I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ online có bài: Phúc thẩm vụ Dương Chí Dũng: Luật sư đề nghị tòa hủy án, điều tra lại. Bài báo phản ánh: Chiều 23-4, sau khi đại diện VKSND tối cao trình bày phần luận tội, các luật sư đã bào chữa cho các bị cáo. Ba luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Chí Dũng là Trần Đình Triển, Ngô Ngọc Thủy và Trần Đại Thắng đề nghị tòa hủy án sơ thẩm để điều tra lại.
Luật sư Trần Đại Thắng đề nghị tòa xác định rõ việc các bị cáo có tham ô tài sản hay không, việc thỏa thuận ăn chia được tiến hành như thế nào, ai là người đứng ra thỏa thuận? Theo luật sư Thắng, những vấn đề này chưa được làm rõ, tại tòa sơ thẩm các bị cáo tố ép cung, mớm cung nhưng không được làm rõ.
Luật sư Trần Đình Triển cho rằng quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đã có vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Các nước ASEAN đã ký hiệp định tương trợ tư pháp, vụ án chưa có kết quả tương trợ tư pháp từ phía Nga và Singapore nhưng vẫn được đưa ra xét xử.
Luật sư Triển đặt vấn đề vụ án không có kháng nghị, kháng cáo tăng hình phạt thì đại diện VKSND tối cao căn cứ vào đâu để đề nghị tăng mức hình phạt đối với Dương Chí Dũng. Về nội dung vụ án, luật sư Trần Đình Triển cho rằng lời khai của bị cáo Trần Hải Sơn về các lần đưa tiền cho Dũng và Phúc là không chính xác về thời gian, địa điểm.
Luật sư Trần Đình Triển công bố văn bản thu thập ở Singapore là lời tuyên thệ của ông Goh Hoon Hoew (giám đốc Công ty AP, người đại diện công ty trong việc mua bán ụ nổi). Tại lời tuyên thệ, ông Goh cho biết chưa từng liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với ông Dũng và ông Phúc trong vụ bán ụ nổi 83M. Khoản tiền 1,666 triệu USD là phí giao dịch, phí bảo hiểm của 83M chứ không phải khoản tiền lại quả. HĐXX cho biết sẽ xem xét chứng cứ này.
Luật sư Triển đề nghị tòa phúc thẩm tuyên hủy một phần án sơ thẩm về tội tham ô tài sản, trả hồ sơ để điều tra lại.
Luật sư Hoàng Huy Được bào chữa cho bị cao Mai Văn Phúc cho rằng từ đầu đến cuối Mai Văn Phúc không thừa nhận việc nhận tiền. Bị cáo Trần Hải Sơn không có chứng cứ để chứng minh việc đưa tiền cho Mai Văn Phúc, lời khai của Trần Hải Sơn rất mâu thuẫn. Luật sư Được đề nghị tòa hủy toàn bộ án sơ thẩm để điều tra bổ sung.
Phát biểu bào chữa cho bị cáo Mai Văn Phúc, luật sư Nguyễn Huy Thiệp nói: "Tinh thần cải cách tư pháp lấy trọng tâm là công tác xét xử không được quán triệt tại phiên tòa này. Cụ thể, quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát không xuất hiện bất cứ tình tiết nào trong phiên tòa sơ thẩm mà đã được chuẩn bị trước. Điều đó dẫn đến việc các chứng cứ, nội dung được bổ sung tại tòa đã không được xem xét".
Theo luật sư Thiệp, lời khai của ông Goh có trong hồ sơ thể hiện ông Goh chuyển 1,666 triệu USD về VN là yêu cầu của công ty Global Success (Nga). Điều này chứng minh quan hệ thỏa thuận của Vinalines với Global Success. Ai là người giao dịch, ai là người thỏa thuận, đó là mấu chốt vấn đề.
Cũng theo luật sư Thiệp, hồ sơ vụ việc nổi lên dấu hiệu có một người cụ thể thực hiện việc tham ô tài sản, vì thế có dấu hiệu tòa sơ thẩm xử sai đối tượng, sai về vai trò, sai về mức hình phạt dẫn đến dấu hiệu oan sai.
2. Báo Công an thành phố Đà Nẵng có bài: Văn phòng luật sư thiếu trách nhiệm với “thân chủ”? Bài báo phản ánh: Ông Từ Văn Côi (tạm trú P. Hòa Cường Bắc, Q. Hải Châu, Đà Nẵng) trình bày: Ngày 13-6-2011, ông có thỏa thuận với Văn phòng luật sư (VPLS) Quảng Đà (số 242/4-Điện Biên Phủ, Đà Nẵng) trợ giúp pháp lý với mức lệ phí 10 triệu đồng. Theo đó, ông Côi yêu cầu luật sư giúp ông kiện đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong việc giải tỏa đền bù liên quan đến thửa đất thuộc sở hữu của ông. Ông Côi cho biết, từ đó đến nay đã hơn 3 năm nhưng VPLS Quảng Đà vẫn chưa giải quyết vụ việc cho ông.
Vậy sự việc có đúng như trình bày của ông Côi? Làm việc với ông Lê Văn Ánh, Trưởng VPLS Quảng Đà và được biết: Ngay sau thỏa thuận với ông Côi, VPLS đã nghiên cứu hồ sơ và xác minh cho thấy mảnh đất của ông Côi được cấp GCNQSDĐ số X-504429, thửa đất số 556 với diện tích 87m2. Trong khi chuyển nhượng, ông Côi nhờ ông Đặng Văn Hòa làm môi giới nhưng khi làm xong GCNQSDĐ, ông Hòa không đưa cho ông Côi mà giữ lại để đòi thêm tiền. Sau đó, mảnh đất này nằm trong Dự án Khu đô thị Sinh thái Hòa Xuân nên khi đền bù giải tỏa, Hội đồng giải phóng mặt bằng (HĐGPMB) yêu cầu ông Côi cung cấp bản gốc GCNQSDĐ thì ông Côi không có.
Ngày 28-6-2011, VPLS Quảng Đà tư vấn ông Côi làm đơn yêu cầu gửi đến Ban giải tỏa đền bù các dự án đầu tư xây dựng số 2 (viết tắt: Ban 2) và HĐGPMB đề nghị xem xét, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Đến ngày 14-3-2012, VPLS Quảng Đà tiếp tục giúp ông Côi làm đơn gửi đến TAND Q. Cẩm Lệ (Đà Nẵng) nhờ pháp luật can thiệp việc ông Hòa chiếm đoạt GCNQSDĐ trái phép...
Qua nhiều bước tư vấn, tham mưu có lý, có tình, dựa trên cơ sở pháp luật, ngày 28-1-2013, Ban 2 đã cấp Phiếu phân lô đất giao đất theo diện hộ chính cho ông Côi tại lô số 16, khu B2-48, đường 5,5m, khu E1, khu dân cư Nam cầu Cẩm Lệ. Đến ngày 28-1-2013, tại UBND P. Hòa Xuân (Q. Cẩm Lệ), ông Côi và mẹ ruột là bà Huỳnh Thị Xuân (người làm chứng) đến làm giấy cam kết giao quyền đứng tên lô đất cho vợ chồng ông bà Nguyễn Phước Bình, Nguyễn Thị Thúy Vân (trú P. Khuê Trung, Q. Cẩm Lệ) và giấy ủy quyền cho vợ chồng ông Bình, bà Vân thay mặt mình liên hệ làm các thủ tục liên quan đến lô đất. Ông Côi cam kết không khiếu nại, tranh chấp về nội dung ủy quyền, có xác nhận của ông Nguyễn Văn Toàn, Chủ tịch UBND P. Hòa Xuân.
Tại đây, bà Xuân cho biết, trước đây con trai bà có biểu hiện suy sụp về tâm lý, khi có phiếu phân lô đất, do hoàn cảnh khó khăn không có tiền chữa bệnh nên bà bàn với ông Côi bán lại cho ông Bình, bà Vân với giá hơn 200 triệu đồng. Mọi thủ tục mua bán, cam kết, ủy quyền đã hoàn tất, có sự xác nhận của địa phương. Tiền bán đất bà Xuân dùng để chạy chữa, điều trị bệnh cho ông Côi và mẹ con chi dùng qua ngày. Nay con trai bà sức khỏe đã bình phục, còn việc khiếu nại VPLS Quảng Đà thì bà không hề hay biết.
Ông Phan Văn Nhung, trợ lý VPLS Quảng Đà trình bày, vào giữa tháng 3-2014, ông Côi có đến VPLS đòi lại 10 triệu đồng lệ phí trợ giúp pháp lý mà ông đã nộp. Qua tiếp xúc, ông Côi có biểu hiện không bình thường như: không nhớ mình và mẹ ruột đã ký bán đất cho ông Bình, bà Vân; khăng khăng cho rằng mình chưa được cấp đất... Đầu tháng 4-2014, ông Côi lại đến VP đòi tiền, thấy trường hợp ông Côi khó khăn nên ông Ánh biếu ông Côi 2 triệu đồng để tiêu nhưng ông Côi không chịu mà đòi lấy đủ 10 triệu đồng. Thấy sự việc căng thẳng, ông Ánh phải mời CAP Chính Gián (Q. Thanh Khê, Đà Nẵng) đến giải quyết thì ông Côi mới chịu ra về.
Như vậy, nội dung ông Côi trình bày hoàn toàn không đúng sự thật; mọi vấn đề tư vấn về pháp lý cũng như kết quả giúp ông Côi được cấp GCNQSDĐ đã được VPLS Quảng Đà thực hiện hoàn tất.
3. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Bỏ quy định phải tự xác minh điều kiện thi hành án. Bài báo phản ánh: Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tồn đọng án hiện nay là do người được thi hành án (THA) gặp khó khăn trong việc xác minh điều kiện THA, nhất là khi phải xác minh tại các cơ quan nhà nước, tổ chức tín dụng... và cũng cả bởi người được THA dửng dưng với quyền yêu cầu THA.
Tờ trình của Chính phủ về Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự (THADS) do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trình bày tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng qua (21/4) thừa nhận những hạn chế trong công tác THADS do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu từ quy định của Luật THADS, nên Chính phủ đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Luật này để đảm bảo các bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Theo Điều 44 Luật THADS 2008, người được THA có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA; nếu muốn yêu cầu cơ quan THADS tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến hành xác minh nhưng không có kết quả và phải chịu chi phí yêu cầu xác minh. Vậy là, dù có bản án của Tòa án, người được THA vẫn phải ngược xuôi để lấy được tài sản trong thực tế.
Trong khi đó, với điều kiện kinh tế, xã hội, cơ chế quản lý, công khai tài sản chưa được hoàn thiện, minh bạch, sự hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân để người được THA thực hiện nghĩa vụ này còn chưa hiệu quả khiến nghĩa vụ xác minh điều kiện THA trở thành gánh nặng cho người được THA. Chính phủ còn cho rằng, việc người được THA gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong việc xác minh điều kiện THA, nhất là khi phải xác minh tại các cơ quan nhà nước, tổ chức tín dụng... cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tồn đọng án hiện nay.
Bày tỏ tán thành chuyển trách nhiệm xác minh điều kiện THA cho cơ quan THADS, ông Nguyễn Văn Hiện - Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp - cung cấp thêm thực tế những năm qua, việc giao trách nhiệm xác minh điều kiện THA cho người được THA và qui định họ phải chịu chi phí nếu yêu cầu cơ quan THADS xác minh đã bộc lộ nhiều bất cập, không bảo đảm quyền lợi chính đáng của đương sự. Vì thế, nên để cơ quan THADS ra quyết định THA không buộc phải có đơn yêu cầu THA, còn việc thay đổi, đình chỉ THA dựa trên việc người được THA từ bỏ quyền.
Do đó, tiếp cận từ quan điểm “việc gì có lợi cho dân thì làm”, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người được THA, Dự án Luật đã bỏ nghĩa vụ của người được THA trong việc phải chứng minh điều kiện THA của người phải THA. Nghĩa vụ này được chuyển lại cho cơ quan THADS như đã từng được qui định trước khi có Luật 2008.
Bên cạnh đó, để bảo đảm sự chủ động tham gia vào quá trình THA, Dự thảo Luật vẫn dành cho người được THA quyền xác minh, cung cấp cho cơ quan THA thông tin về tài sản, điều kiện THA của người phải THA (nếu có) hoặc ủy quyền cho người khác xác minh. “Với quy định này, quyền và lợi ích hợp pháp của người được THA sẽ được bảo vệ tốt hơn, thông qua đó, niềm tin vào pháp luật trong nhân dân sẽ được nâng lên một bước” - Bộ trưởng Hà Hùng Cường nhấn mạnh.
Nhân sửa đổi Luật THADS, nhìn lại việc THADS vụ án Vinashin để thấy, việc pháp luật về THADS qui định về quyền yêu cầu THADS đã “mở một cánh cửa” cho người được THA quyền “cản bước” cơ quan THADS trong việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, cũng như cho họ có cơ hội không tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án.
Trong vụ án Vinashin, khoản bồi thường hơn 1.000 tỷ đồng là khoản THA theo yêu cầu. Nhưng vì các “khổ chủ” của khoản bồi thường tiền tỷ này dửng dưng với việc yêu cầu THA khiến cơ quan THADS chỉ biết... ngồi chờ; không những thế còn khiến dư luận nghi ngờ về những “uẩn khúc” trong việc THA.
Việc các chủ nợ của Vinashin không yêu cầu THA đã buộc các cơ quan chức năng phải “nhờ” đến Bộ chủ quản của các doanh nghiệp trong vụ án Vinashin là Bộ GTVT xem xét, điều chỉnh để bên được THA có đơn yêu cầu THA, làm cơ sở cho việc tổ chức THA vì khoản bồi thường này được xác định chính là tài sản của Nhà nước tại các doanh nghiệp là bên được THA.
Cùng với việc “không hành động”, làm chậm tiến trình THA như trên, trong thực tiễn còn có nhiều trường hợp đương sự câu kết, lợi dụng việc được thỏa thuận THA (như qui định của Luật THADS 2008 để khuyến khích các đương sự thiện chí, hợp tác với nhau trong quá trình THA, đúng nguyên tắc “việc dân sự cốt ở đôi bên”) để trốn tránh việc THA, ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước, tập thể và cá nhân.
Tuy nhiên, sửa đổi Luật THADS lần này chưa đề cập đến việc “đối phó” với tình huống người được THA không yêu cầu THA làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba, mà chỉ bổ sung điều kiện của thỏa thuận hợp pháp của các đương sự là “không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba” và qui định khẳng định ý nghĩa của việc thỏa thuận, giá trị của việc thực hiện theo thỏa thuận, tránh tranh chấp, khiếu nại, tố cáo sau thỏa thuận.
Rõ ràng, để bên được THA tự quyết định về số phận tài sản của mình thông qua việc có làm đơn yêu cầu THA hay không là tôn trọng ý chí của người đó, nhưng việc pháp luật chưa đề cập đến trường hợp bên được THA không yêu cầu THA mà ảnh hưởng đến quyền lợi người thứ ba là một lỗ hổng, vô hình trung làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật như trường hợp THA trong vụ Vinashin nói trên.
II. THÔNG TIN KHÁC
1. Trang Chinhphu.vn có bài: Phê duyệt thành viên BCĐ cải cách hành chính của Chính phủ. Bào báo phản ánh:Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt danh sách 30 thành viên Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ được quy định tại Quyết định số 442/QĐ-TTg ngày 28/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc làm Trưởng ban Chỉ đạo.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình làm Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh làm Phó Trưởng ban Chỉ đạo.
Ban Chỉ đạo có 26 Ủy viên gồm: Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng; Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung; Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Kiều Đình Thụ; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Thành Cung; Thứ trưởng Bộ Công an, Thượng tướng Bùi Văn Nam; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hồ Xuân Sơn; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đào Quang Thu; Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng; Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng; Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Mạnh Hùng; Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến; Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa; Thứ trưởng Bộ Xây dựng Cao Lại Quang; Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Hồng Trường; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám; Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà; Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lê Khánh Hải; Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân; Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú; Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Tiến Hào; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hà Hùng; Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Nguyễn Thành Lương; Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Trần Minh Hùng; Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Nguyễn Hoài Dương; Phó Chủ tịch thường trực Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Trần Thanh Hải; Bí thư thường trực Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Nguyễn Mạnh Dũng. Ông Đinh Duy Hòa, Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ là Ủy viên thư ký.
Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ là tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện công tác cải cách hành chính theo chương trình, kế hoạch cải cách hành chính của Chính phủ.
Nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo là nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách và giải pháp quan trọng để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính của Chính phủ; cho ý kiến về chương trình, kế hoạch cải cách hành chính dài hạn và hằng năm do Bộ Nội vụ trình Chính phủ.
Ban Chỉ đạo giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính; xem xét nội dung các đề án, dự án quan trọng về cải cách hành chính của Chính phủ, các dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định và các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ có nội dung chủ yếu liên quan đến cải cách hành chính trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đồng thời, Ban Chỉ đạo giúp Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính của Chính phủ; các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định và các văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến công tác cải cách hành chính; giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc xây dựng, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác cải cách hành chính.
Ban Chỉ đạo tổng hợp, định kỳ hoặc đột xuất báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan liên quan tình hình triển khai công tác cải cách hành chính; nghiên cứu, đánh giá và kiến nghị, đề xuất với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực cải cách hành chính theo quy định của Chính phủ; thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tướng Chính phủ giao.
Ban Chỉ đạo được lập các tiểu ban hoặc nhóm công tác giúp Ban Chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính; được yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo.
2. Báo Pháp luật Việt Nam online có bài: Còn chỉ đạo xét xử, còn án oan. Bài báo phản ánh: Sau khi Chánh án TAND TP.Tuy Hòa thổ lộ về việc “phải chịu nhiều sức ép” khi TAND thành phố này tiến hành xét xử 5 bị cáo (nguyên là cán bộ công an TP.Tuy Hòa) về tội “dùng nhục hình” khiến anh Ngô Thanh Kiều tử vong, thêm một lần nữa vấn đề tính độc lập của công tác xét xử và thẩm phán lại trở thành tâm điểm.
Bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động của Tòa án theo quy định của Hiến pháp "thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm" (Khoản 2 Điều 103) là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) được TANDTC xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng qua (22/4) nhằm khắc phục được những hạn chế khiến chất lượng xét xử của các Tòa án chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
TANDTC cho rằng, nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, bất cập trong hoạt động Tòa án xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành về mô hình tổ chức Tòa án, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của Tòa án từng cấp còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, chưa đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND theo tinh thần cải cách tư pháp. Song ông Phan Trung Lý - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật - chỉ ra rằng, không chỉ ở luật hiện hành mà cả Dự thảo, tính độc lập của thẩm phán vẫn là vấn đề cần phải xem lại để nâng cao chất lượng xét xử.
Hiện nay, các TAND cấp tỉnh, cấp huyện đang được tổ chức theo địa giới hành chính nên được coi là các Tòa án địa phương. Bên cạnh đó, hội thẩm nhân dân lại do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu nên "sự phụ thuộc" của Tòa án, hội thẩm với chính quyền địa phương là "điều không tránh khỏi". Vấn đề này cũng đã được tranh luận gay gắt khi thảo luận về Luật Tố tụng Hành chính với lo ngại "sự phụ thuộc của Tòa án với địa phương khiến Tòa không thể khách quan khi xử "quan" tại địa phương".
Do vậy, trong Dự thảo Luật, TANDTC đề xuất mô hình các TAND "tổ chức và hoạt động theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính" (gồm: Toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà thượng thẩm, TANDTC), trong đó TAND sơ thẩm khu vực sẽ góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập do mô hình tổ chức "song trùng quyền lực" của TAND, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, nhất là trong việc giải quyết các vụ án hành chính, khi một bên trong vụ án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương.
Băn khoăn về vấn đề này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đề nghị Dự thảo phải thể hiện rõ hơn quyền độc lập của thẩm phán cùng việc đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại Tòa. Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện thì cho rằng cần quy định thẩm phán có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, chứ không cần qui định "và sự phân công của Chánh án Tòa án nơi mình công tác hoặc nơi mình được luân chuyển, biệt phái, điều động” như trong Dự thảo để thể hiện rõ nguyên tắc độc lập của thẩm phán.
Ủy ban Tư pháp cũng đề nghị TANDTC tiếp tục nghiên cứu, làm rõ mối quan hệ lãnh đạo, quản lý của Chánh án TAND đối với thẩm phán, Hội đồng xét xử để thực hiện đúng nguyên tắc “thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đồng thời, "hạn chế các tác động tiêu cực của việc Chánh án Tòa án tổ chức duyệt án, chỉ đạo xét xử các vụ án cụ thể xâm phạm đến quyền độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán và Hội đồng xét xử như trong thực tế hoạt động xét xử hiện nay" - ông Hiện lưu ý.
Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND lần này đã quy định nhiệm vụ xây dựng và phát triển án lệ của TANDTC. Theo Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình, phát triển án lệ và ràng buộc trách nhiệm tham khảo án lệ khi xét xử "chắc chắn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” do tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án", đồng thời cụ thể hóa quy định tại Điều 104 của Hiến pháp về việc TANDTC “bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”.
Mặc dù còn có nhiều ý kiến "ngập ngừng" trước việc đưa "án lệ" vào Dự thảo và đề nghị trước mắt chỉ quy định TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật là phù hợp với Hiến pháp, nhưng TANDTC cho rằng, việc quy định nhiệm vụ xây dựng và phát triển án lệ sẽ đáp ứng yêu cầu phải kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Hơn nữa, việc công bố án lệ sẽ "nhất cử lưỡng tiện" khi vừa giúp người dân nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích của họ, vừa là căn cứ để Tòa án (thẩm phán) tham khảo, phân tích thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó, rút kinh nghiệm, hạn chế việc kết án oan, sai.
Bên cạnh đó, từ nhiều năm nay TANDTC đã và đang thực hiện nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp, hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật dưới hình thức ban hành Nghị quyết của TANDTC, được coi là văn bản quy phạm pháp luật. Theo Ủy ban Tư pháp, "đây là hình thức rất có hiệu quả, được thực tiễn kiểm nghiệm, cần tiếp tục phát huy". Do đó, tán thành với quan điểm TANDTC phát triển án lệ, Ủy ban Tư pháp cho rằng, ở Việt Nam, “án lệ” cần phải xác định là các quyết định giám đốc thẩm của TANDTC và không phải là văn bản quy phạm pháp luật để các Tòa án khác nghiên cứu tham khảo và làm theo...