Điểm tin báo chí sáng ngày 28 tháng 02 năm 2014

28/02/2014
Trong ngày 27/02 và đầu giờ sáng ngày 28/02/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang VnEconomy có bài Thu hồi nợ: Vì sao xã hội đen “ăn đứt” thi hành án?. Bài báo phản ánh: Một kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã khiến không ít người giật mình.

Đó là, tỷ lệ thành công khi thuê “xã hội đen” thu hồi nợ cao đến 90% và thời gian chỉ từ 15 đến 30 ngày, trong khi đó nếu sử dụng phương án khởi kiện tại tòa và cơ quan thi hành án, thì hiệu quả thu hồi chỉ khoảng 50% và thời gian kéo dài tới... 400 ngày.

Kết quả khảo sát trên được ông Nguyễn Minh Đức, Ban Pháp chế VCCI đưa ra tại cuộc hội thảo “Luật Thi hành án dân sự - Từ góc nhìn doanh nghiệp” do Bộ Tư pháp và VCCI tổ chức tại Hà Nội sáng 26/2.

Theo ông Đức, khi sử dụng phương án khởi kiện tại tòa án và cơ quan thi hành án, chủ nợ phải bỏ ra khoản chi phí bằng 20 - 30% khoản nợ, nhưng chưa kể tiền lót tay và các khoản chi phí không chính thức khác.

Còn nếu sử dụng “xã hội đen”, chi phí bỏ ra khoảng chiếm 40 - 70% khoản nợ, và không có chi phí phụ nào.

Còn với một phương án thu nợ khác là thuê các dịch vụ thu nợ hợp pháp, thì thời gian trung bình khoảng 60 - 90 ngày, tỷ lệ thành công 70 - 80%.

Cũng chính VCCI khi làm cuộc khảo sát nhanh với câu hỏi về sự lựa chọn 1 trong 3 phương án thu hồi nợ trên, phương án khởi kiện ra tòa án và sử dụng cơ quan thi hành án chỉ thu được gần 30% lựa chọn.

Ông Nguyễn Minh Đức cũng phải giật mình khi ghi nhận được quá nhiều cái lắc đầu của doanh nghiệp khi làm khảo sát. Ông dẫn chứng: “Khi chúng tôi hỏi về thi hành án, ông Bùi Trường Sơn, Công ty Phục Hưng Holding đã thốt lên: “Lúc đầu tôi nghĩ có bản án của tòa là có thể đòi được tiền rồi, thế mà vẫn gặp khó khăn khi thi hành án, vậy bản án của tòa còn có giá trị gì nữa?”.

Một lãnh đạo doanh nghiệp xin giấu tên lắc đầu: “Ôi, thi hành án à? Thi hành án thì chán lắm!”.

Luật sư Trần Xuân Tiền, Văn phòng Luật sư Đồng Đội nói: “Tôi có 15 năm công tác trong cơ quan thi hành án nên tôi hiểu rất rõ, việc thi hành án kém hiệu quả khiến doanh nghiệp mất niềm tin, tình trạng tìm đến “xã hội đen” với chi phí lớn để bảo đảm quyền lợi không ít”.

Cũng theo luật sư Tiền, khi phải dùng đến con đường khởi kiện để giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp đồng nghĩa với việc mâu thuẫn đã rất gay gắt, không thể ngồi lại với nhau. Đến giai đoạn thi hành án, vấn đề hòa giải gần như không được đặt ra bởi sự đối lập về lợi ích của các doanh nghiệp mang nặng tính thắng thua, danh dự.

Khi niềm tin với công tác thi hành án bị lung lay thì doanh nghiệp sẽ tìm đến các công cụ đòi nợ khác như dịch vụ thu hồi nợ hợp pháp hoặc “xã hội đen”. Nhiều trường hợp doanh nghiệp thắng kiện tại tòa án nhưng bản án thi hành mãi không được, họ lại phải nhờ “xã hội đen”...

Ông Lê Anh Tuấn, Phó vụ trưởng Vụ Nghiệp vụ 1 - Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp cho rằng, một trong những nguyên nhân căn bản của chất lượng thi hành án còn kém hiệu quả là do hệ thống pháp luật còn thiếu chặt chẽ, nhiều chế tài mơ hồ, rườm rà. Còn ông Nguyễn Đức Thường, nguyên Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự Hà Nội thì chỉ ra: “Khuyết điểm lớn nhất của Luật Thi hành án là nhiều thủ tục không có thời hạn xác định...”.

Ông Nguyễn Văn Luyện, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự cũng cho rằng, việc vi phạm thời hạn luật định trong công tác thi hành án diễn ra rất phổ biến nhưng lại thiếu chế tài xử lý. Chính điều này đã làm cho không ít doanh nghiệp chịu thiệt hại nặng nề do thu hồi nợ chậm và phát sinh nhiều chi phí phụ.

Sự rườm rà trong Luật Thi hành án dân sự còn được các đại biểu dẫn chứng, với quy định tòa án ra các quyết định liên quan trực tiếp đến khởi động việc thi hành án, làm dừng và thay đổi nội dung bản án, quyết định của tòa án thì riêng tòa án phải ra 12 loại văn bản, trong đó có tới 17 quyết định về thi hành án dân sự.

Một quy định khác về thi hành án dân sự đang làm khó doanh nghiệp là việc bên được thi hành án phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nhất là việc xác minh tại các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tín dụng... và cung cấp cho cơ quan thi hành án. Đây là điều khó vì việc xác minh điều kiện thi hành án của một doanh nghiệp hiện nay là điều dường như không thể hoặc phải tốn rất nhiều chi phí “mua tin”.

Về việc này ông Lê Anh Tuấn cho biết, dự thảo hiện nay sửa đổi quy định nêu trên theo hướng người được thi hành án có quyền cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành nếu có mà không bắt buộc phải xác minh. Sau khi ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, người được thi hành án không phải chịu chi phí xác minh.

TS. Lê Đăng Doanh phát biểu: “Để công tác thi hành án được đảm bảo thì vấn đề bảo đảm thực thi của hợp đồng cũng như trách nhiệm của tòa án, nơi đưa ra các phán quyết phải thực sự công minh. Nếu như tư pháp không thể bảo đảm được việc xét xử minh bạch, công bằng thì hậu quả gây ra sẽ rất gay go”.

2. Báo Hà Nội mới có bài Đề nghị hạ tuổi kết hôn của nam giới. Bài báo phản ánh: Ngày 27-2, Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội tổ chức hội nghị lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi.

Theo quan điểm của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố, qua nhiều lần chỉnh sửa, dự thảo đã có những bước tiến quan trọng, đạt được mục tiêu lâu dài là xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.

Trong hai phương án về tuổi kết hôn Ban soạn thảo đề xuất, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố đề nghị chọn phương án, nam nữ đủ 18 tuổi trở lên. Vì trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, chúng ta đã có những cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống, góp phần nâng cao thể chất và trí tuệ của người Việt Nam, nên việc quy định nam từ đủ 20 tuổi mới được kết hôn là không còn phù hợp.

Nếu giảm tuổi kết hôn của nam giới hiện nay xuống 2 tuổi sẽ bảo đảm bình đẳng giới và sự đồng bộ, thống nhất với các quy định của Bộ luật Dân sự, pháp luật về tố tụng dân sự và các luật có liên quan khác.

3. Báo Phụ nữ Việt Nam có bài Kết hôn có yếu tố nước ngoài : Đã rối, càng thêm rối!. Bài báo phản ánh: Không chỉ riêng khoản 4, điều 6, Thông tư 22/2013/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định (NĐ) 24/2013/NĐ-CP làm khó cho dân, gây lúng túng các cơ quan hữu quan, mà việc xin đăng ký kết hôn (ĐKKH) có yếu tố nước ngoài còn tiếp tục “vướng” vào điểm b, khoản 2, điều 6 của Thông tư 22.

Theo điều khoản này, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài (đồng thời có quốc tịch nước ngoài) phải nộp giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó có quốc tịch cấp và giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Điều này hoàn toàn mới so với nội dung của các NĐ số 68/2002/NĐCP, NĐ số 69/2006/NĐCP, NĐ số 06/2012. Các NĐ này đã bị bãi bỏ theo tinh thần của NĐ 24.

Ông Nguyễn Văn Vũ, Trưởng phòng Hộ tịch - Quốc tịch, Sở Tư pháp TP.HCM cho biết: “Điều khoản này thật sự gây khó khăn cho công dân lẫn cán bộ tư pháp. Do quy định không rõ ràng “cơ quan có thẩm quyền” là cơ quan nào nên công dân có quốc tịch nước ngoài không xin được giấy chứng minh tình trạng hôn nhân ở nước họ. Thông tư cũng yêu cầu công dân đó phải có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, nhưng không quy định đó là UBND xã, phường như NĐ 158/2005/NĐ-CP và xã phường đó có phải là nơi cư trú ở Việt Nam của công dân ấy trước khi định cư ở nước bạn không? Khi thông tư có hiệu lực, Sở Tư pháp TP.HCM lập tức nhận được phản hồi: nhiều công dân không xin được giấy chứng minh tình trạng hôn nhân. Chỉ tính riêng ba ngày 17, 18 và 19/2, với 61 hồ sơ ĐKKH, đã có đến 38 đối tượng là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài cần bổ sung giấy chứng minh mà không biết phải xin ở đâu”.

Cũng theo ông Vũ, đến ngày 24/2, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, cơ quan này đồng ý cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trên, nhưng công dân có nhu cầu ĐKKH đâu chỉ định cư tại Hoa Kỳ, vì vậy, Sở vẫn phải yêu cầu dân chờ… hướng dẫn từ Bộ.

Ngoài ra, cán bộ tư pháp đã phát hiện vài trường hợp công dân có hai quốc tịch, “lanh trí” giấu bớt một passport để khỏi xin hai giấy xác nhận. Hộ chiếu họ giấu thường là hộ chiếu mang quốc tịch Việt Nam vì thủ tục xin giấy xác nhận của Việt Nam khó hơn nước bạn.

Trở lại khoản 4, điều 6 về việc cấp giấy xác nhận đã được tư vấn, hỗ trợ kết hôn, người dân có nhu cầu phải theo lộ trình: đến Sở Tư pháp làm thủ tục, trường hợp nào rơi vào khoản 4, điều 6, sẽ sang Trung tâm (TT) để được tư vấn và cấp giấy. Quy trình này, theo nhiều cán bộ Hội LHPN các tỉnh là không tiến bộ so với cách mà Hải Dương, Tây Ninh đang làm.

Bà Vũ Thị Thủy, Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Hải Dương khẳng định: “Cái gọi là được TT tư vấn và cấp giấy theo thông tư này chỉ là cách hợp thức hóa thủ tục. Từ 2008, công dân của Hải Dương ĐKKH có yếu tố nước ngoài đều qua Sở Tư pháp để được hướng dẫn thủ tục, sau đó, qua TT để được tư vấn, học những lớp tiền hôn nhân nhằm hiểu biết văn hóa, phong tục, trau dồi thêm ngôn ngữ của nhau. Song song, họ làm các giấy tờ cần thiết để cuối cùng lấy phiếu đã được tư vấn, hướng dẫn do TT cấp trở về Sở Tư pháp ĐKKH. Tôi được biết, Tây Ninh cũng làm theo quy trình đó, vừa chặt chẽ, vừa thật sự có thể kiểm soát được những trường hợp rơi vào trường hợp thứ ba (là trường hợp “chưa hiểu biết hoàn cảnh...” rất phổ biến) của khoản 4, điều 6 mà Thông tư 22 quy định”.

Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập trong bài báo trước, hiện có 18 TT Hỗ trợ, tư vấn hôn nhân có yếu tố nước ngoài do các Hội LHPN tỉnh, thành quản lý. Trong đó, chỉ có hai TT của tỉnh Hải Dương và Cần Thơ có đủ chức năng, thẩm quyền cấp giấy xác nhận đã được tư vấn, hỗ trợ kết hôn theo tinh thần Thông tư 22, 16 TT còn lại đang xin giấy phép thành lập, hoặc chuyển đổi chức năng hoạt động. Vậy, công dân có hoàn cảnh rơi vào khoản 4, điều 6 của thông tư này có thể đến Hải Dương hay Cần Thơ xin cấp giấy xác nhận không? Nhiều cán bộ Hội LHPN khẳng định họ cũng không biết! Lãnh đạo Hội LHPN tỉnh Hải Dương và Cần Thơ khẳng định họ sẵn sàng tư vấn, nhưng họ không chắc sở tư pháp các tỉnh khác có chấp nhận giấy xác nhận của họ không. Bà Dương Thị Xuân, Ủy viên Đoàn chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam cho biết: “Sắp tới, Trung ương Hội sẽ có công văn hướng dẫn chi tiết”.

Theo nguồn tin của Báo Phụ Nữ, nhiều tỉnh thành có TT Hỗ trợ, tư vấn hôn nhân là nhờ dự án của nước ngoài hỗ trợ thành lập và chỉ tư vấn cho các cô dâu Việt chuẩn bị lấy chồng tại đất nước đầu tư dự án, chẳng hạn, Cần Thơ chỉ tư vấn về văn hóa, phong tục, hiểu biết về đất nước, con người Hàn Quốc, Đài Loan. Vậy, nếu cô dâu Việt rơi vào khoản 4, điều 6 khi lấy chồng ở Pakistan, Hoa Kỳ, Pháp, Ấn Độ… thì sẽ thế nào?

II- THÔNG TIN KHÁC

Báo Điện tử Sài Gòn tiếp thị Media có bài Lời nói thẳng, nói thật của các bộ trưởng. Bài báo phản ánh: Hai ngày qua, cộng đồng mạng rộ lên, tán thưởng câu nói của bộ trưởng Giáo dục và đào tạo Phạm Vũ Luận: “Chỉ có bằng giả mới vào được cơ quan nhà nước”. Câu nói của ông (tại phiên họp ngày 25.2 của hội đồng Quốc gia về giáo dục và phát triển nhân lực giai đoạn 2011 - 2015, do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì) ngay lập tức được dư luận thừa nhận mà hầu như không yêu cầu phải chứng minh.

Bởi lâu nay, người ta đều biết, bằng cấp là một tấm vé để vào làm các cơ quan nhà nước, nhất thiết phải có theo quy định. Nhưng chính vì thế, lại xuất hiện bằng cấp, chứng chỉ giả để bán cho những người yếu kém về trình độ, năng lực nhưng có tiền, có quan hệ… để luồn lọt, chạy chỗ vào cơ quan nhà nước, hòng tìm một công việc yên thân.

Nhưng câu nói của ông Phạm Vũ Luận cũng có thể mở rộng ra một chút. Bằng cấp giả không chỉ vào được cơ quan nhà nước mà còn có thể vào được các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước. Câu nói đầy đủ của ông tại cuộc họp: “Thực tế những người có bằng giả hay bằng thật, nhưng chất lượng giả chỉ có thể “chui” vào hệ thống công chức nhà nước, chứ không thể vào được các doanh nghiệp tư nhân” cũng cho thấy điều đó. Người ta cũng có thể hiểu ngay ý ông nói: ở các doanh nghiệp, cơ sở làm việc của tư nhân, vì lợi ích sát sườn của họ, không đời nào các ông chủ doanh nghiệp tư lại chỉ coi trọng bằng cấp để tuyển dụng nhân sự.

Thông thường, ở các doanh nghiệp, cơ sở tư nhân, khi tuyển người, vẫn có yêu cầu sao, lưu bằng cấp để xem người đó được đào tạo chuyên ngành gì nhưng mặt khác, chủ các doanh nghiệp tư nhân sẽ kiểm tra, thử việc rất kỹ ứng viên xem họ có làm được theo trình độ đó không. Thậm chí, bằng thật, chứng chỉ thật nhưng làm kém vẫn không tuyển dụng. Bằng cấp, chứng chỉ ghi trình độ trung bình, hay yếu nhưng thực tế làm tốt thì vẫn tuyển dụng. Thậm chí, có những nơi, không coi trọng bằng cấp, nếu thực tế anh là bằng trung cấp nhưng làm tốt hơn người có bằng đại học thì người ta vẫn trọng dụng người có bằng cấp thấp hơn, thậm chí không phải không có cơ sở tư nhân, có những người không có bằng cấp mà làm tốt vẫn được tuyển.

Ai cũng hiểu câu chuyện thực tế này nhưng điều bất ngờ là nó được nói ra từ chính miệng ông bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo. Với câu nói này, người ta chờ đợi xem ông cùng với những người có trách nhiệm ở các bộ, ngành khác, đặc biệt là bộ Nội vụ, nơi soạn thảo, ban hành các chính sách, quy định về thi tuyển, tuyển dụng cán bộ, công chức nhà nước sẽ làm gì để chấm dứt tình trạng quá coi trọng về hình thức bằng cấp, chứng chỉ mà thiếu kiểm tra thực tế thực học, trình độ của người được tuyển dụng như hiện nay. Bằng giả, chứng chỉ giả tràn lan đã là một chuyện, bằng thật, chứng chỉ thật nhưng học giả (kiểu như thuê người đi học, học qua loa, trốn học nhiều…) cũng không phải là hiếm.

Trước bộ trưởng Phạm Vũ Luận, người ta thấy, đâu đó cũng có những bộ trưởng nói ra những điều, ngẫm ra rất thẳng, rất thật. Tại kỳ họp Quốc hội khoá XIII cuối năm trước, và mới đây ở một cuộc họp của uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bộ trưởng bộ Kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh cũng nói ra những điều gây sốc cho dư luận. Nói về sự lãng phí trong đầu tư công, tình trạng đầu tư lãng phí, dàn trải… ông nói: “Trung ương phân bổ thế nào, địa phương chạy chọt thế nào, tôi biết hết”; “Nhiều chủ tịch tỉnh chỉ thích hoành tráng”… Nhưng cùng với những câu nói ấy, ông cũng có những việc làm cụ thể để làm thay đổi tình hình như việc soạn thảo, trình Thủ tướng Chính phủ ký chỉ thị 1792/CT-TTg, được coi như là “cứu cánh cho nguy cơ vỡ nợ của Việt Nam”. Nhưng việc soạn chỉ thị này, theo ông Vinh đã là một “cuộc chiến” trong bộ Kế hoạch và đầu tư. “Có vụ trưởng nói với tôi, anh làm thế có khác gì lấy đá ghè chân mình”, ông Vinh nói với đại biểu Quốc hội. Ông cũng đã từng nói:“Tôi nói rằng đất nước này cần công khai minh bạch và không được có tham nhũng, bởi vì đó là những thứ làm cho đất nước này “chết” nhanh chóng nhất. Công việc này vô cùng khó khăn, động chạm đến rất nhiều người vì làm họ mất rất nhiều quyền. Nhưng phải làm, nếu Quốc hội, Chính phủ bỏ phiếu bất tín nhiệm tôi, tôi cũng vui vẻ vì không có gì để mất”, ông Vinh nói.

Bộ trưởng Giao thông vận tải Đinh La Thăng cũng có một vài lời nói thẳng về tình trạng chất lượng xây dựng các công trình giao thông, tiến độ xây dựng chậm… và ông cũng đã có những việc làm cụ thể như cách chức, thay thế, điều chuyển ngay một số người lãnh đạo các đơn vị trong ngành, dưới quyền ông, để thúc đẩy tiến độ, nâng cao chất lượng thi công một số công trình giao thông lớn.

Đã có một số bộ trưởng nói những điều mà dư luận gọi là “nói thẳng”. Cũng không phải bộ trưởng nào nhận ra, nói ra được sự thật cũng làm được những việc để thay đổi thực trạng, thay đổi những sự thật màu xám trong ngành mình, lĩnh vực mình và cả những lĩnh vực khác. Như bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, bà có nói ra nhưng cũng chưa thấy bà làm được gì nhiều để thay đổi tình trạng bệnh viện công quá tải, y đức xuống cấp… Còn có bộ trưởng, không phải không hiểu chuyện nhưng khi làm lại khiến tình hình tệ thêm. Như bộ trưởng bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng không phải không am hiểu thực tế về xây dựng, mua bán các căn hộ chung cư hiện nay nhưng bộ này vẫn ban hành thông tư 16/2010/TT-BXD có những quy định trái luật Nhà ở và bộ luật Dân sự, gây khổ sở, thiệt hại cho người dân mua chung cư… và chỉ có lợi cho một số tổ chức, cá nhân mà trong phiên họp ngày 25.2 của uỷ ban Pháp luật, phần lớn đại biểu đã chất vấn mà ông đã không có câu trả lời thoả đáng.

Không phải ai cũng nói ra được như bộ trưởng Kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh, làm được điều gì đó để thay đổi hiện trạng, bất chấp nguy cơ chính mình sẽ “không còn gì để mất”. Nhưng dù sao, người dân vẫn đang chờ đợi, sẽ có nhiều hơn những lời nói thật, nói thẳng của các bộ trưởng và có nhiều việc làm thiết thực hơn để thay đổi, làm biến chuyển những thực tế không mấy tốt đẹp trong từng ngành, từng lĩnh vực: y tế, giáo dục, đầu tư công, giao thông… hiện nay.



File đính kèm