Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 4 năm 2014

01/04/2014
Trong ngày 31/3 và đầu giờ sáng ngày 01/4/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Mất nhà vì Thông tư 14, kiện được không?. Bài báo phản ánh: Mới đây có một trường hợp tương tự khởi kiện cơ quan thi hành án, được tòa thụ lý thành vụ án dân sự. Tuy nhiên, sau đó tòa lại lúng túng vì không có hướng dẫn…

Có nhiều phản ánh về bất cập ở khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14 ngày 26-7-2010 của Bộ Tư pháp - TAND Tối cao - VKSND Tối cao về kê biên bán đấu giá tài sản để thi hành án (THA) dân sự. Nhiều người đã phải chịu thiệt thòi khi ngôi nhà mình mua hợp pháp, ngay tình bị cơ quan THA kê biên để THA cho chủ nhà cũ. Người mua nhà kiện chủ nhà cũ không được vì hai bên không phát sinh tranh chấp, kiện cơ quan THA thì tòa không thụ lý…

Vừa qua, đã có một trường hợp tương tự khởi kiện cơ quan THA và được tòa thụ lý như một dạng tranh chấp dân sự.

Theo hồ sơ, năm 2011, ông Phan Cước mua hợp pháp một căn nhà ở phường Hiệp Tân, quận Tân Phú (TP.HCM). Tháng 7-2011, ông Cước đã được UBND quận Tân Phú cập nhật quyền sở hữu trên giấy hồng căn nhà.

Gia đình ông Cước chuyển về căn nhà đó sinh sống. Bất ngờ ngày 20-4-2012, Chi cục THA quận Tân Phú đã gửi thông báo cho ông Cước về việc ngăn chặn, kê biên nhà theo Thông tư 14 vì chủ nhà cũ phải thi hành ba bản án với tổng số nợ khoảng 3 tỉ đồng.

Ông Cước khiếu nại, cho rằng theo Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003, Luật Nhà ở 2005 thì nhà đất đã thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của ông (quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của người mua được xác lập kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất). Ông mua nhà hợp pháp, ngay tình, bản thân ông không liên quan gì đến việc nợ nần của chủ cũ nên việc kê biên nhà là vô lý, bất công.

Tuy nhiên, cả Chi cục THA quận và Cục THA TP.HCM đều bác khiếu nại của ông Cước với lý do việc mua bán nhà diễn ra sau khi có các bản án trên nên theo Thông tư 14 thì cơ quan THA có quyền kê biên, xử lý nhà.

 Không còn cách nào khác, ông Cước khởi kiện Chi cục THA quận Tân Phú ra TAND quận này, yêu cầu hủy văn bản thông báo ngăn chặn chuyển dịch, quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản mà chi cục đã ban hành. Theo ông Cước, không thể dùng Thông tư 14 để phủ nhận giá trị của Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Công chứng được. Tháng 3-2013, tòa đã thụ lý vụ kiện tranh chấp tài sản bị cưỡng chế THAxác định Chi cục THA quận là bị đơn.

Theo ông Cước, cuối tháng đó, khi tòa mời hai bên đến làm việc, đại diện Chi cục THA quận cho rằng việc tòa xác định họ là bị đơn là không chính xác. Họ chỉ là người liên quan vì lẽ ra ông Cước phải kiện chủ nhà cũ mới đúng. Sau đó, tòa cho các bên về và hẹn sẽ gửi thông báo làm việc tiếp. Thấy tòa giải quyết lâu, tháng 2-2014, ông Cước đã đến tòa rút đơn kiện vì cho rằng phương án khiếu nại đến Tổng cục THA sẽ nhanh hơn. Ông Cước cũng cho biết sau này ông có thể sẽ khởi kiện cơ quan THA lại.

Thẩm phán Ngô Thanh Nhàn (Phó Chánh án TAND quận Tân Phú, người trực tiếp giải quyết án) lý giải việc giải quyết vụ kiện bị kéo dài vì tòa phải xác định địa chỉ cư trú của chủ nhà cũ (hiện chuyển đi đâu không rõ).

Ông Nhàn cho biết ban đầu ông Cước khởi kiện vụ án hành chính. Tòa từ chối thụ lý vì theo Luật Tố tụng hành chính, quyết định của cơ quan THA không phải là quyết định hành chính nên không thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính. Sau đó, ông Cước khởi kiện dân sự. Đây là một loại quan hệ mới mà trong thực tiễn xét xử các tòa thường từ chối thụ lý vì không rõ có thuộc thẩm quyền hay không. Tuy nhiên, ở vụ này lãnh đạo TAND quận Tân Phú chỉ đạo trước mắt cứ thụ lý và xác định Chi cục THA quận là bị đơn. Sau đó tòa sẽ tham khảo ý kiến của TAND TP.HCM cũng như các quận, huyện khác, nếu không giải quyết được thì ra quyết định đình chỉ cũng không muộn. Trên thực tế, nếu ông Cước không rút đơn kiện thì TAND quận Tân Phú cũng chưa biết giải quyết tiếp ra sao vì chưa có hướng dẫn cụ thể.

Vụ việc trên đặt ra vấn đề pháp lý: Những người mua nhà hợp pháp, ngay tình nhưng bị kê biên theo Thông tư 14 như ông Cước có thể kiện cơ quan THA ra tòa bằng vụ án dân sự được không?

Theo Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM) và luật sư Nguyễn Thế Phong (Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Long An), chỉ cần xác định đúng quan hệ tranh chấp thì tòa hoàn toàn có thể thụ lý, giải quyết bằng vụ án dân sự.

Chẳng hạn trong vụ của ông Cước, nếu từ đầu tòa xác định đây là vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị kê biên tài sản thay vì vụ án tranh chấp tài sản bị cưỡng chế THA thì sẽ giải quyết được. Ông Cước là người bị thiệt hại, ông cho rằng người gây ra thiệt hại là Chi cục THA quận. Ông Cước tìm chứng cứ chứng minh hành vi kê biên nhà của Chi cục THA sai và có quan hệ nhân quả với thiệt hại ông phải chịu, còn Chi cục THA cũng phải chứng minh việc mình áp dụng quy định pháp luật là đúng hay sai. Nếu cho rằng mình không có lỗi thì THA phải chứng minh mình đã áp dụng đúng. Kết quả cuối cùng do tòa đánh giá quyết định xem cơ quan THA có phải bồi thường hay không. Còn nếu tòa thụ lý thành vụ án tranh chấp tài sản bị cưỡng chế THA thì tòa sẽ không giải quyết được vì thực tế không có loại tranh chấp này.

Theo Thẩm phán Hùng, hiện nay tình trạng mua nhà hợp pháp, ngay tình rồi bị kê biên vì nợ nần của chủ cũ đã diễn ra khá nhiều, có những trường hợp bị thiệt hại lên đến hàng chục tỉ đồng. Vì vậy, TAND Tối cao cần phải có hướng dẫn xác định quan hệ tranh chấp và các tư cách tham gia vụ án cho các tòa cấp dưới để áp dụng thống nhất.

2. Báo Hà Nội mới online có bài Rào cản từ cơ chế và đội ngũ trợ giúp. Bài báo phản ánh:  Theo phản ánh của đội ngũ luật sư và các chuyên gia pháp luật, trong bối cảnh công tác trợ giúp pháp lý (TGPL), đặc biệt là lĩnh vực tố tụng chưa đạt kết quả như kỳ vọng, cần xem lại thể chế và sớm có giải pháp lấp những lỗ hổng cản trở việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người được TGPL.

         Theo Bộ Tư pháp, đến nay, 87% CQTHTT, trại tạm giam, nhà tạm giữ đã lắp đặt bảng thông tin, hộp tin về TGPL tại nơi tiếp dân, trụ sở UBND các cấp. Hoạt động truyền thông về lĩnh vực này ngày càng đa dạng. Nhưng đang có một nghịch lý là so với trước khi có Chiến lược TGPL của Chính phủ, tỷ lệ vụ việc tham gia tố tụng do luật sư cộng tác viên thực hiện giảm 2,2%. Chỉ tiêu bảo đảm 50-60% số tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật tham gia thực hiện TGPL (giai đoạn 2011-2015) không khả thi khi hiện nay mới đạt 10,6%. Đặc biệt, nhiều tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL nhưng không thực hiện TGPL.

        Lý giải hiện tượng này, luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh) cho rằng, nguyên nhân sâu xa không hẳn do CQTHTT chưa quan tâm đến hoạt động TGPL mà vì CQTHTT đã xây dựng nhiều rào cản khiến cả lực lượng TGPL và người thụ hưởng phải chịu ảnh hưởng. Ngoài ra, còn do thể chế còn bất cập. Hiện để được cấp giấy chứng nhận bào chữa có quá nhiều giấy tờ luật sư cộng tác viên TGPL phải lo, gồm thẻ luật sư, chứng chỉ hành nghề (bản sao có công chứng); giấy giới thiệu của văn phòng luật sư hoặc quyết định cử luật sư cộng tác viên tham gia tố tụng của trung tâm TGPL. Trong khi đó, do thiếu thông tin, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng chưa quy định cụ thể về thủ tục này nên hầu hết luật sư không biết phải gửi các giấy tờ thủ tục liên quan để yêu cầu CQTHTT cấp giấy chứng nhận bào chữa cho mình tại bộ phận nào. Có cơ quan điều tra (CQĐT) quy định luật sư phải gửi các thủ tục nêu trên cho đội điều tra tổng hợp, có nơi quy định luật sư phải gửi trực tiếp cho điều tra viên thụ lý để được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Để biết được điều tra viên nào trực tiếp thụ lý vụ án là một điều không dễ, lại tốn rất nhiều thời gian.

Việc CQĐT gây khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận bào chữa vô hình trung đã vi phạm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được luật pháp quy định, không phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp của Nhà nước theo Nghị quyết 49/NQ-TƯ của Bộ Chính trị, nhưng lại là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều tỉnh, thành phố. Khi bị gây khó, các luật sư cũng ngại đụng chạm, ngại thực hiện TGPL bởi nhiều trường hợp luật sư mạnh dạn khiếu nại lên người có thẩm quyền thì sau đó họ lại bị CQĐT gây khó dễ nhiều hơn trong các vụ án tiếp theo.

Không chỉ gặp cản trở trong quá trình TGPL, không ít luật sư thuộc các Đoàn Luật sư Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng phản ánh, Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP (ngày 2-10-2004) của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên đang tước đi quyền bào chữa (nhờ người khác bào chữa) của bị cáo là người chưa thành niên khi phạm tội. Cụ thể, Nghị quyết số 03 hướng dẫn, khi bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì CQĐT, VKS hoặc tòa án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Do đó, trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là người chưa thành niên, nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì họ không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự. Vin vào điều này, số trường hợp đối tượng được TGPL là người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự nhưng khi đưa ra xét xử thì bị cáo đã đủ 18 tuổi, tòa án cho rằng bị cáo đã thành niên nên không thông báo cho luật sư là cộng tác viên của trung tâm TGPL biết để tham gia tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền bào chữa của họ. Dù theo luật sư Đoàn Hữu Thái (Đoàn Luật sư Hà Nội) và nhiều đồng nghiệp khác, đặc điểm người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần; là người đang ở giai đoạn phát triển và hình thành nhân cách, chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình lúc phạm tội. Chính vì lẽ đó, họ không thể tự mình bào chữa cho hành vi vi phạm pháp luật của mình, mặc dù đã thành niên khi xét xử.

Nhìn từ phía nhà nước, một số quy định hiện hành đang gây khó cho chính lực lượng TGPL. Điều 20 Luật TGPL quy định, người thực hiện TGPL là viên chức của Trung tâm TGPL nhà nước, cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước; luật sư; tư vấn viên pháp luật làm việc trong tổ chức tư vấn pháp luật. Tuy nhiên, theo các văn bản hiện hành, tiêu chuẩn giữa các đối tượng này lại rất khác nhau. Tại khoản 1 Điều 21 Luật TGPL nêu: Người TGPL phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL; thời gian làm công tác pháp luật từ 2 năm trở lên… Nghị định số 14/2013/NĐ-CP(5-2-2013) sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngoài các yêu cầu nêu trên, còn "vẽ" thêm một số yêu cầu mới, như: Phải là cán bộ đang làm việc trong Trung tâm TGPL nhà nước, được Cục TGPL-Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL theo quy định của pháp luật. Mâu thuẫn về chế định TGPL đang đặt ra yêu cầu cần sửa sai.

Một vấn đề nữa cần mạnh dạn đổi mới, đó là tăng cường thanh kiểm tra hoạt động TGPL tại các CQTHTT. Thời gian qua hoạt động này chưa thường xuyên. Trong khi đó, chỉ qua thanh, kiểm tra mới phát hiện được nhiều thiếu sót và các bất cập phát sinh, nhất là trong cơ chế phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng. Hơn nữa, qua thanh, kiểm tra còn giúp phát hiện, tháo gỡ những vướng mắc, đáp ứng kịp thời nhu cầu được TGPL của tất cả những ai có nhu cầu…

II. THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Pháp luật online có bài Bộ Công an kêu khó với nhiều quy định tại Bộ luật Hình sự. Bài báo phản ánh: Một loạt khó khăn trong quá trình thi hành Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999 đã được Bộ Công an liệt kê gửi Bộ Tư pháp, trong đó có những quy định liên quan đến hình phạt tử hình, mức hình phạt tối đa đối với người chưa thành niên phạm tội.

Tổng hợp thống kê báo cáo của Bộ Công an cho thấy, từ năm 2008 đến năm 2012, các cơ quan điều tra trong Công an nhân dân (CAND) và các cơ quan khác trong CAND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã khởi tố 340.130 vụ án hình sự, với 532.548 bị can, chiếm gần 99% số lượng vụ án hình sự và trên 99% số bị can bị khởi tố trong toàn quốc. Tuy nhiên, Bộ Công an cho rằng nhiều quy định tại BLHS hiện hành đang “bó tay” lực lượng thực thi công vụ. 

Chẳng hạn, về các quy định ở Phần chung của Bộ luật, Bộ Công an khẳng định nhiều quy định mới chỉ dừng lại ở mức quy định chung, khái quát, cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn bảo đảm thống nhất trong việc áp dụng. Ví dụ như Điều 2 quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự chưa rõ ràng như thế nào là trách nhiệm hình sự, thời điểm phát sinh và kết thúc trách nhiệm hình sự; thẩm quyền xác định trách nhiệm hình sự. 

Ngoài ra, BLHS cũng chưa có các khái niệm về “nhiều tội phạm”, “phạm nhiều tội”, “phạm tội nhiều lần” dẫn đến nhầm lẫn trong áp dụng pháp luật. Có trường hợp hai hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị xét xử về một tội, trong khi đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị xét xử về hai tội. 

Tại Điều 8, khái niệm tội phạm chưa bảo đảm tính khái quát; việc liệt kê các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ vừa dài, vừa thiếu, chưa khoa học; việc phân loại tội phạm quy định tại Khoản 3 Điều này chưa phù hợp với tên gọi của điều luật; đồng thời khó xác định thế nào là “nguy hại không lớn”; “nguy hại rất lớn”, “nguy hại đặc biệt lớn” cho xã hội. 

Điều 15, điều luật quy định về phòng vệ chính đáng còn mang tính nguyên tắc, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là đấu tranh phòng, chống tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật về chống người thi hành công vụ. 

Tại Điều 25, điều luật chưa xác định cụ thể về thế nào là do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nên dẫn đến một số trường hợp áp dụng pháp luật không thống nhất.

Cũng theo kiến nghị của Bộ Công an, một số quy định về hình phạt không phù hợp với thực tiễn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải tạo, giáo dục người phạm tội. Trong đó, hình phạt cảnh cáo quy định tại Điều 29, do tính cưỡng chế không cao, tác dụng phòng ngừa, giáo dục của hình phạt này rất hạn chế; đồng thời, với điều kiện áp dụng là đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt nên trên thực tế, hình phạt này ít được áp dụng. 

Về hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 31, Bộ Công an khẳng định hình phạt này rất ít được áp dụng trên thực tế, tác dụng giáo dục, răn đe không cao, nội dung và cơ chế xử lý tương tự như án treo lại không có cơ chế giám sát, giáo dục nghiêm khắc nên có thể phát sinh sai phạm, tiêu cực trong quá trình áp dụng.

Một loạt các bất cập khác tại các quy định của BLHS 1999 cũng được Bộ Công an chỉ ra như:  “Tại Điều 35, việc duy trì hình phạt tử hình trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay song cần nghiên cứu bổ sung các quy định về điều kiện, đối tượng hoãn thi hành hình phạt tử hình cho đầy đủ”.  

Thêm vào đó, một số quy định liên quan đến quyết định hình phạt chưa phù hợp như Điều 46 chưa quy định trường hợp đối tượng truy nã ra đầu thú, phạm nhân trốn trại ra đầu thú là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên gây khó khăn cho công tác vận động đối tượng truy nã ra đầu thú cũng như việc áp dụng chính sách hình sự đối với đối tượng truy nã ra đầu thú.  

Bộ này cũng cho rằng, Điều 74 quy định mức hình phạt tối đa đối với người chưa thành niên phạm tội không còn phù hợp với thực trạng tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trong thời gian gần đây, nhất là các vụ án giết người, cướp tài sản đặc biệt nghiêm trọng, gây bất bình trong dư luận xã hội và gia đình người bị hại. Điều 75 chưa quy định phương pháp tổng hợp hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, trong đó các tội phạm đều được thực hiện khi chưa đủ 18 tuổi. 

Nhiều quy định ở Phần các tội phạm của Bộ luật như về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, các tội phạm sở hữu, các tội phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về ma túy,  các tội xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, các tội tham nhũng… cũng đang được Bộ Công an kiến nghị sửa đổi cho phù hợp. 

            2. Các Báo Nhân dân, Tiền phong và Đất Việt có bài Cấp CMND mới: Lỗi kỹ thuật không tha công nghệ tiền tỷ. Bài báo phản ánh: Do trục trặc kỹ thuật và chưa thuần thục về mặt thao tác kỹ năng vận hành công nghệ mới, HN tạm dừng cấp CMND theo mẫu mới.

Ngày 31/3, Đại tá Vũ Xuân Dung, Cục trưởng Cục cảnh sát Đăng ký Quản lý Cư trú và Dữ liệu Quốc gia về Dân cư (C72 - Bộ Công an) đã nói như vậy.

Thông tin báo Tiền Phong cho biết, việc triển khai cấp CMND theo mẫu mới tại 26 quận, huyện (có 3 quận huyện đã được cấp từ trước) có một số trục trặc về mặt kỹ thuật như nghẽn mạng, đường truyền, thiết bị chụp ảnh bị rò điện... và chưa nhận được lệnh cấp CMND mẫu mới vào ngày 1/4.

Theo dự kiến, việc cấp chứng minh nhân dân mới 12 số sẽ được áp dụng trên toàn thành phố Hà Nội bắt đầu từ ngày 01/4/2014.

Theo tính toán để thực hiện cấp chứng minh thư phổ cập trên toàn quốc sẽ phải cần hàng nghìn tỷ đồng.

Cả nước hiện chỉ có hai điểm in chứng minh thư mới gồm Hà Nội và TP.HCM, được đầu tư 450 tỷ đồng.

Tại Trung tâm Chứng minh nhân dân của Bộ Công an, mỗi giờ, một chiếc máy in chứng minh thư hiện đại có thể cho ra đời 700 chứng minh thư mới.

Chất liệu của loại chứng minh thư này giống như các nước tiên tiến đang sử dụng – composite, khó hư hỏng khi bị rơi xuống nước, khó làm giả.



File đính kèm