I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Giao thông vận tải có bài Thu tiền bồi thường trong án hình sự: Khó như "hái sao trên trời"!. Bài báo phản ánh: Ngày 7/5, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao xét xử vụ án tham nhũng tại Vinalines đã tuyên phạt hai án tử hình dành cho Dương Chí Dũng (nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines) và Mai Văn Phúc (nguyên TGĐ Vinalines) về các hành vi “Tham ô tài sản” và “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tòa cũng buộc hai bị cáo này, mỗi người bồi thường 110 tỷ đồng. Vấn đề đang được dư luận quan tâm là, khoản bồi thường “siêu khủng” kể trên sẽ được các cơ quan thi hành án thu hồi ra sao khi hai bị cáo đã nhận án tử?
Chiều 8/5, trao đổi với PV Báo Giao thông về những băn khoăn kể trên, luật sư Trần Xuân Tiền (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho biết, Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc đã bị tuyên án tử hình, những tài sản của hai tử tù này cũng đã bị kê biên nếu không đủ số tiền bồi thường theo phán xét của tòa án thì các cơ quan thi hành án (THA) cũng đành phải chịu. “Họ còn tài sản thì mới thi hành được, nếu hết rồi mà chưa đủ số tiền bồi thường thì các cơ quan thi hành án cũng phải ra quyết định đình chỉ bản án chứ cũng chẳng thể làm gì khác được”, ông Tiền nói.
Theo ông Tiền, hiện nay các bản án khó thi hành về phần dân sự trong các vụ án tham nhũng trở nên rất phổ biến, bởi công tác kê khai tài sản hiện nay rất phức tạp và khó khăn. Nhiều đối tượng phạm tội tham ô nhưng tài sản của họ lại đứng tên người thân mà cơ quan chức năng không xác minh ra thì không thể buộc thi hành án được.
“Vấn đề bồi thường trong các vụ án hình sự đa phần chỉ là hình thức. Ngay như vụ siêu lừa Huyền Như mới đây, tòa tuyên bị cáo này phải bồi thường số tiền lên đến 4.000 tỷ đồng, nhưng cô ta có bán hết tài sản thì cũng chỉ được trăm tỷ thì lấy tiền đâu ra mà đòi thi hành án”, ông Tiền chua chát nói.
Trong khi đó, trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Bách Thắng - Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) cũng thừa nhận, việc thi hành án dân sự trong bản án hình sự hiện nay rất khó khăn bởi tài sản của đối tượng phải thi hành án không còn hoặc sau khi mãn hạn tù nhiều đối tượng không về địa phương.
Ông Thắng cho rằng, việc thi hành bản án dân sự đối với số tiền 220 tỷ đồng mà Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc có khả thi hay không còn phụ thuộc vào tài sản và khả năng THA của hai đối tượng này. Theo ông Thắng, sau khi cơ quan THA đã xử lý toàn bộ tài sản của Dũng, Phúc theo quy định nhưng không đủ số tiền bồi thường và cơ quan THA đã xác minh hai đối tượng không còn bất cứ một tài sản nào khác thì sẽ phải ra quyết định đình chỉ thi hành án. “Đối tượng thi hành án đã bị tử hình, tài sản không còn gì thì lấy ai mà thi hành? Ngay cả chỗ chúng tôi vẫn đang tồn đọng hàng trăm các vụ thi hành án dân sự trong bản án hình sự”, ông Thắng cho biết.
Thừa nhận những tồn tại, khó khăn trong việc THA dân sự trong bản án hình sự, ông Nguyễn Thanh Thủy - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp) cho biết, đối với các vụ án hình sự liên quan tới tội phạm tham nhũng, ngay từ đầu khi thực hiện hành vi phạm tội, nhiều đối tượng đã tính toán đến việc tẩu tán tài sản, chuyển nhượng, để người thân đứng tên tài sản... Và khi bản án dân sự có hiệu lực, tài sản của các đối tượng không đủ để THA.
Theo ông Thủy, Bộ luật Tố tụng Hình sự đã quy định, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể tiến hành việc kê biên tài sản đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định có thể tịch thu tài sản hoặc phạt tiền cũng như đối với người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức độ có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại.
“Quy định là như vậy, nhưng thực tế việc kê biên tài sản không thực hiện đầy đủ hoặc không phải lúc nào cũng thực hiện được nên gây khó khăn cho việc THA sau này. Ngay ở diễn đàn Quốc hội, các đại biểu cũng đã chỉ ra một trong những tồn tại trong vấn đề THA là các cơ quan tố tụng không áp dụng đầy đủ các biện pháp kê biên, phong tỏa tài sản. Nguyên nhân có thể do khách quan đòi hỏi tiến trình điều tra phải kịp thời, đúng thời gian quy định nên khâu kê biên tài sản không được chú ý. Ngoài ra, cũng còn lý do là tài sản của người phạm tội không có hoặc không phát hiện ra”, ông Thủy nói.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chưa có quy định về việc đặt tên cho trẻ. Bài báo đưa tin: Sáng 8-5, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM đã tổ chức lấy ý kiến góp ý cho dự án Luật Hộ tịch.
Theo bà Trần Thị Hồng Như, Phó Trưởng phòng Tư pháp quận 5, dự luật cần có quy định về việc đặt tên cho trẻ khi đi khai sinh. Vì thực tế hiện nay có nhiều người muốn đặt tên cho con có âm đọc như tiếng nước ngoài, hoặc tên không thể đánh vần theo tiếng Việt, hoặc tên trùng với tên lãnh tụ,... nhưng không có quy định nào về vấn đề này.
Ông Nguyễn Văn Vũ, Trưởng phòng Hộ tịch-Quốc tịch Sở Tư pháp TP.HCM, cũng đề nghị dự luật bổ sung quy định trong trường hợp cha mẹ chọn quốc tịch Việt Nam cho con thì khi đăng ký khai sinh, chữ lót và tên của trẻ phải bằng tiếng Việt. Đồng thời, dự luật cũng cần quy định về thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn cho người lớn tuổi.
Về việc quy định số định danh cá nhân, luật sư Trương Thị Hòa cho rằng việc này góp phần hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia, thay thế được hầu hết các loại giấy tờ. Tuy nhiên, trước mắt số định danh này chưa thể thay thế nhiều loại giấy tờ được.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Gặp khó khăn khi đăng ký kết hôn. Bài báo phản ánh: Anh Huỳnh Tuấn Nhân (thường trú thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh) phản ánh vừa qua anh đi đăng ký kết hôn ở địa phương thì được ủy ban thị trấn hướng dẫn: Vợ anh cần về nơi đăng ký thường trú (ở phường Xuân Hòa, huyện Long Khánh, Đồng Nai) xin giấy xác nhận độc thân, sau đó anh quay trở lại đây đăng ký kết hôn. Làm xong, anh quay lại thì nơi đây bảo giấy chưa hợp lệ vì trước đây vợ anh có một thời gian đăng ký thường trú tại phường Xuân Bình, sau đó chuyển sang phường Xuân Hòa (đều thuộc Long Khánh) nên phải về lại phường Xuân Bình xin thêm xác nhận tại nơi đây.
Qua nhiều lần đi tới đi lui không đạt kết quả, anh đề nghị ủy ban thị trấn cho xem mẫu đơn xác nhận các trường hợp giống vợ chồng anh và quy định nào về luật đăng ký kết hôn… để anh mang về phường Xuân Bình trình bày với cán bộ bên đó. Nếu không có mẫu đơn hoặc không có hướng dẫn thì anh sẽ gặp khó khăn trong việc giải trình với cán bộ tại phường Xuân Bình vì hai bên không có sự nhất quán. Chưa kể nơi này cũng chần chừ vì vợ anh không còn ở địa phương nên không biết sẽ xác nhận thế nào.
Sau đó thì anh được cán bộ địa phương hướng dẫn nhưng việc hướng dẫn không rõ ràng khiến anh không bằng lòng. Theo anh, phía cán bộ không cho anh trình bày cặn kẽ nên anh không biết phải làm thế nào khi mà phía thị trấn Hòa Thành đòi hỏi giấy xác nhận tại một địa phương cũ trước đây, trong khi anh đã có giấy xác nhận của cơ quan địa phương đang thường trú…
Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, Tây Ninh, cho biết: “Việc chưa làm thủ tục cấp giấy đăng ký kết hôn cho anh Nhân, tôi đã có hướng dẫn theo Thông tư 01/2008 của Bộ Tư pháp là nếu vợ anh Nhân trước đây ở nơi khác, sau đó chuyển đến thường trú tại địa phương thì chúng tôi sẽ yêu cầu viết giấy cam đoan còn độc thân rồi xác nhận. Còn vợ anh Nhân ở địa phương khác đến đăng ký kết hôn, địa phương không có điều kiện xác minh nên yêu cầu có xác nhận tại những địa phương có đăng ký thường trú từ khi 18 tuổi đến hiện tại. Chúng tôi làm đúng quy định và không gây khó dễ gì cả. Khi nào vợ chồng anh Nhân bổ sung hồ sơ hợp lệ, chúng tôi sẽ giải quyết ngay”.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Khai mạc Hội nghị Trung ương 9. Sáng ngày 8/5, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI chính thức khai mạc tại Hà Nội.
Hội nghị lần này sẽ tập trung bàn về các nội dung: Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đề cương các văn kiện trình Đại hội lần thứ XII của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương cũng sẽ bàn thảo việc chuẩn bị công tác chỉ đạo tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng; về Quy chế bầu cử trong Đảng; việc lấy phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng.
Trung ương cũng sẽ tổng kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và một số vấn đề quan trọng khác.
Theo chương trình dự kiến, Hội nghị sẽ diễn ra tới ngày 14/5.
2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Khai mạc Đại lễ Phật đản Vesak 2014. Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban Tổ chức quốc tế, sáng 8/5, tại chùa Bái Đính (Ninh Bình), Giáo hội Phật giáo Việt Nam long trọng tổ chức Lễ khai mạc Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2014, với chủ đề “Phật giáo góp phần thực hiện thành tựu các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc”, từ ngày 8-15/5.
Dự lễ khai mạc có Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, các vị nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam; Thủ tướng Sri Lanka Jayaratne, các vị Đại sứ, đoàn ngoại giao cùng khoảng 1.150 lãnh đạo các giáo hội, hệ phái Phật giáo, các học giả, nhà nghiên cứu Phật học đến từ 95 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp thế giới và trên 10.000 đồng bào Phật tử Việt Nam.
Phát biểu tại Lễ khai mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng khẳng định, Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc được tổ chức với quy mô quốc tế, thể hiện quyết tâm và chủ trương của Liên Hợp Quốc đối với các hoạt động mang tính quần chúng rộng rãi vì một thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đại lễ được tổ chức với sự cổ suý của Liên Hợp Quốc nhằm tôn vinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni về hòa bình, hòa hợp, hòa giải, vị tha, nhân ái đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Ngay sau Lễ khai mạc là nghi thức Tắm Phật truyền thống tại không gian lễ hội Điện Thích Ca và màn thả bồ câu thể hiện khát vọng hòa bình của nhân loại.
3. Báo Nhân dân điện tử có bài Yêu cầu Thái-lan chấm dứt việc làm thiếu thiện chí đối với công dân Việt Nam. Bài báo đưa tin: Trước thông tin tại cửa khẩu đường bộ giữa Cam-pu-chia và Thái-lan, lực lượng chức năng Thái-lan đã yêu cầu khách du lịch Việt Nam phải xuất trình tiền mặt khi làm thủ tục nhập cảnh, Bộ Ngoại giao đã yêu cầu Ðại sứ quán Việt Nam tại Băng-cốc trao đổi với các cơ quan chức năng Thái-lan và được biết:
Thời gian gần đây, trước tình trạng nhiều công dân nước ngoài vi phạm pháp luật Thái-lan trong lĩnh vực nhập xuất cảnh và cư trú tại Thái-lan, phía Thái-lan đã áp dụng một số biện pháp mới nhằm quản lý chặt chẽ người nước ngoài. Theo quy định này, công dân của một số nước, trong đó có Việt Nam, khi nhập cảnh Thái-lan tại cửa khẩu đường bộ với mục đích du lịch, phải xuất trình vé khứ hồi, xác nhận đặt chỗ tại khách sạn và tiền mặt (tối thiểu là 20.000 Bạt, tương đương 700 USD).
Chiều 7-5, đại diện Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao trao công hàm cho Ðại sứ quán Thái-lan tại Hà Nội, nhấn mạnh: việc phía Thái-lan không thông báo trước cho phía Việt Nam về quy định nói trên và việc Việt Nam là thành viên duy nhất trong ASEAN bị áp dụng quy định này không phù hợp tinh thần hợp tác trong ASEAN cũng như quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Chính phủ và nhân dân hai nước. Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao yêu cầu phía Thái-lan chấm dứt việc làm thiếu thiện chí đối với công dân Việt Nam và đề nghị tiếp tục tạo thuận lợi cho việc xuất nhập cảnh của công dân hai nước.
Tổng cục Du lịch Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cũng vừa có công văn gửi Văn phòng đại diện cơ quan du lịch quốc gia Thái-lan (TAT) tại Việt Nam yêu cầu xóa bỏ quy định phi lý này.
Cùng với công văn gửi tới Văn phòng đại diện cơ quan du lịch quốc gia Thái-lan (TAT) tại Việt Nam, lãnh đạo Tổng cục Du lịch Việt Nam cũng đã gửi thư tới bà Tha-nít-ta Xa-vét-xi-la Ma-nê-cho-te, Phó Tổng vụ trưởng, Bộ Du lịch và Thể thao Thái-lan để thông báo và đề nghị Bộ Du lịch và Thể thao Thái-lan kiểm tra, làm việc với các cơ quan chức năng của Thái-lan nhằm sớm xóa bỏ quy định phi lý trên đối với du khách Việt Nam khi nhập cảnh Thái-lan, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho du khách Việt Nam đến Thái-lan.
4. Báo Đại đoàn kết đưa tin Xuất khẩu gạo của Việt Nam sụt giảm. Ngày 8-5, Hiệp hội Lương Thực Việt Nam (VFA) cho biết, xuất khẩu gạo trong tháng 4 của các doanh nghiệp trong nước chỉ đạt 536.806 tấn, trị giá đạt gần 2,4 triệu USD, giá bình quân 441 USD/tấn.
So với tháng 03/2014, số lượng giảm 7,3%, trị giá giảm gần 7%. So với cùng kỳ năm ngoái, số lượng giảm 23%, trị giá giảm 21%. Theo VFA, tổng sản lượng từ đầu năm đến nay đạt 1,751 triệu tấn, trị giá 765 triệu USD. So với cùng kỳ, số lượng giảm 18%, trị giá giảm gần 18,5%.
Nguyên nhân xuất khẩu sụt giảm được lãnh đạo VFA lý giải rằng, do nhu cầu của thị trường giảm dẫn đến việc giao hàng đến hầu hết các thị trường đều giảm mạnh, nhất là châu Phi, trừ Trung Quốc tăng 51%, nhưng sản lượng của Trung Quốc không bù đắp được lượng giảm nơi khác.
5. Trang VOV Online có bài Trung Quốc họp báo biện minh việc đưa giàn khoan HD981 vào Biển Đông. Bài báo đưa tin: Chiều qua (8/5), Bộ Ngoại giao Trung Quốc tổ chức cuộc họp báo nhằm biện minh cho việc đưa giàn khoan HD981 hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cùng với việc nhắc lại lập trường về cái gọi là “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông, đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng bày tỏ tin tưởng Việt Nam và Trung Quốc sẽ giải quyết được vấn đề hiện nay thông qua "đối thoại".
Phía Trung Quốc cố tình vu cáo, đổ lỗi cho Việt Nam cũng như nhắc lại lập trường cái gọi là "chủ quyền" ở Biển Đông. Đây là nội dung chiếm thời lượng lớn của buổi họp báo, nhưng lại không phải là nội dung mà phóng viên báo giới quan tâm. Những vấn đề mà phóng viên quan tâm và đặt câu hỏi nhiều nhất thì phía Trung Quốc lại không thể trả lời, hoặc trả lời không thỏa đáng.
Cụ thể, phía Trung Quốc không đưa ra được hình ảnh nào làm bằng chứng chứng minh cho chỉ trích của nước này về việc “tàu Việt Nam quấy nhiễu tàu Trung Quốc”.
Mặc dù được các phóng viên hỏi đi hỏi lại nhiều lần, nhưng đại diện Bộ Ngoại giao cũng như đại diện Tổng Công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) không giải thích được tại sao nước này phải điều đến hơn 80 tàu các loại để hộ tống một giàn khoan, trong khi bình thường chỉ cần 3 đến 4 tàu phục vụ là đủ.
Trước câu hỏi việc lực lượng chức năng của nước này dùng vòi rồng và cho tàu công vụ tấn công tàu Việt Nam có phải là hành vi ức hiếp thô bạo hay không và Trung Quốc đã điều bao nhiêu tàu đến khu vực giàn khoan HD981, trong đó có bao nhiêu tàu hải quân, Đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc tỏ ra lúng túng, cố tình né tránh câu trả lời.
Tại cuộc họp báo, đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng bày tỏ quan điểm muốn giải quyết tình hình hiện nay thông qua đối thoại đàm phán.
Ông Dị Tiên Lương, Vụ trưởng Vụ biên giới và hải đảo Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói: “Kênh trao đổi giữa hai nước là thông suốt. Kể từ khi xảy ra vụ việc đến nay, hai bên đã tiến hành 14 lần trao đổi. Trung Quốc mong muốn cùng phía Việt Nam thông qua trao đổi để giải quyết tình hình hiện nay”./.
6. Báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online có bài Cổ phần hóa Vinalines: Nhà nước có chấp nhận “hy sinh”?. Bài báo phản ánh: Tổng công ty Hàng hải (Vinalines) đang thể hiện quyết tâm không chậm trễ trong việc thực hiện đúng lộ trình IPO (bán cổ phần lần đầu ra công chúng) vào quí 1-2015. Cuối tháng 4 vừa qua, Vinalines đã kiến nghị loại năm con tàu ra khỏi danh mục tài sản xác định giá trị doanh nghiệp. Đây là một đề xuất táo bạo, dọn đường cho IPO có thể thành công, nhưng quanh nó không phải không có những băn khoăn về mất mát tài sản nhà nước.
Năm con tàu bao gồm Vinalines Ocean, Vinalines Trader, Vinalines Global, Vinalines Ruby và Vinalines Sky. Chúng được mua vào những năm 2005-2010, ở thời đỉnh điểm giá cước vận tải biển, buôn bán tàu bè quốc tế nhộn nhịp. Phần lớn vốn đầu tư cả năm tàu là tiền vay, trong đó tiền mua Sky, Global, Ocean được vay 100%. Những ngân hàng cho vay khoản đầu tư 100% này hẳn thật sự “dũng cảm” vì nó chính xác là đòn bẩy tài chính 100%, không có một đồng vốn đối ứng nào.
Lý giải việc loại năm tàu, lãnh đạo Vinalines cho biết giá trị thực tế còn lại của các tàu rất thấp, thấp đến mức nếu xác định theo giá thị trường để cổ phần hóa thì sẽ làm giảm vốn chủ sở hữu của tổng công ty tới 1.989 tỉ đồng. Nói cách khác, giá trị thu được khi bán các tàu so với giá mua có thể chênh nhau gần 2.000 tỉ đồng, một mức lỗ khủng khiếp so với số vốn điều lệ tại ngày 13-9-2013 của Vinalines là 10.693 tỉ đồng.
Theo Thanh tra Chính phủ, trong năm năm kể trên Vinalines đã đầu tư 73 tàu với số tiền 22.853 tỉ đồng. Không biết còn bao nhiêu tàu nữa rơi vào tình trạng thua lỗ như năm tàu này? Và số tiền lỗ là bao nhiêu?
Cho nên không có gì ngạc nhiên, theo đề án tái cơ cấu Vinalines trước đây, đến tháng 5-2012 nợ của tổng công ty lên tới 61.768 tỉ đồng. Hai năm qua con số có thể thay đổi do lãi phát sinh. Trong đại hội đồng cổ đông hàng năm, các ngân hàng đều bị cổ đông chất vấn về những khoản cho Vinalines vay và gần như chưa ngân hàng nào đòi được nợ. Một số chủ nợ buộc phải trích lập dự phòng rủi ro để giảm thiểu tổn thất.
Cho đến khi bản cáo bạch IPO được công bố, sẽ khó biết chính xác giá trị tài sản còn lại của Vinalines và liệu tài sản đó có cao hơn số nợ gốc cùng lãi phải trả. Tuy nhiên, điều có thể khẳng định là Vinalines đang trong tình trạng thua lỗ (thí dụ phần lớn các công ty vận tải biển đang niêm yết có vốn chi phối của Vinalines đều đang lỗ, thậm chí âm vốn chủ sở hữu), nhiều tàu không hoạt động và nằm phơi mưa nắng.
Xác định giá trị doanh nghiệp của Vinalines ở mảng kinh doanh tàu theo giá thị trường, vì thế, sẽ làm phát sinh khoảng chênh lệch giữa giá trị sổ sách, giá vốn đầu tư và giá trị thực còn lại. Nếu cứ mang giá trị sổ sách của tổng công ty ở mảng này ra IPO, ai dám mua? Còn nếu IPO trên giá trị thực còn lại, Nhà nước sẽ thiệt thòi. Nhà nước sẽ phải lựa chọn: hoặc IPO thành công để Vinalines có thể chuyển đổi chủ sở hữu (dự kiến Nhà nước không nắm cổ phần chi phối ở Vinalines và 70% cổ phần sẽ bán ra ngoài), trở nên kinh doanh có hiệu quả; hoặc IPO mà không có người mua.
Vinalines cho đến giờ vẫn là doanh nghiệp 100% vốn quốc doanh và Nhà nước là người quản lý, điều hành. Nhà nước là người chịu trách nhiệm về sự thua lỗ của tổng công ty. Đứng ở góc độ ông chủ, Vinalines lỗ, Nhà nước phải gánh. Không thể thông qua cổ phần hóa để chuyển đổi sự thua lỗ đó cho công chúng đầu tư. Nhà đầu tư có đủ khôn ngoan để nhận thức trả giá nào cho món hàng mà họ mua.
Một khi được chấp thuận loại khỏi danh mục xác định giá trị doanh nghiệp những tài sản đang cõng khoản lỗ quá lớn trên lưng, không phải Vinalines còn lại toàn tài sản đẹp và sự thua lỗ tự nhiên biến mất. Lỗ vẫn còn đó, nợ nần vẫn còn đó, chỉ là cải thiện ở mức nhất định những tài sản có khả năng sinh lời để giới đầu tư thấy rằng bỏ tiền vào Vinalines là có cơ sở.
Nhà nước sẽ làm gì với những tài sản chất lượng kém như năm con tàu nói trên? Cách tốt nhất là giao chúng cho Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) vì một trong những chức năng của DATC là “tiếp nhận xử lý các khoản nợ, tài sản đã loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp khi tiến hành chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước”. DATC có thể mang chúng ra đấu giá, tiền bán được dùng để trả bớt nợ của Vinalines. Phần thua lỗ, tất nhiên, hạch toán cho Nhà nước.
Có một cách xử lý khác không lòng vòng, nhanh chóng, dứt khoát, minh bạch và có phần “đau đớn” vì nó làm tổn thương hình ảnh của Nhà nước - chủ quản lý Vinalines - trong con mắt dư luận là đấu giá công khai những tài sản bị loại trừ. Những tài sản ấy càng để lâu càng mất giá, càng làm cho tình trạng thua lỗ của Vinalines thêm trầm trọng. Trong quy định về cổ phần hóa, có quy định rạch ròi về khoán, bán, cho thuê những doanh nghiệp thua lỗ. Tại sao Nhà nước không chọn cách đơn giản hơn cả: công khai tài sản không sinh lời, công khai tình trạng thua lỗ, công khai nợ nần, công khai đấu giá tài sản cần thanh lý và công khai việc xử lý nợ, kiểu “Đấy, giá trị của Vinalines còn chừng ấy, nợ chừng ấy, Nhà nước sẽ khoanh, giãn, tái cơ cấu thậm chí xóa bỏ bằng này nợ cho tổng công ty”. Nhà đầu tư sẽ nhìn nhận cả quá trình và cách thức xử lý vấn đề của Nhà nước để trả giá mua.
Sự thua lỗ của Vinalines có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cho dù nguyên nhân nào chăng nữa, đã đến thời điểm Nhà nước thừa nhận đã thất bại trong vai trò quản lý, điều hành tổng công ty. Cổ phần hóa Vinalines không phải để chia sẻ thất bại cho người khác, mà để kêu gọi sự đóng góp về vốn, về chất xám của công chúng, của xã hội nhằm vực dậy, hồi sinh một doanh nghiệp quan trọng của nền kinh tế. Để làm được điều đó, rất cần Nhà nước chấp nhận hy sinh lợi ích của mình.