I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Liên ngành "ra tay" ngăn tình trạng đòi nợ kiểu "xã hội đen". Bài báo phản ánh: Thu hồi những khoản nợ là một trong những công việc khó khăn đối với nhiều tổ chức tín dụng (TCTD), nhất là khi nhiều chủ nợ đã “lách luật”, biến các khoản nợ từ có bảo đảm thành không có bảo đảm hay lợi dụng các qui định của pháp luật để… xù nợ.
“Cưng chiều” con nợ khiến nợ khó đòi. Đó là “cáo buộc” của nhiều tổ chức tín dụng, chuyên gia ngân hàng đối với các qui định pháp luật về giao dịch bảo đảm hiện hành. Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) cho thấy, những khó khăn, vướng mắc của công tác này có một phần nguyên nhân là hệ thống pháp luật phân tán, thiếu đồng bộ khiến cho việc thu hồi nợ của các TCTD từ việc xử lý TSBĐ chưa hiệu quả và thường gây tốn kém về thời gian và tài chính cho các bên liên quan.
Phản ánh của đại diện một số TCTD lớn cho thấy, mặc dù là chủ nợ hợp pháp nhưng đôi khi TCTD không thể tự xử lý TSBĐ để thu hồi nợ vì căn cứ vào qui định của Khoản 1 Điều 143 và Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Dân sự 2005 và các qui định của luật chuyên ngành, một số cơ quan chức năng không công nhận TCTD là “người được ủy quyền” của chủ tài sản, dù giữa TCTD đã có hợp đồng ủy quyền của chủ tài sản để xử lý TSBĐ cho nghĩa vụ trả nợ của chủ tài sản. Rồi các qui định của pháp luật liên quan đến bán đấu giá tài sản trong một số trường hợp cũng “ngáng trở” TCTD xử lý dứt điểm TSBĐ để thu hồi nợ.
Nhưng có lẽ khó nhất trong quá trình thu hồi nợ từ xử lý TSBĐ chính là việc thu giữ TSBĐ. Trên thực tế, khi thực hiện giao dịch bảo đảm, TCTD chỉ trực tiếp cầm giữ giấy tờ sở hữu liên quan đến TSBĐ. Vì thế, khi người giữ TSBĐ không bàn giao tài sản thì TCTD chỉ còn biết “đứng nhìn tài sản mà ôm cục nợ”.
Vốn là quan hệ dân sự, ngoài việc thuyết phục, vận động, TCTD cũng khó có thể yêu cầu các cơ quan chức năng can thiệp để lấy được TSBĐ từ người cầm giữ cho dù đã có sự “hiện diện” của Nghị định số 163/2006/NÐ-CP (ngày 29/12/2006) của Chính phủ về việc UBND xã/phường và cơ quan Công an phối hợp, hỗ trợ ngân hàng xử lý TSBĐ để thu nợ.
Không chỉ các TCTD rơi vào tình trạng “có TSBĐ mà vẫn không thu hồi được nợ”, nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cũng đã phải lao đao trên hành trình thu hồi tài sản đã được cho vay. Nhiều vụ việc đã phải nhờ đến cơ quan tòa án. Song, “tiến hành một vụ kiện là bắt đầu cho một con đường chông gai khác để bản án có hiệu lực của tòa án được thi hành và chủ nợ thu hồi được nợ” như một số chủ nợ than thở.
Theo phản ánh của nhiều luật sư, lượng án dân sự có hiệu lực không thể thi hành một phần do người phải thi hành án chây ỳ, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ dẫn đến những khoản nợ khó đòi tồn đọng ngày càng nhiều nên các cơ quan thi hành án dân sự ở các địa phương và cả thừa phát lại (đang được triển khai ở một số địa phương) dù “căng hết lực lượng” cũng không thể giải quyết được hết các yêu cầu thi hành án.
Vì thế, các dịch vụ đòi nợ hợp pháp đã được nhiều doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức lựa chọn sử dụng để lấy lại tài sản của mình và tạo điều kiện cho sự ra đời của các công ty “đòi nợ”, “thu hồi nợ” với những slogan khá hấp dẫn như “Tiền của bạn phải về túi bạn”, “Uy tín, hợp pháp, thu hồi nợ nhanh”, “Đòi nợ giúp công ty, tổ chức nhanh theo pháp lý, an toàn, hiệu quả, uy tín”… Song cũng có nhiều người đã tìm đến các dịch vụ đòi nợ “đen”, dẫn đến những vụ việc hành xử bạo lực, dùng mọi chiêu trò để hoàn thành việc đòi nợ, gây bất ổn cho xã hội.
Trước bất cập, khó khăn trong hoạt động thu hồi nợ đó, nhiều kiến nghị đã được đưa ra để giúp các chủ nợ đối phó với những khoản nợ xấu do sự chây ỳ của con nợ. Một giải pháp đang được cho là có nhiều “sức nặng” là có sự can thiệp, hỗ trợ của chính quyền, cơ quan chức năng trên địa bàn đối với việc thu giữ TSBĐ thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến không tán thành việc cơ quan chức năng can thiệp vào quan hệ vay nợ và thu hồi nợ vì cho rằng đây là quan hệ dân sự.
Nhưng với nhiều chuyên gia pháp lý và các TCTD, trong điều kiện ý thức chấp hành pháp luật hiện nay, nếu thiếu sự can thiệp, hỗ trợ của cơ quan chức năng thì những khoản nợ khó đòi sẽ ngày càng nhiều. Chính Sở Tư pháp TP.Hà Nội đã từng phải có Công văn số 1192/STP-BTTP (ngày 28/5/2013) gửi Công an TP đề nghị chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, Công an các quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn tăng cường phối hợp, hỗ trợ các TCTD trong việc bàn giao, thu giữ, bảo vệ và xử lý TSBĐ.
Phó Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (Bộ Tư pháp) Hồ Quang Huy cho biết: “Trong Dự thảo Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước (dự kiến sẽ sớm được ban hành) đã qui định cụ thể về việc hỗ trợ của UBND cấp xã và cơ quan Công an cho việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ được an toàn, ngăn chặn kịp thời việc gây mất trật tự, trị an của người giữ tài sản”.
Việc hỗ trợ này chỉ dưới hình thức “chứng kiến” và “can thiệp nếu có hành vi chống đối, gây mất trật tự” như qui định tại Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP song cũng sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để bảo đảm cho quyền thu giữ TSBĐ của cá nhân, tổ chức nhận bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật và thỏa thuận hợp pháp của các bên trong hợp đồng bảo đảm, hạn chế những hoạt động “đòi nợ đen” và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật cũng như sự an toàn cho các giao dịch bảo đảm.
2. Báo Người Lao động có bài Không thể bàng quan. Bài báo phản ánh: Hết chuyện người dân “tự xử” nay kết quả cuộc khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) lại gây nhiều quan ngại về xu hướng các doanh nghiệp thích xài “luật rừng” để đòi nợ.
Cuộc khảo sát của VCCI mới đây cho thấy với các khoản nợ khó đòi, nếu kiện ra tòa và thu qua cơ quan thi hành án thì hiệu quả chỉ khoảng 50% với thời gian kéo dài tới 400 ngày. Trong khi đó, nhờ tới “xã hội đen” đòi nợ, tỉ lệ thành công đạt 90% và chỉ mất từ 15-30 ngày. Thế nên, dù chi phí kiện ra tòa và thu qua thi hành án mất từ 20%-30% khoản nợ (chỉ bằng một nửa so với chi phí thuê “xã hội đen” vốn chiếm từ 40%-70% khoản nợ) nhưng chỉ gần 30% số doanh nghiệp được khảo sát nhờ đến pháp luật.
Tất nhiên, cuộc khảo sát được tiến hành trong khuôn khổ hẹp với một lượng số doanh nghiệp nhất định nên chưa thể bao quát hết bức tranh thu nợ khó đòi hiện nay của các doanh nghiệp. Dù vậy, kết quả này vẫn khiến một thành viên Ban Pháp chế VCCI thảng thốt, giật mình. Bởi lẽ, khi đề cập đến phương án chọn khởi kiện ra tòa và sử dụng cơ quan thi hành án, vị này nhận được quá nhiều cái lắc đầu của doanh nghiệp.
Đúng là không thể bàng quan trước hiện tượng đáng lo ngại này. Cũng không thể thôi bất an trước việc các doanh nghiệp vốn hiểu biết pháp luật và đủ khả năng kinh tế theo đuổi các vụ kiện tụng lại phải viện đến “luật rừng” để đòi quyền lợi hợp pháp của mình.
Hiện tượng doanh nghiệp tìm cách “tự xử” diễn ra trong bối cảnh dư luận đã lên tiếng về việc có quá nhiều vụ người dân “thay trời hành đạo”. Có những xuất phát điểm khác nhau dẫn tới kết cục người dân hay doanh nghiệp “tự xử”. Đó có thể là chế tài pháp luật quá nhẹ với những kẻ trộm chó hay thủ tục rườm rà, nhiêu khê trong thi hành án… và cũng có thể là hiệu năng của cơ quan hữu trách khiến người dân kìm nén lâu ngày, đến mức phải bùng nổ. Song dù xuất phát điểm và nguyên nhân gì thì việc để người dân và doanh nghiệp phải hành động trái luật cũng phản ánh phần nào sự mất niềm tin vào pháp luật và cơ quan thực thi pháp luật.
Thượng tôn pháp luật không thể chỉ là khẩu hiệu. Thượng tôn pháp luật trước hết cần thể hiện mạnh mẽ nhất tại chính các cơ quan thực thi pháp luật. Chắc chắn sẽ chẳng có người dân nào “tự xử” khi thấy mọi hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý nghiêm minh. Tương tự như vậy, sẽ chẳng có doanh nghiệp nào tính tới việc thuê “xã hội đen” để đòi nợ nếu việc thi hành án nghiêm chỉnh và nhanh chóng đúng như phán quyết của tòa.
3. Báo Lao động có bài Vụ vỡ nợ trên 70 tỉ đồng ở Bình Phước: Hàng chục nạn nhân vô vọng. Bài báo phản ánh: Ngày 20.2, ông Nguyễn Văn Trăm – Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước (BP) – đã họp với Ban chỉ đạo thi hành án (THA) dân sự, nhằm tìm giải pháp THA vụ vợ chồng Phan Tấn Sơn – Huỳnh Thị Lý (hộ khẩu tại 1127 Phú Riềng Đỏ, P.Tân Bình, TX.Đồng Xoài) huy động hàng chục tỉ đồng của người dân vào năm 2009, rồi tuyên bố vỡ nợ... Vụ việc đến nay vẫn chưa được xử lý dứt điểm...
Năm 2000 – 2010, với bình phong bán hàng tạp hóa và cầm đồ, có chồng từng làm ngân hàng, bà Lý đã huy động hàng chục tỉ đồng của người dân ở TX.Đồng Xoài. Bà N.T.X cho biết: “Bà Lý trả lãi suất 3 - 4%/tháng, nên nhiều người ham, gom tiền giao cho bà Lý”.
Đầu năm 2010, khi vụ việc vỡ lở, tháng 3.2010, công an tỉnh khởi tố bị can đối với bà Lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Nhưng Viện KSND tỉnh lại hủy quyết định khởi tố, vì cho rằng “quan hệ dân sự”. Hàng chục nạn nhân chỉ biết cắn răng chịu đựng, hy vọng mong manh bà Lý bán tài sản trả nợ...
Vì vậy, suốt 3 năm qua, dù có hơn 40 người bị bà Lý chiếm dụng gần 70 tỉ đồng, nhưng chỉ có gần 10 người nộp đơn khởi kiện bà Lý ra tòa. Ngay sau khi thoát trách nhiệm hình sự, vợ chồng, con cái bà Lý đã... biến mất khỏi địa phương. Cuối năm 2010, sau khi bán đấu giá tài sản của vợ chồng bà Lý được 12,5 tỉ đồng, cơ quan THA quyết định “THA theo đơn yêu cầu”, chỉ trả nợ cho 7 người.
Nhiều người phản ứng, cho rằng vợ chồng bà Lý nợ trên 40 người, thì tiền bán tài sản phải trả cho tất cả nạn nhân mới công bằng. Chi cục THA dân sự TX.Đồng Xoài cho biết, những người làm đơn kiện vợ chồng bà Lý ở những thời điểm khác nhau, tài sản kê biên tới đâu, sẽ giải quyết trả cho những người nộp đơn tới đó...
Nhưng cũng có ý kiến,THA làm theo bản án, chỉ cá nhân, tổ chức có tên trong bản án của tòa án mới có quyền yêu cầu THA... Song, nhiều cơ quan chức năng khác ở BP lại cho rằng, giải quyết kẻ trước người sau, càng tăng thêm khiếu nại, mất an ninh - trật tự địa phương...
Tại cuộc họp với Chủ tịch UBND tỉnh, cơ quan THA dân sự báo cáo: Số tiền thu được từ xử lý tài sản của vợ chồng bà Lý sau khi trả nợ 2 ngân hàng, trừ các khoản chi phí cưỡng chế... số tiến chỉ còn lại 4,7 tỉ đồng đang được gửi tại ngân hàng theo quy định. Trong khi đó, 44 nạn nhân, với món nợ phải trả trên 70 tỉ đồng.
Ông Nguyễn Văn Trăm - Chủ tịch UBND tỉnh BP – cho rằng: “Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản quá ít, trong khi chủ nợ thì nhiều. Nếu lấy số tiền này đưa ra chi trả thì không được bao nhiêu. Sau khi chia xong, số nợ còn lại phải tính ra sao?
Vợ chồng Lý- Sơn phải chịu trách nhiệm như thế nào với hàng chục nạn nhân? Số tiền vợ chồng Lý- Sơn huy động đã đi đâu? Chúng ta phải giải quyết tận gốc vấn đề, không thể “đánh bùn sang ao” là vô hình trung tiếp tay cho những việc làm sai”.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Điều kiện tách thửa đất tại TP.HCM bị “thổi còi”. Bài báo phản ánh: Hai quyết định của UBND TP.HCM về diện tích tối thiểu khi tách thửa (Quyết định 19/2009 và Quyết định 54/2012) vừa bị Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp (gọi tắt là Cục Kiểm tra văn bản) “tuýt còi”. Theo cục này, TP đặt ra những điều kiện không được quy định trong luật và ngoài thẩm quyền, gây khó cho dân.
Tại các quyết định 19/2009 và 54/2012, UBND TP quy định: Trường hợp toàn bộ thửa đất được hình thành sau khi tách thửa đều sử dụng vào mục đích đất ở thì ngoài điều kiện phù hợp quy hoạch đất ở, còn phải đáp ứng yêu cầu sau: “Thửa đất từ 1.000 m2 đến 2.000 m2 thì phải có phương án đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Việc tách thửa chỉ được thực hiện sau khi phương án này được thực hiện và có nghiệm thu của UBND quận, huyện nơi có thửa đất”. Với thửa đất trên 2.000 m2, TP yêu cầu phải lập dự án theo quy định.
Về mặt thẩm quyền, Cục Kiểm tra văn bản cho rằng theo Nghị định 84/2007, UBND cấp tỉnh được ban hành quy định về diện tích tối thiểu khi tách thửa của từng loại đất tùy theo tình hình thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, yêu cầu phải lập phương án hạ tầng kỹ thuật với thửa đất trên 1.000 m2 và phải lập dự án với thửa đất trên 2.000 m2 thì “không có trong các quy định của các văn bản hiện hành, cũng không có quy định giao UBND cấp tỉnh ban hành các điều kiện trên” - cục nhận định.
Về mặt nội dung, cục cho rằng quy định pháp luật không đặt ra những yêu cầu trên. Mặt khác, những điều kiện này lại được quy định thiếu cụ thể, do đó “có thể gây khó khăn cho người sử dụng đất khi thực hiện các quyền của mình”.
Sau khi có ý kiến của Cục Kiểm tra văn bản, Sở Tư pháp TP đã tổ chức cuộc họp lấy ý kiến các sở, ngành liên quan. Sở Xây dựng, Sở TN&MT… đều bảo lưu quan điểm cần có những quy định trên để chống hình thành những khu nhà ở tự phát, không có hạ tầng. Các địa phương cũng cho rằng hai quyết định trên có hiệu quả trong quản lý đất đai.
“Nếu cho phép tách thửa tràn lan thì những khu vực đất nông nghiệp sẽ chuyển hoàn toàn thành nhà ở, không có cây xanh, trường học, không đường sá, thoát nước… Áp lực gia tăng dân số cơ học càng nặng nề khi dân cư đổ về đây. Những hậu quả này Nhà nước sẽ phải gánh” - ông Nguyễn Văn Trường, Phó Chủ tịch UBND huyện Nhà Bè, nhận xét.
Đồng tình, Phó Chủ tịch UBND quận 12 Nguyễn Tương Minh cho rằng: “Với những khu vực vùng ven, đất trống lớn thì việc yêu cầu có tổng mặt bằng khu đất khi tách thửa thành đất ở có đường sá, chiếu sáng, phòng cháy, chữa cháy… là hết sức cần thiết cho người dân khi xây nhà ở lẫn quản lý nhà nước. Nếu không quy định rõ ràng sẽ tạo ra những khu nhà ổ chuột mới”. Cũng theo ông Minh, những yêu cầu của TP không có gì khó thực hiện với người sử dụng đất.
Được biết Sở Tư pháp đang đề nghị các sở TN&MT, Xây dựng, QH-KT… có ý kiến bằng văn bản, trong đó phân tích rõ lý do về mặt yêu cầu thực tiễn cần phải đặt ra những quy định này, để TP giải thích với Cục Kiểm tra văn bản.
II- THÔNG TIN KHÁC
Trang Info.net có bài Vì sao Bộ Xây dựng ban hành 2 công văn vượt thẩm quyền?. Bài báo phản ánh: Không chỉ có Thông tư 16 của Bộ Xây dựng mà ngay cả 2 công văn do 2 cơ quan chuyên môn của Bộ này trả lời chủ đầu tư đã khiến dư luận nghi ngờ về động cơ và lợi ích nhóm.
Nhóm nghiên cứu thuộc Ủy ban Pháp luật của Quốc hội nhìn nhận: Công văn số 124/QLN, công văn số 397/TTr-TH của hai cơ quan chuyên ngành thuộc Bộ Xây dựng với phương thức xác định kích thước từ tim tường bao, tường phân chia căn hộ đã “biến” toàn bộ diện tích thuộc sở hữu chung quy định tại Nghị định 71/2010/NĐ-CP nằm bên trong căn hộ trở thành phần sở hữu riêng.
Theo tìm hiểu của PV Infonet, công văn số 124/QLN được ông Nguyễn Mạnh Hà, Cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) ký ngày 21/12/2010 để trả lời công văn số 776/CDC-XN3 ngày 8/12/2010 của Công ty CP Tư vấn đầu tư và Thiết kế Xây dựng Việt Nam (CDC) đề nghị hướng dẫn cách tính diện tích căn hộ nhà chung cư.
Theo đó, văn bản này hướng dẫn việc tính diện tích sàn căn hộ nói rõ: “Đối với phương thức xác định kích thước thông thủy thì diện tích sàn căn hộ (phần sở hữu riêng) phải được trừ đi diện tích thuộc sở hữu chung quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 49 của Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ (như cột, tường chịu lực….) nằm bên trong phạm vi căn hộ.
Đối với phương thức xác định kích thước tính từ tim tường thì diện tích sàn căn hộ không phải trừ diện tích thuộc sở hữu chung nêu trên”.
Như vậy, tại công văn số 124/QLN nêu trên, Cục Quản lý Nhà và thị trường bất động sản, một đơn vị chuyên môn của Bộ Xây dựng ban hành hướng dẫn chi tiết cách tính diện tích căn hộ nhà chung cư có nhắc đến sở hữu chung và sở hữu riêng.
Hướng dẫn tương tự lại tiếp tục xuất hiện tại công văn số 397/TTr-TH ngày 7/11/2013 của Thanh tra Bộ Xây dựng do ông Phạm Gia Yên, Chánh Thanh Tra Bộ ký.
Sở dĩ có văn bản số 397 trên là do Tập đoàn Nam Cường đã có văn bản gửi lên Bộ Xây dựng sau khi người mua nhà tại dự án khu đô thị Dương Nội (nay đổi tên là khu đô thị Sparks) nhiều lần căng băng rôn phản đối chủ đầu tư là Tập đoàn Nam Cường tính cả diện tích cột, hộp kỹ thuật vào diện tích căn hộ bán cho người dân.
Điều đáng nói, văn bản Tập đoàn Nam Cường ký gửi đến Bộ Xây dựng là ngày 5/11/2013, rất nhanh chóng, ngày 7/11, Thanh tra Bộ Xây dựng đã có văn bản trả lời về cách tính diện tích căn hộ.
Theo công văn này, Thanh tra Bộ Xây cho biết qua nghiên cứu các văn bản pháp luật như Nghị định 71, Thông tư 16 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 71/2010/NĐ-CP và Công văn số 124/QLN ngày 21/12/2010 của Cục Quản lý nhà – Bộ Xây dựng về hướng dẫn cách tính diện tích căn hộ nhà chung cư quy định việc xác định diện tích căn hộ có 2 cách tính: theo thông thủy hoặc tính kích thước từ tim tường bao, tường ngăn chia căn hộ.
Công văn 397 cũng nêu rõ: đối với phương thức xác định kích thước từ tim tường thì diện tích sàn căn hộ không phải trừ diện tích thuộc sở hữu chung.
Đặc biệt, công văn này còn được Thanh tra Bộ Xây dựng khẳng định: "Hợp đồng được ký kết dựa trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận giữa hai bên. Vì vậy, chủ đầu tư tính diện tích căn hộ chung cư theo tim tường là không trái với các quy định của pháp luật về nhà ở. Bởi vì, về nguyên tắc thì toàn bộ chi phí đầu tư xây dựng công trình nhà chung cư bao gồm phần móng, khung, cột, tường chịu lực, phần căn hộ, hành lang, cầu thang… cả phần sở hữu riêng của căn hộ và phần sở hữu chung đều được tính vào giá bán các căn hộ".
Trước thực trạng của 2 công văn trên, nhóm nghiên cứu thuộc Ủy ban Pháp luật của Quốc hội nhìn nhận: Công văn số 124/QLN, công văn số 397/TTr-TH của hai cơ quan chuyên ngành thuộc Bộ Xây dựng với phương thức xác định kích thước từ tim tường bao, tường phân chia căn hộ đã “biến” toàn bộ diện tích thuộc sở hữu chung quy định tại Nghị định 71/2010/NĐ-CP nằm bên trong căn hộ trở thành phần sở hữu riêng.
“Công văn số 124/QLN và công văn số 397/TTr-TH là 2 công văn do cơ quan chuyên môn của Bộ Xây dựng ban hành có chứa nội dung quy phạm pháp luật nhưng lại được ban hành dưới hình thức công văn hướng dẫn là không phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Do đó, ngoài vi phạm về hình thức ban hành, 2 công văn trên còn có nội dung hướng dẫn vượt quá thẩm quyền, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật vì hoàn toàn chưa được Luật Nhà ở, Nghị định 71 và Thông tư 16 quy định”, nhóm nghiên cứu của Ủy ban pháp luật khẳng định.
Chính vì không chỉ có Thông tư 16 của Bộ Xây dựng mà ngay cả 2 công văn do 2 cơ quan chuyên môn của Bộ này được ban hành theo hướng bảo vệ chủ đầu tư đã khiến dư luận không khỏi bức xúc và đặt nghi vấn: Động cơ nào để các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng ban hành các văn bản trái luật, bảo vệ chủ đầu tư để họ được hưởng lợi, trong khi lại “đẩy” thiệt hại cho người mua nhà? Liệu có lợi ích nhóm khi ban hành những công văn trái luật này?