bắc Giang), nguyên điều tra viên thụ lý chính trong vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn. Cả hai bị can này đều bị khởi tố về tội “Cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án” theo điều 300 Bộ Luật hình sự.
3. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Mua nhà của bố, thành người bị hại của con. Bài báo phản ánh: Bỏ ra gần 5 tỷ đồng để mua nhà đất của ông bố, thế nhưng hơn hai năm sau, người nhận chuyển nhượng lại trở thành bị hại trong vụ án hình sự mà con gái của chủ đất là bị cáo. Chính vì cách xử lý vụ việc theo kiểu “hai gộp làm một” của TAND TP.Hà Nội mà người nhận chuyển nhượng nhà đất có nguy cơ mất tiền tỷ.
Thời gian qua, chị Đặng Thị Kim Hà (trú tại số 5, ngõ 79 phố Thái Thịnh, quận Đống Đa, Hà Nội) vẫn chưa hết bức xúc vì Bản án số 369/2013/HSST ngày 23/9/2013 của TAND TP.Hà Nội. Bản án này đã bất ngờ “lôi” chị vào danh sách những người bị hại trong vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” mà bị cáo là Nguyễn Thị Bằng An - kẻ phải nhận bản án chung thân với tội danh trên.
Trước đó, ngày 15/6/2011, chị Đặng Thị Kim Hà và chị Nguyễn Thị Kim Oanh cùng góp tiền 8,7 tỷ đồng để nhận chuyển nhượng ngôi nhà trên thửa đất rộng 230,9m2 tại tổ 47 phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy (Hà Nội) mà người đứng tên chủ sở hữu là ông Nguyễn Thi Sách (trú tại địa chỉ nêu trên). Thửa đất này được UBND quận Cầu Giấy cấp sổ đỏ cho ông Sách vào năm 2011. Việc chuyển nhượng, giao tiền được thể hiện tại Hợp đồng có chứng thực của Văn phòng Công chứng Long Biên (Hà Nội).
Điều bất ngờ là khi chị Hà, chị Oanh đi sang tên sổ đỏ (ngày 29/8/2011) thì được Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho biết: “Giấy CNQSDĐ đứng tên ông Sách là giả”. Tá hỏa vì bị lừa, hai chị vội viết đơn tố cáo và đơn khiếu kiện tới Công an và TAND quận Cầu Giấy về hành vì lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ông Sách.
Thế nhưng, điều mà cả chị Hà và chị Oanh không ngờ tới là họ bị cơ quan điều tra đưa tên mình vào danh sách “bị hại” trong một vụ án khác mà kẻ phạm tội lừa đảo không phải là ông Nguyễn Thi Sách mà là Nguyễn Thị Bằng An - con gái của ông này.
Diễn biến tiếp theo là ngày 23/9/2013, TAND TP.Hà Nội mở phiên sơ thẩm xét xử vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” đối với Nguyễn Thị Bằng An và đồng phạm. Trong vụ án này, An bị cơ quan điều tra kết luận có hành vi lừa đảo chiếm đoạt hơn 40 tỷ đồng và còn là đồng phạm trong việc làm giả 13 giấy CNQSDĐ. Ngạc nhiên hơn là ông Sách không hề được triệu tập trong vụ án này.
Bản án đã tuyên An phải chịu mức án chung thân và trả cho chị Hà gần 4,3 tỷ đồng và trả cho chị Oanh hơn 5,7 tỷ đồng. “Chúng tôi nhận chuyển nhượng 230,9m2 nhà đất của ông Nguyễn Thi Sách nhưng lại được Hội đồng xét xử triệu tập với tư cách là bị hại của Nguyễn Thị Bằng An, trong khi chúng tôi với chị An không có bất kỳ giao dịch nào. Mặt khác, tất cả mọi thủ tục mua bán chúng tôi đều thực hiện với ông Sách. Ông Sách chính là người trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán đất, có sự chứng thực của Văn phòng Công chứng Long Biên. Việc cơ quan điều tra và TAND TP.Hà Nội đưa chúng tôi thành bị hại trong vụ án chị An là không có cơ sở”- chị Hà và chị Oanh phân trần.
Được biết, mảnh đất có tổng diện tích 453m2 tại tổ 47 phường Dịch Vọng Hậu là của ông Nguyễn Thi Sách và vợ (mất năm 2006) đã được UBND quận Cầu Giấy cấp sổ đỏ đứng tên ông Sách. Ông Sách đã chia cho bốn người con để xây nhà ở. Phần diện tích 230,9m2 còn lại do vợ chồng ông quản lý, sử dụng. Nhưng, sau đó vì có sự tranh chấp giữa các anh chị em trong gia đình nên phần đất nói trên chưa được UBND quận Cầu Giấy làm thủ tục cho tách thửa để cấp sổ đỏ.
Khi hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nói trên giữa chị Hà, chị Oanh và ông Sách được đưa ra Văn phòng Công chứng Long Biên thì Văn phòng này chứng thực: “Các giấy tờ chứng minh đều hợp pháp, hợp lệ, do các cơ quan có thẩm quyền cấp, không có sự giả mạo, tẩy xóa, thêm bớt làm sai lệch nội dung; thửa đất và tài sản trên đất thuộc trường hợp được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật…”. Tuy nhiên, Tại bản Kết luận điều tra số 350 KLĐT/PC46 (DD10) đối với vụ án Nguyễn Thị Bằng An và đồng phạm thì Cơ quan điều tra kết luận: ông Sách không biết đó là giấy giả (Giấy CNQSDĐ- PV), mọi thỏa thuận đều do An thực hiện, số tiền chiếm đoạt An trực tiếp nhận và sử dụng. Ông Sách đã cao tuổi (sinh năm 1921, 90 tuổi tại thời điểm xảy ra vụ việc) nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự đối với ông Sách.
Ngay sau phiên tòa trên, nhiều ý kiến đã tỏ ra không đồng tình với cách nhận định và phán quyết của Tòa án. Theo phân tích của Luật sư Vương Thanh (Văn phòng Luật sư An Khánh, Đoàn Luật sư Hà Nội) thì Cơ quan điều tra đã bỏ lọt tội phạm. Bởi trong việc nhận chuyển nhượng nhà đất thì chị Hà, chị Oanh phải là bị hại của ông Nguyễn Thi Sách. Ông Sách phải bị truy tố trước pháp luật về hành vi “lừa đảo, chiếm đoạt tài sản” và hành vi “sử dụng tài liệu, chứng cứ giả”.
Việc TAND TP.Hà Nội đưa cả chị Hà và chị Oanh là bị hại trong một vụ án khác mà các chị không liên quan với bị cáo là không có căn cứ, vi phạm nghiêm trọng pháp luật. Chị Hà, chị Oanh có quyền yêu cầu hủy bản án sơ thẩm mà TAND TP.Hà Nội tuyên.
Hiện tại chị Hà và chị Oanh đã có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên. Hy vọng trong phiên xử phúc thẩm, những mâu thuẫn trên sẽ được Hội đồng xét xử làm sáng tỏ, đảm bảo đúng người, đúng tội.
4. Báo Lao động có bài: Khung cửa tư pháp: Tính minh bạch của một cuộc khám xét? Bài báo phản ánh: Mấy ngày qua, dư luận quan tâm cuộc khám xét kéo dài gần mười tiếng đồng hồ của Công an quận Bình Thạnh và các đơn vị liên quan đối với tiệm vàng Hoàng Mai có địa chỉ tại số 384 đường Bùi Hữu Nghĩa, phường 2, quận Bình Thạnh.
Theo thông tin trên báo chí, câu chuyện dường như bắt đầu bằng sự kiện, vào trưa ngày 24.4.2014, một người đàn ông mang một tờ mệnh giá 100 đôla Mỹ đến tiệm vàng nói trên để đổi sang tiền Việt Nam thì bất ngờ lực lượng chức năng ập vào, tiến hành khám xét cả 6 tầng của tiệm vàng, tạm giữ 14 ngàn đôla Mỹ, niêm phong 559 lượng vàng... để xác minh, làm rõ.
Cuộc khám xét bị kéo dài do chủ tiệm vàng quyết liệt tranh cãi, cho rằng nguồn gốc số tiền ngoại tệ và số vàng được chứa trong tủ của gia đình, không liên quan đến tiệm vàng. Tiệm vàng không có bất cứ vi phạm quả tang nào, chỉ có biên bản lấy lời khai của một thanh niên là có đổi 100 đôla Mỹ tại tiệm vàng Hoàng Mai nhưng cũng không có tang vật…
Tuy nhiên, dư luận hoàn toàn bất ngờ là cuộc khám xét thật ra được tiến hành theo quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh Nguyễn Thị Thu Hà ký ngày 23.4.2014. Nhiều luật sư đã lên tiếng cho rằng việc UBND quận ra quyết định khám xét trước một ngày như trên là “quá lạ lùng”, bởi trừ việc khám xét theo thủ tục hình sự thì việc khám xét theo thủ tục hành chính đối với hành vi mua bán ngoại tệ trái phép thì phải do đoàn công tác liên ngành thực hiện. Trong trường hợp đó, Chủ tịch quận theo thẩm quyền chỉ ra quyết định thành lập đoàn kiểm tra để đoàn thực hiện việc kiểm tra, khám xét…
Tôi bỗng nhớ lại cách đây hơn mười năm, một cuộc khám xét diễn ra tại một cửa hàng mua bán dụng cụ thể thao nổi tiếng tại trung tâm quận 1 gây ồn ào dư luận, trong đó cũng bắt đầu từ một vị khách đóng giả người mua hàng, khi bước ra khỏi cửa thì lập tức đoàn kiểm tra và cảnh sát kinh tế ập vào, lập biên bản về việc mua bán hàng hóa không xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Với tư cách là luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho doanh nghiệp, chúng tôi phải vất vả mất nhiều tháng để cùng chủ cửa hàng giải trình, làm rõ các vấn đề phát sinh và bản chất vụ việc sau đó được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, chỉ mới cách đây hơn bốn năm, có lẽ chưa thỏa mãn với lần khám xét lần trước, nên một lần nữa một số kho hàng và cửa hàng của doanh nghiệp tiếp tục phải gánh chịu các cuộc kiểm tra, khám xét của các cơ quan chức năng. Đến mức lúc đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng đã có công văn chỉ đạo giao cho Chủ tịch UBND TP.HCM kiểm tra làm rõ và giải quyết nội dung đơn khiếu nại, tố cáo của doanh nghiệp.
Có lẽ, vấn đề thẩm quyền, căn cứ, trình tự kiểm tra, khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã được quy định rõ trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, có hiệu lực 1.7.2013, không cần phải bàn cãi. Tuy nhiên, cuộc khám xét tiệm vàng Hoàng Mai đặt ra những khía cạnh pháp lý cần quan tâm khi cần xem xét đến vai trò của “người đàn ông mang 100 đôla”. Dư luận đặt câu hỏi có phải đó là người dẫn dụ và cơ quan chức năng phải sử dụng biện pháp nghiệp vụ nói trên làm căn cứ cho việc khám xét? Nghi ngờ đó càng tăng lên, khi báo chí thông tin, thật ra quyết định khám xét của UBND quận Bình Thạnh đã được ký trước đó một ngày, khi chưa có dấu hiệu vi phạm của tiệm vàng?
Việc cơ quan công an sử dụng biện pháp nghiệp vụ, cho đóng giả vai để “gài bẫy” người vi phạm, từ đó lập biên bản phạm tội quả tang đã từng xảy ra, trong đó có những vụ án mà tôi trực tiếp tham gia bào chữa mà sau đó hành vi này đã bị đình chỉ điều tra vì không có căn cứ. Nhiều lãnh đạo các cơ quan pháp luật, trong cuộc trao đổi trên báo Tuổi Trẻ ngày 2.8.2002 đã nhìn nhận để điều tra vụ án, trinh sát có thể sử dụng các biện pháp theo dõi, xác minh, dùng đặc tình để tìm hiểu thủ đoạn, hành vi phạm tội, nhưng điều tra viên trực tiếp đóng vai người phạm tội để thực hiện tội phạm thì không thể được. Nếu xác định đúng đối tượng phạm tội thì có thể tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để bắt quả tang với đối tượng phạm tội, nhưng không được làm theo kiểu giăng bẫy - tức là chưa xác định được kẻ phạm tội mà tìm cách “bẫy” người ta để bắt. Điều đó cho thấy sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp, còn tất nhiên nếu cố ý tạo dựng chứng cứ, dàn cảnh để bắt người thì pháp luật không cho phép.
Theo Điều 48 Bộ luật Tố tụng hình sự, những chứng cứ, tài liệu của vụ án dùng làm căn cứ buộc tội phải là những gì có thật, được thu thập đúng trình tự luật định. Việc cơ quan điều tra sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ để điều tra, xác minh sự thật vụ án là cần thiết, nhưng các biện pháp này cũng phải phù hợp với quy định của pháp luật thì chứng cứ thu được mới có giá trị sử dụng. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp. Thực tế lực lượng công an cần được phép áp dụng một số biện pháp nghiệp vụ của ngành thì mới hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, cần làm rõ ranh giới và tính hợp pháp của việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ và điều tra trong lực lượng công an với việc điều tra tất cả các loại tội phạm, từng bước “luật hóa” các biện pháp nghiệp vụ này, trong đó xác định lĩnh vực, đối tượng, thẩm quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, thủ tục tiến hành và xử lý khi có hành vi vi phạm, xâm hại đến lợi ích công dân, Nhà nước và xã hội.
Vấn đề này lần đầu tiên đã được Ban soạn thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đặt ra theo hướng có một chương riêng quy định về biện pháp trinh sát và thủ tục phê chuẩn, nhưng ý kiến còn rất khác nhau. Tuy nhiên, nếu không “luật hóa” các biện pháp trinh sát, nghiệp vụ này thì đến bao giờ các hoạt động tố tụng, hành chính nói trên mới được đưa vào khuôn khổ pháp lý, tránh tình trạng dư luận và cả những người trong cuộc thắc mắc về cách làm chưa bảo đảm tính minh bạch nêu trên?
5. Báo Tuổi trẻ online có bài: Nguyên cán bộ Sở Tư pháp Đồng Tháp lại bị nghi “có tội”. Bài báo phản ánh: Khẳng định bản án phúc thẩm ngày 1-7-2013 tuyên bà Nguyễn Thị Kim Cúc, nguyên cán bộ phòng hành chính - tư pháp Sở Tư pháp Đồng Tháp, không phạm tội “nhận hối lộ” là không có căn cứ nên TAND tối cao vừa có quyết định giám đốc thẩm hủy bản án này và yêu cầu TAND tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm lại. Theo hồ sơ vụ việc, với vai trò là người phỏng vấn trực tiếp các đối tượng kết hôn có yếu tố người nước ngoài, Nguyễn Thị Kim Cúc đã móc nối với Nguyễn Văn Chính (nhân viên lái xe Sở Tư pháp) nhận tiền của những người đăng ký kết hôn để tạo điều kiện cho họ đạt kết quả khi phỏng vấn và được đăng ký kết hôn. Mỗi hồ sơ trót lọt có giá 5-10 triệu đồng, Chính nhận 1-2 triệu đồng, còn lại Cúc hưởng trọn. Ngày 6-5-2009, trong lúc nhận tiền của đương sự thì Nguyễn Văn Chính bị Công an tỉnh Đồng Tháp bắt quả tang.
Việc xét xử vụ án đã kéo dài với diễn biến như sau: Tháng 3-2010, TAND TP Cao Lãnh mở phiên tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị Kim Cúc về tội nhận hối lộ và Nguyễn Văn Chính tội môi giới hối lộ. Tòa tuyên phạt bị cáo Cúc 9 năm tù, Chính 5 năm tù.
Ngày 13-7-2010, TAND tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm và tuyên giảm án cho bị cáo Cúc còn 5 năm tù giam, bị cáo Chính còn 2 năm tù. Anh Chính chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 13-1-2011.
Đến ngày 26-9-2011, TAND tối cao ra quyết định giám đốc thẩm, hủy án phúc thẩm và yêu cầu điều tra bổ sung để xét xử lại. Tại phiên sơ thẩm lần 2 ngày 27-11-2012, TAND TP Cao Lãnh tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim Cúc 8 năm tù và Nguyễn Văn Chính 3 năm tù.
Các bị cáo tiếp tục kháng cáo. Ngày 1-7-2013, trong phiên xét xử phúc thẩm lần 2, TAND tỉnh Đồng Tháp đã có một quyết định khá “sốc” là tuyên bị cáo Cúc vô tội và y án sơ thẩm đối với Nguyễn Văn Chính. Điều này có nghĩa là có người “môi giới hối lộ” nhưng lại không có người “nhận hối lộ”! Ngay sau khi TAND tỉnh Đồng Tháp tuyên Nguyễn Thị Kim Cúc vô tội, Viện KSND tỉnh Đồng Tháp đã gửi văn bản cho viện trưởng Viện KSND tối cao đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Trong nội dung quyết định giám đốc thẩm, TAND tối cao xác định mặc dù quá trình điều tra và tại các phiên tòa phúc thẩm và sơ thẩm, bà Cúc đã không nhận hành vi nhận hối lộ thông qua Chính nhưng qua các lời khai của Chính, những cuộc điện thoại qua lại liên tục giữa Chính và bà Cúc trước các cuộc phỏng vấn Chính đã thừa nhận có nhận tiền rồi đưa cho bà Cúc. Cụ thể như trường hợp Chính nhận 600 USD của chị Nguyễn Thị Tuyết Phụng, ngụ thị trấn Cái Tàu Hạ, huyện Châu Thành. Cuộc phỏng vấn lúc 8g ngày 11-2-2009 thì từ 11g-20g ngày 10-2, bà Cúc và Chính đã điện thoại cho nhau tới chín lần. Trước giờ phỏng vấn chị Phụng ngày 11-2, từ 6g46-6g55 Cúc và Chính đã gọi điện với nhau năm lần. Ngoài ra, trong nội dung cuộc trao đổi giữa bà Cúc với chị Phụng ngày 30-6-2009 (khi Chính đã bị bắt), bà Cúc đã yêu cầu chị Phụng không khai việc đưa tiền cho Chính, đồng thời xúi chị Phụng bỏ đi nước ngoài để cơ quan điều tra không làm việc được.
Cũng theo nhận định của quyết định giám đốc thẩm, trong phiên tòa phúc thẩm lần 2 ngày 1-7-2013, TAND tỉnh Đồng Tháp đã bác bỏ các lý do vừa nêu và tuyên bố bà Cúc không phạm tội “nhận hối lộ” là không có căn cứ vững chắc. Do đó cần phải hủy bản án hình sự phúc thẩm này của TAND tỉnh Đồng Tháp để xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Trong quyết định giám đốc thẩm dĩ nhiên không nhắc gì đến anh Nguyễn Văn Chính, vì kháng nghị trước đó chỉ đề cập đến trường hợp bà Cúc. Điều này có nghĩa bản án phúc thẩm lần 2 ngày 1-7-2013 của TAND tỉnh Đồng Tháp đối với anh Chính vẫn có hiệu lực pháp luật và anh này phải tiếp tục đi tù thêm một năm. Không thể hiểu những quy định, trình tự này nên anh Chính đã kêu trời và hỏi: “Sao tòa không nghĩ đến thân phận của tui?”.
Cầm trên tay quyết định thi hành án tù lần 2, anh Nguyễn Văn Chính ngỡ ngàng bày tỏ: “Lần xét xử phúc thẩm thứ hai, quá trình thẩm vấn, viện kiểm sát và chủ tọa phiên tòa đều nói Cúc là chủ mưu, tui là người giúp sức. Vậy mà khi tuyên án thì Cúc không phạm tội “nhận hối lộ”, còn tui (người môi giới hối lộ) lại bị phạt 3 năm tù. Ai cũng ngỡ ngàng tự hỏi một khi tòa không xác định được tội của người nhận hối lộ sao lại có tội của người môi giới hối lộ? Mình nghĩ tòa tối cao sẽ thấy nghịch lý này, nào ngờ khi họ ra quyết định cuối cùng lại xác định Cúc có tội, còn tui thì không nhắc đến gì hết. Chính vì vậy mà giờ đây tui lại phải chịu thêm một năm tù nữa”.
Như chưa hết bàng hoàng, anh Chính nói thêm: “Đã năm năm kể từ khi xảy ra vụ việc, bản thân tui đã ý thức được hành vi sai trái của mình. Hai năm chấp hành án tù tưởng sẽ được yên để làm lại từ đầu. Nào ngờ ba năm sau khi ra tù, hết tòa huyện đến tòa tỉnh mời lên làm việc khiến tui không thể làm ăn gì được. Thêm hai lần đứng trước vành móng ngựa để rồi cuối cùng phải chịu cảnh tù tội thêm một năm nữa. Từ ngày ra tù đến nay sự nghiệp đã tiêu tan, nhà cửa phải bán đi để trang trải cuộc sống và để đi hầu tòa, vợ chồng cũng đã chịu cảnh ly hôn mỗi người mỗi ngả. Bây giờ ở thêm một năm tù nữa không biết mai này sẽ ra sao”.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Trang Biz Live có bài: Trung Quốc điều máy bay, tăng thêm tàu ra khu vực giàn khoan HD-981. Bài báo phản ánh: Đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã tăng số tàu hoạt động tại khu vực giàn khoan HD-981 lên con số 82 tàu.
Trong ngày 11/5, Trung Quốc đã liên tục điều động thêm lực lượng tàu hoạt động tại khu vực hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trên vùng biển của Việt Nam.
Theo đó, tính đến thời điểm 21 giờ ngày 11/5, số tàu được Trung Quốc điều ra khu vực này đã lên con số 82, tăng 3 tàu so với ngày 10/5.
Trong đó, có tới 3 tàu chiến (gồm 1 tàu hộ vệ tên lửa mang số hiệu 534; 2 tàu tuần tiễu, tiến công nhanh mang số hiệu 752 và 753); 42 tàu chấp pháp (gồm 36 tàu hải cảnh; 6 tàu hải tuần); 14 tàu vận tải; 6 tàu dịch vụ dầu khí, 17 tàu cá.
Đặc biệt, theo tin báo về từ Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, đã phát hiện 2 tốp máy bay quân sự Trung Quốc bay phía trên các tàu của Cảnh sát biển và Kiểm ngư của Việt Nam ở độ cao 800-1000m.
Trong số này có 1 tốp máy bay tiêm kích và 1 tốp máy bay cánh bằng mang số hiệu 9401.
PhíaTrung Quốc liên tục cho khoảng 50 tàu cản trở các Biên đội tàu Cảnh sát biển Việt Nam thực thi pháp luật trên biển.
Ở trên không, trong vòng 24 giờ qua liên tục có nhiều lượt máy bay Trung Quốc hoạt động ở vị trí giàn khoan HD-981.
Cũng trong ngày hôm qua, Cảnh sát biển Việt Nam cũng đã điều động tàu tuần tra đa năng cỡ lớn mang số hiệu CSB 8001 ra khu vực biển Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép HD-981 trên vùng biển của Việt Nam.
Đại diện Bộ tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, việc đưa thêm tàu đa năng ra để tăng cường thêm cho lực lượng chấp pháp của ta tại vùng biển chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc đang xâm phạm.
Cũng theo thông tin từ hiện trường, các tàu của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam nhiều lần cơ động tiếp cận gần khu vực giàn khoan HD-981, chấp hành nghiêm mệnh lệnh chỉ huy trong việc thực hiện đúng đối sách trên biển.
2. Báo Sài Gòn đầu tư có bài: Chung cư mini hết mắc cạn? Bài báo phản ánh:Mặc dù đã được công nhận về mặt pháp lý ở Nghị định 71, Thông tư 16 và có thể là Luật Nhà ở sửa đổi sắp được ban hành, nhưng số phận của hàng trăm tòa nhà được xây dựng dưới dạng chung cư mini vẫn còn bỏ ngỏ.
Bắt đầu xuất hiện trên thị trường từ năm 2005 và nở rộ không ngừng vài năm sau đó khi giá nhà ở trở nên đắt đỏ, chung cư mini từng được đánh giá là điểm sáng trên thị trường BĐS, lối thoát cho hàng ngàn người dân đô thị đang cần nhà ở. Đặc biệt, sau giai đoạn phát triển tự phát, loại hình nhà ở này bắt đầu có chỗ đứng trên thị trường khi được công nhận về mặt pháp lý ở Nghị định 71, Thông tư 16, thậm chí TP Hà Nội đã ban hành quyết định về hướng dẫn chi tiết điều kiện được cấp sổ hồng căn hộ trong dự án.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của các dự án nhà ở xã hội, đặc biệt nhà ở thương mại giá thấp đã nhanh chóng đẩy chung cư mini vào tình cảnh không lối thoát. Những dự án nhà có diện tích quá nhỏ, chật chội, không đảm bảo các điều kiện an toàn, không được cấp sổ đỏ... đã bị người dân quay lưng và đến thời điểm hiện tại gần như bị lãng quên. Nhiều dự án chủ đầu tư đã phải hạ giá bán hay chuyển sang cho thuê nhằm thu hồi vốn.
Thậm chí, ngay cả khi Luật Nhà ở sửa đổi có những quy định rất rõ ràng “trường hợp hộ gia đình, cá nhân được phép xây dựng nhà ở có từ 2 tầng trở lên và tại mỗi tầng có thiết kế, xây dựng từ 2 căn hộ trở lên theo kiểu khép kín (có phòng ở riêng, khu bếp riêng, nhà vệ sinh, nhà tắm riêng), có đủ tiêu chuẩn diện tích sàn xây dựng tối thiểu và đáp ứng các tiêu chuẩn về nhà chung cư, sẽ được cấp giấy chứng nhận đối với từng căn hộ riêng lẻ trong nhà ở đó”, nhưng nỗi lo của hàng ngàn người dân đã chấp nhận chọn những căn hộ này vẫn không hề vơi.
Theo anh Nguyễn Quốc Phương, chủ nhân căn hộ 35m2 tại chung cư mini ở Cổ Nhuế (Hà Nội), nhiều người đang có tâm trạng tiếc rẻ khi đã vội vàng mua chung cư mini. Bởi lẽ số tiền gần 1 tỷ đồng bỏ ra thời điểm vài năm trước để sở hữu nhà ở được xem là rẻ, nhưng lại quá đắt nếu so với các dự án chung cư thương mại giá rẻ hiện nay. “Vấn đề là không có giấy chứng nhận không khác gì bỏ tiền tỷ ra để ở trọ, không thể chuyển nhượng nhà, cũng không thể thế chấp để vay vốn, muốn đổi sang căn hộ rộng rãi tiện nghi hơn cũng không thể bán được vì chẳng ai mua” - anh Phương cho biết.
Trên thực tế, việc cấp giấy chứng nhận cho chung cư mini không dễ dàng. Ngay cả khi Hà Nội đã có hướng dẫn chi tiết điều kiện được cấp sổ đỏ và tiến hành thực hiện thí điểm cấp sổ đỏ, đến nay cũng chỉ có 2 dự án may mắn được thực hiện, hàng trăm dự án còn lại tiếp tục chờ đợi. Đáng nói hơn, luôn có sự đùn đẩy, đổ lỗi giữa cơ quan chức năng và chủ đầu tư trong nhiều năm qua.
Theo Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Nội, việc không thể cấp sổ đỏ cho chung cư mini xuất phát từ sai phạm của các chủ đầu tư trong quá trình xây dựng, như xây dựng không phép, xây vượt số tầng, cơi nới diện tích xây dựng, không hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước...
Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp lại cho rằng việc cơ quan chức năng đưa ra những lý do trên không khác nào trốn tránh trách nhiệm, bởi chính quận, huyện là đơn vị cấp phép, quản lý các chung cư mini. Và như vậy, bên thứ 3 - người dân - gần như đã dốc kiệt hầu bao vào các căn hộ này đang phải chịu thiệt.
Theo các chuyên gia BĐS, do đã được công nhận, thậm chí chuẩn bị được luật hóa và người dân vẫn tiếp tục sinh sống, cơ quan quản lý cần có biện pháp dứt khoát đối với những căn hộ bị liệt vào dạng “sai phép” do lỗi của chủ đầu tư. Trước tiên, cần phân loại theo từng dạng sai phạm để có biện pháp xử lý cụ thể.
Bởi lẽ, các căn hộ trong chung cư mini sai phạm không được cấp sổ đỏ nhưng trên thực tế vẫn phát sinh giao dịch mua bán, thừa kế… Nếu không có biện pháp giải quyết sẽ hình thành nên một phân khúc “ngoài luồng” mà cơ quan nhà nước không thể quản lý được.
Tuy nhiên, để có được bước lột xác này, sớm nhất cũng phải đợi Luật Nhà ở sửa đổi được Quốc hội thông qua cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn được ban hành.
Ông Nguyễn Hữu Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Nội, cho biết chiểu theo Nghị định 71, hầu hết chung cư mini trên địa bàn Hà Nội đều không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận và sở cũng không thể cấp bừa được. Và như vậy, ít nhất phải đến năm 2015 số phận chung cư mini mới có thể ngã ngũ.
3. Báo VTC News có bài: Xử phúc thẩm đại án tham nhũng tại công ty Vifon. Bài báo phản ánh: Ngày 12/5, TAND Tối cao tại TP.HCM đã mở phiên xét xử phúc thẩm vụ án tham nhũng xảy ra tại công ty Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Vifon).
Đây là vụ án tham nhũng với số tiền hàng chục tỷ đồng, do bị cáo Nguyễn Bi (nguyên Chủ tịch HĐQT - Tổng giám đốc Công ty Vifon) và Nguyễn Thanh Huyền (nguyên Kế toán trưởng, Phó giám đốc công ty) cùng các nhân viên của mình thực hiện.
Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX cho biết Bộ Công thương tiếp tục từ chối là nguyên đơn dân sự trong vụ việc và khẳng định nhà nước không bị thiệt hại trong vụ án này. Luật sư tham gia vụ xét xử đề nghị HĐXX hoặc công bố công văn của Bộ Công thương hoặc xem xét không có tội danh tham ô ở đây bởi nhà nước khẳng định không bị thiệt hại.
Tuy nhiên, HĐXX cho rằng dù Bộ Công thương không tham gia phiên tòa sơ thẩm, cũng từ chối tư cách tố tụng của phiên tòa nhưng sau khi bản án sơ thẩm được tuyên Bộ này không kháng cáo về tư cách tham gia phiên tòa. Hơn nữa, thời điểm xảy ra vụ án là lúc Công ty đang có 100% vốn nhà nước nên việc bản án sơ thẩm xác định Bộ Công thương bị thiệt hại là chính xác, bởi vậy phiên tòa sẽ vẫn được tiếp tục.
Theo bản án sơ thẩm trước đó, từ năm 2002-2006, lợi dụng việc cổ phần hóa của Công ty Vifon, các bị cáo nguyên là lãnh đạo và nhân viên của công ty đã thực hiện hàng loạt phiếu chi thưởng sai, chuyển tiền từ vốn nhà nước sang vốn huy động hòng chiếm đoạt, gây thiệt hại tài sản của Nhà nước lên tới 18,2 tỷ đồng.
Bản án sơ thẩm ngày 27/11/2013 của TAND TP.HCM đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Bi 22 năm tù về tội “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng” và “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; bị cáo Nguyễn Thanh Huyền bị tuyên phạt 30 năm tù về tội “tham ô tài sản” và “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”;
Đàm Tú Liên (nguyên Kế toán trưởng) 8 năm tù; Dương Thị Mẫn (nguyên Kế toán thanh toán) và Ka Thị Thu Hồng (nguyên thủ quỹ), mỗi bị cáo 7 năm tù cùng về tội “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Sau phiên xử sơ thẩm, 5 bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan hoặc xin giảm nhẹ hình phạt. Liên quan đến số tiền 2,28 tỉ đồng, tài vụ công ty chuyển khoản cho ông Bi với nội dung “tiền huy động vốn”, vì ông Bi có góp vốn với công ty.
4. Trang Việt Nam Plus có bài: WHO cảnh báo về mức độ nguy hiểm của dịch bệnh MERS. Bài báo phản ánh: Số nạn nhân nhiễm virus gây Hội chứng hô hấp cấp vùng Trung Đông (MERS) không ngừng gia tăng ở Saudi Arabia đang trở thành thực tế rất nguy hiểm.
Theo thống kê, ít nhất 139 người đã thiệt mạng trong tổng số gần 500 người nhiễm bệnh kể từ khi dịch bệnh bùng phát tại quốc gia này hồi tháng 9/2012. Trong khi đó, số người nhiễm mới đang tiếp tục tăng lên.
Thông báo mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khẳng định chính những lỗ hổng trong hướng dẫn cách phòng tránh lây nhiễm và áp dụng các biện pháp kiểm soát, mà tổ chức này từng chỉ ra, đang góp phần làm gia tăng sự lây nhiễm của MERS tại thành phố Jeddah của Saudi Arabia.
Tuy nhiên, WHO cho rằng sự gia tăng số ca nhiễm mới không có nghĩa là cách thức lây lan của chủng virus này đã thay đổi. Trước tình trạng 1/4 số ca lây nhiễm từ người sang người xảy ra với các nhân viên y tế, WHO khuyên cáo đội ngũ y tế cần nâng cao nhận thức về dịch MERS. Tổ chức này cũng nhắc lại rằng không cần thiết phải ban bố lệnh cấm nhập cảnh đối với Saudi Arabia.
MERS xuất hiện lần đầu tại Saudi Arabia hồi tháng 9/2012 và theo thống kê của Bộ Y tế nước này, tính đến nay đã có tổng cộng gần 500 người dân bị lây nhiễm. Ngoài Saudi Arabia, MERS cũng xuất hiện tại hơn 12 quốc gia khác, chủ yếu ở khu vực Trung Đông.
Trước những lo sợ của người dân về sự lây lan nhanh chóng của chủng virus này, mới đây, quyền Bộ trưởng Y tế Saudi Arabia Adel Fakieh đã quyết định sa thải Giám đốc Bệnh viện Vua Fahd tại Jeddah, nơi xảy ra nhiều trường hợp lây nhiễm trong các nhân viên y tế.
MERS được coi là nguy hiểm hơn virus gây Hội chứng viêm đường hô hấp cấp (SARS) từng lây lan khắp châu Á năm 2003 khiến hơn 8.000 người nhiễm bệnh và 9% trong số đó tử vong.
Theo các chuyên gia y tế, dù ít lây lan hơn SARS nhưng MERS lại nguy hiểm hơn vì chưa có vắcxin hay phác đồ điều trị đặc hiệu, tỷ lệ tử vong lên tới gần 30%.
Một số nhà khoa học cho rằng căn bệnh này có nguồn gốc từ lạc đà, loài vật nuôi khá phổ biến ở Saudi Arabia và các quốc gia vùng Trung Đông nói chung. Những người nhiễm MERS thường có biểu hiện sốt cao, khó thở, viêm phổi và tử vong nếu không được điều trị kịp thời./.