I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài Trưởng công an huyện Vụ Bản "tiếp tay" cho người chống thi hành án?. Bài báo phản ánh: Cụ Đào Đoàn Bang (SN 1930) là thương binh chống Pháp, có ngôi nhà cấp 4 lợp ngói trên diện tích đất 250m2 thuộc thửa đất số 90, tờ bản đồ số 8 ở thôn Bịch, xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà cũ.
Ngày 15/03/1997 cụ Bang đã làm Giấy chuyển nhượng và thừa kế đất nhà + ao, có sự xác nhận của chính quyền xã Minh Thuận. Trong Giấy chuyển nhượng ghi rõ: “Bước đầu anh Nông chuyển ao cho em Biết sử dụng (anh Nông gọi cụ Bang bằng chú ruột, chị Biết là con gái cụ Bang). Bước hai: Sau khi ông bà Bang qua đời hoặc không thích ở khu đất 509 nữa thì trao trả anh Nông sang ở và sử dụng”.
Tuy Giấy chuyển nhượng lập sẵn như vậy nhưng vợ chồng cụ Đào Đoàn Bang, Đào Thị Am vẫn sinh sống, sở hữu ngôi nhà và thửa đất đó. Năm 2007 cụ Bang qua đời. Chỉ ba ngày sau, nhang khói chưa kịp tàn và cỏ trên mộ cụ Bang chưa kịp héo, vợ chồng Đào Minh Nông (SN 1951) đã đến xua đuổi cụ bà Đào Thị Am để chiếm nhà và đất. Họ vin vào tờ giấy chuyển nhượng kia và “quên” mất rằng cụ Am (vợ cụ Bang) vẫn còn sống, đang thờ chồng. Và cụ Am đứng ở hàng thừa kế thứ nhất.
Ngày 2/3/2009, ông Nông tiếp tục phá tường bao, chiếm một phần đất xây nhà án ngữ trước ngôi nhà cụ Am đang ở. Cụ Am trình báo hành vi trên của ông Nông với chính quyền xã nhưng họ làm ngơ, thậm chí còn đồng ý cho ông Nông xây nhà trái phép, nên buộc lòng cụ phải có đơn khởi kiện ông Nông tới TAND huyện Vụ Bản giải quyết.
Tại Bản án số 02/2010/DSST ngày 2/6/2010, TAND huyện Vụ Bản đã tuyên: “Buộc ông Đào Minh Nông phải tháo dỡ toàn bộ công trình, trả lại mặt bằng như cũ và ông Nông phải xây dựng hai đoạn tường bao đã tháo dỡ trên mảnh đất tại thửa 90, tờ bản đồ số 8 thôn Bịch, xã Minh Thuận, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định”.
Dù bản án đã có hiệu lực như vậy và khi hết cả thời hạn tự nguyện thi hành án, ông Nông vẫn cố tình không chịu chấp hành bản án, bằng việc không chịu phá dỡ công trình trên đất, không xây lại hai bức tường bao và di dời khỏi khu vực, lại còn ngang nhiên chặt phá toàn bộ cây cối trong vườn cụ Am để trồng cây của mình.
Thực hiện thông báo của Chủ tịch UBND huyện Vụ Bản về việc thi hành án, ngày 23/9/2011, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vụ Bản đã tiến hành cưỡng chế. Tuy nhiên trong quá trình cưỡng chế, ông Nông không ký vào các văn bản và chấp hành nên buộc Hội đồng cưỡng chế phải tự tháo dỡ, đưa tài sản của ông Nông ra ngoài khu vực và xây lại hai đoạn tường bao.
Khi Đoàn cưỡng chế đã bàn giao lại mặt bằng cho cụ Am thì ngày 25/9/2011, ông Đào Minh Nông lại tiếp tục có những hành vi hung bạo, vừa chửi rủa cụ Am và các con cụ, vừa đập phá toàn bộ tường bao mà Hội đồng cưỡng chế mới xây lại, đồng thời tiếp tục tập kết vật liệu để chuẩn bị xây lấn chiếm trên phần đất mới giải tỏa.
Rõ ràng, các hành vi của ông Đào Minh Nông đã đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành bản án” (theo quy định tại Điều 304) và “Hủy hoại tài sản” (Điều 143) của Bộ Luật Hình sự, cần phải truy cứu trách nhiệm!
Không phải ngẫu nhiên mà ông Đào Minh Nông lại coi thường pháp luật như vậy với chuỗi hành vi vi phạm mà không được ngăn chặn, xử lý nghiêm minh. Ngày 15/10/2013, cụ Đào Thị Am (SN 1927) đã gửi Đơn tố giác tội phạm đến Cơ quan điều tra (CQĐT) Công an huyện Vụ Bản tố giác hành vi “Không chấp hành bản án” và “Hủy hoại tài sản” của Đào Minh Nông.
Những tưởng Công an huyện Vụ Bản phải vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao nhất, nhưng ngày 22/10/2013, Trưởng Công an huyện Vụ Bản Nguyễn Cương Lĩnh đã “bất ngờ” ra Công văn số 584/TLĐ trả lời đơn thư như sau: “…Hành vi của ông Đào Minh Nông chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành bản án” và “Hủy hoại tài sản”….”!
Ông Trưởng Công an huyện Vụ Bản “quên” rằng, tại Khoản 1 Điều 103 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: “CQĐT, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức kiến nghị và khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến…” và Khoản 2 Điều 103 (về thời hạn nhận được tố giác, tin báo về tội phạm để CQĐT kiểm tra, xác minh quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự) cũng được quy định rõ.
Theo những quy định đó thì chỉ có CQĐT và Việm Kiểm sát mới có thẩm quyền tiếp nhận, xem xét, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm… Vậy, hà cớ gì ông Trưởng Công an huyện Vụ Bản (không phải thủ trưởng CQĐT) lại “lấn sân” ra công văn trả lời Đơn tố giác tội phạm, có phải là trái thẩm quyền theo quy định của pháp luật không?
Cùng với công văn trái luật này, chính quyền xã Minh Thuận còn chấp thuận cho ông Nông xây nhà trái phép – thông qua Biên bản làm việc giữa UBND xã với ông Nông (ngày 10/2/2009) do Phó Chủ tịch xã Nguyễn Thanh Nghị kí. Biên bản “dọn đường” như sau: “….Ông Đào Minh Nông cam đoan thực hiện đúng theo quyền và nghĩa vụ, tài sản nhà ở của bà Am, chỉ sử dụng mảnh vườn làm gian nhà ở”. Đã thế, khi ông Nông nhiều lần đập phá tường rào, chặt cây cối, hành hung đe dọa, gia đình cụ Am đều báo cáo và kêu cứu, nhưng chính quyền xã vẫn… đứng ngoài cuộc, đóng vai trò “đồng phạm” không chấp hành bản án (?.!).
Hành vi của ông Đào Minh Nông là trái pháp luật và đạo lý, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống vật chất và tinh thần của cụ Am, nay đã 87 tuổi, là vợ của thương binh quá cố thuộc diện gia đình chính sách. Vì những hành vi này, cụ Am hoảng sợ phải tá túc nhà con rể; ngôi nhà thờ cúng hoang tàn, ông Nông biến nó thành… khu chăn nuôi gia cầm và chứa vật liệu, phế thải.
Đề nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Nam Định chỉ đạo Công an huyện và các cơ quan chức năng huyện Vụ Bản vào cuộc, xử lý nghiêm các hành vi trên của ông Đào Minh Nông, buộc ông Nông phải chấp hành bản án, trả lại nhà đất cho cụ Am.
2. Báo Hà Nội mới Online có bài Huyện Thanh Oai còn bất cập trong thi hành án dân sự. Bài báo phản ánh: Chiều 24-2, Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội đã giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự (THADS) từ năm 2009 - 2013 tại Chi cục THADS huyện Thanh Oai.
Theo báo cáo của Chi cục THADS huyện, thời gian qua dù không có khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực THA, không phát hiện cán bộ vi phạm pháp luật, tuy nhiên việc THA đang bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Cụ thể, số tiền phải THA tăng dần theo từng năm. Năm 2013, tỷ lệ số vụ việc thi hành xong hoàn toàn chỉ đạt gần 86% trong tổng số có điều kiện thi hành (331/386 vụ việc).
Nguyên nhân do án phát sinh mới tăng cả về giá trị và số lượng. Có trường hợp phải THA nhưng đang chấp hành hình phạt tù hoặc không có công ăn việc làm, không có thu nhập, không có tài sản, bỏ đi nơi khác không xác định được địa chỉ. Trong khi đó Luật THADS chậm được hướng dẫn, phần nào gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật trong quá trình tổ chức THADS…
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khi tòa quên tuyên ai phải giao di sản. Bài báo phản ánh: Gần đây, Chi cục Thi hành án (THA) dân sự TP Nha Trang (Khánh Hòa) đã có văn bản yêu cầu hộ ông Phan Văn Hường trong thời hạn 30 ngày phải tự nguyện giao một căn nhà theo bản án đã có hiệu lực của TAND tỉnh Khánh Hòa. Trong khi đó, hộ ông Hường thì phản đối, khiếu nại quyết liệt.
Năm 2005, mẹ ông Hường mất để lại di sản là nhà và đất. Do không thể tự phân chia, chị của ông Hường đã khởi kiện ra TAND TP Nha Trang. Theo đơn khởi kiện, cha mẹ ông Hường có hai người con ruột, một người con nuôi, di sản để lại gồm ba căn nhà. Người con nuôi đã được chia một căn nhà, đã bán và dọn đi nơi khác sinh sống nên không tham gia tranh chấp. Còn lại hai căn nhà, chị ông Hường yêu cầu được nhận một căn, một căn để lại cho ông Hường.
Tháng 4-2013, TAND TP Nha Trang đã xử sơ thẩm, chia cho chị ông Hường một căn nhà và cho ông Hường một căn nhà. Các bên có nghĩa vụ liên hệ cơ quan chức năng để xin cấp giấy chứng nhận. Vợ chồng ông Hường kháng cáo. Tháng 9-2013, TAND tỉnh Khánh Hòa đã giữ nguyên án sơ thẩm.
Sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực, tháng 10-2013, Chi cục THA dân sự TP Nha Trang đã ra quyết định THA theo đơn yêu cầu của chị ông Hường. Tuy nhiên, việc THA gặp rắc rối do các bản án chỉ tuyên giao nhà nhưng lại không nói rõ ai là người có nghĩa vụ giao.
Tháng 12-2013, Chi cục THA đã có văn bản đề nghị TAND tỉnh Khánh Hòa xác định ai là người có nghĩa vụ giao nhà và đất cho chị ông Hường. Phúc đáp, TAND tỉnh Khánh Hòa cho rằng chị ông Hường là người được thừa kế di sản do mẹ để lại. Hộ ông Hường là người đang quản lý, sử dụng tài sản nên có nghĩa vụ giao nhà. Trên cơ sở đó, Chi cục THA đã ra văn bản yêu cầu hộ ông Hường tự nguyện THA như đã nói.
Trong một vụ tương tự khác, Cục THA dân sự tỉnh Khánh Hòa đã không chấp nhận văn bản giải thích của tòa mà kiến nghị giám đốc thẩm, sau đó chánh án TAND Tối cao đã kháng nghị giám đốc thẩm.
Cụ thể, theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lạo, cha mẹ bà có bốn người con chung, sau khi qua đời để lại di sản là một căn nhà từ đường tại thị trấn Diên Khánh. Di sản trên do ông Nguyễn Cấp quản lý, sử dụng, sau đó giao lại cho vợ chồng con trai.
Tháng 7-2008, TAND tỉnh Khánh Hòa xử sơ thẩm đã chia nhà, đất cho các bên nhưng không xác định cụ thể ai là người có nghĩa vụ giao nhà, đất. Tháng 5-2009, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng cũng giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Do không xác định được ai là người phải THA, Cục THA dân sự tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản yêu cầu Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP Đà Nẵng giải thích. Phúc đáp, tháng 9-2009, tòa phúc thẩm có thông báo sửa chữa, bổ sung bản án với nội dung xác định người có nghĩa vụ giao di sản là ông Cấp. Không đồng ý với thông báo này vì cho rằng tòa bổ sung một nội dung hoàn toàn không có trong bản án, Cục THA đã có văn bản đề nghị chánh án TAND Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm.
Sau đó, chánh án TAND Tối cao đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hai bản án sơ, phúc thẩm. Theo chánh án TAND Tối cao, hai bản án trên trong phần quyết định giao di sản không nói rõ ai là người có nghĩa vụ giao di sản nên cơ quan THA dân sự không xác định được ai là đối tượng THA, dẫn đến không có căn cứ ra quyết định cưỡng chế THA…
Theo TS Nguyễn Văn Tiến (Trưởng bộ môn Tố tụng dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), khoản 1 Điều 240 BLTTDS quy định: Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Nghị quyết số 02/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao cũng hướng dẫn rất rõ về việc phân biệt thế nào lỗi về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Theo đó, “lỗi rõ ràng về chính tả” là lỗi do viết không đúng từ ngữ, dấu, chữ viết hoa, viết thường, phiên âm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, bỏ sót không ghi tên đệm trong họ, tên của đương sự... Còn “số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán sai” (kể cả án phí) như cộng, trừ, nhân, chia sai... mà phải sửa lại cho đúng.
Từ đó, TS Tiến nhận xét trong trường hợp các tòa quên tuyên ai là người có nghĩa vụ giao di sản thì không được sửa chữa, bổ sung bản án mà phải khắc phục bằng thủ tục giám đốc thẩm vì đây là một nội dung mới không có trong bản án.
Tuy nhiên, một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM lại có cái nhìn khác. Theo ông, việc không tuyên rõ ai phải giao di sản là thiếu sót của tòa nhưng chưa nghiêm trọng đến mức phải giám đốc thẩm mà có thể khắc phục bằng thông báo sửa chữa, bổ sung bản án. Bởi lẽ vấn đề mấu chốt nhất của tranh chấp là phân chia di sản đã được tòa giải quyết. Còn về việc giao di sản thì đương nhiên người đang quản lý, sử dụng di sản sẽ phải giao.
Trước hai luồng quan điểm như trên, nhiều chuyên gia cho rằng TAND Tối cao và Tổng cục THA dân sự cần có hướng dẫn về chuyện này để các tòa, các cơ quan THA vận dụng thống nhất.
4. Báo Phụ nữ có bài Kết hôn có yếu tố nước ngoài: Lúng túng “đuổi” theo thông tư. Bài báo phản ánh: Thông tư 22/2013/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 24/2013 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có hiệu lực từ ngày 17/2. Những tưởng khi có được một văn bản hướng dẫn, mọi chuyện sẽ suôn sẻ, nhưng thực tế không phải vậy.
Khoản 4, điều 6 của thông tư quy định: trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, nếu đương sự thuộc trong các trường hợp sau thì phải có giấy xác nhận công dân Việt Nam đã được tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài: hai bên chênh lệch nhau từ 20 tuổi trở lên; người nước ngoài kết hôn lần thứ ba hoặc đã kết hôn và ly hôn với công dân Việt Nam; hai bên chưa hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của mỗi nước. Giấy xác nhận này do trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (TT) cấp. Nghị định 24 quy định, các TT này trực thuộc Hội LHPN các tỉnh, thành. Trả lời Báo Phụ Nữ, ông Nhâm Ngọc Hiển - Phó Trưởng phòng Quản lý hộ tịch, Cục Hộ tịch (Bộ Tư pháp) cũng khẳng định: “Ngoài những TT này, không có TT nào khác có chức năng cấp giấy xác nhận”.
Thực tế, hiện cả nước chỉ có 18 TT đang hoạt động, hoặc đang đổi giấy phép, tên gọi. Ngay cả tại TP.HCM, những ngày này, người làm thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài rơi vào trường hợp phải có giấy xác nhận cũng phải chờ. Ông Nguyễn Văn Vũ - Trưởng phòng Hộ tịch - Quốc tịch Sở Tư pháp, TP.HCM cho biết: “Từ ngày 17/2 đến nay, với những trường hợp nói trên, chúng tôi phải hướng dẫn họ chờ thêm vài ngày, vì TT trực thuộc Hội LHPN TP.HCM vẫn chưa sửa đổi xong giấy phép hoạt động”. Bà Trần Thị Bích Thủy - Phó chủ tịch Thường trực Hội LHPN TP.HCM cho hay: “Chúng tôi đang ráo riết hoàn thành các thủ tục để xin cấp lại giấy phép (giấy phép cũ được cấp căn cứ theo Nghị định 68/NĐ-CP nay không còn phù hợp) chậm nhất là trong tuần này”.
Hầu hết các cán bộ liên quan đều cảm thấy rối và lúng túng khi phải “đuổi” theo thông tư nói trên. Các đơn vị chưa có TT thì rơi vào tình cảnh “nước đến chân mới nhảy”. Bà Nguyễn Thị Thanh Hoa - Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Đồng Nai nói: “Việc phải có một TT hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài là yêu cầu bức thiết. Chúng tôi hiểu điều đó, nhưng chưa kịp “đón đầu” thì thông tư đã có hiệu lực thi hành. Suốt hai ba tuần nay, Hội phải nhiều lần làm việc với Sở Tư pháp để cùng gỡ rối nhằm cho ra đời TT này sớm nhất”. Bà Bùi Thị Hòa - Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam trấn an: “Hiện Trung ương Hội đang chuẩn bị ban hành công văn để hướng dẫn cho các tỉnh thành đăng ký với Sở Tư pháp để cấp giấy phép, đổi tên, tăng thêm chức năng hoạt động tư vấn, cấp giấy chứng nhận... Ngoài 18 tỉnh, thành đã có TT đang hoạt động hoặc đang đổi giấy phép, tên gọi; đang có năm hồ sơ xin cấp phép thành lập TT mới. Đồng thời, Trung ương Hội đã lập kế hoạch xây dựng ba TT vùng là Hải Dương, TP.HCM và Cần Thơ giúp các tỉnh không có điều kiện thành lập TT”.
Rõ ràng, chỉ một điều khoản nhỏ trong thông tư (đã có hiệu lực thi hành) mà khắp nơi đều cập rập; cơ quan chức năng có liên quan còn lúng túng thì người có nhu cầu đăng ký kết hôn sẽ gặp khó khăn ra sao. Ngày 21/2, cô dâu L. từ Hậu Giang cùng chú rể Đài Loan (chênh lệch nhau trên 20 tuổi) đã phải tìm đến Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài TP. Cần Thơ để được tư vấn. Có lẽ những công dân khác không chỉ phải chờ đợi thêm vài ngày mà còn phải “dài cổ” đợi chờ hoặc chạy vạy để “chuyển vùng” ra Hải Dương hay về Cần Thơ để làm giấy xác nhận!
5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Trao quyết định nhập quốc tịch Việt Nam cho 141 người. Bài báo phản ánh: Ngày 21-2, Sở Tư pháp TP.HCM tổ chức lễ trao quyết định nhập quốc tịch Việt Nam cho 141 người không quốc tịch, không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định từ 20 năm trở lên trên địa bàn TP.HCM.
Tính đến nay, có 837 cá nhân thuộc đối tượng trên ở TP.HCM đã được nhập quốc tịch Việt Nam trong tổng số 1.080 trường hợp mà TP chuyển Bộ Tư pháp.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Điện tử Chính phủ đưa tin CPI tăng thấp hiếm thấy. Bài báo phản ánh: Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) của tháng 1 tăng thấp (tăng 0,69%), của tháng 2 còn tăng thấp hơn (tăng 0,55%), nên tính chung của 2 tháng đầu năm nay tăng thấp hiếm thấy.
CPI 2 tháng đầu năm 2014 tăng thấp nhất tính từ năm 2002, thấp xa so với CPI bình quân của cùng kỳ trong 12 năm trước (tăng 3,37%). Nếu so sánh xa hơn, thì CPI 2 tháng đầu năm nay thấp thứ hai so với CPI cùng kỳ trong hơn 30 năm qua, chỉ thấp thua CPI cùng kỳ năm 2001 (tăng 0,7%), 1 trong 3 năm có CPI cả năm được coi là thiểu phát (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%, năm 2001 tăng 0,8%).
Nếu tính CPI theo năm, thì tháng 1 tăng 5,45%, của tháng 2 còn tăng thấp hơn (4,65%) và tính bình quân 2 tháng tăng 5,05% - đều là các con số thấp hơn nhiều kỳ trước.
Diễn biến giá cả trong dịp Tết Nguyên đán đã tăng thấp một cách lạ thường, kể cả những hàng hoá, dịch vụ theo thông lệ thường có nhu cầu tiêu dùng cao trong dịp Tết, thậm chí có một số loại giá còn giảm.
Việc tăng thấp của CPI trong 2 tháng đầu năm là tín hiệu khả quan để CPI năm 2014 sẽ vượt (thấp hơn) mục tiêu đề ra (khoảng 7%) và là năm thứ 3 liên tục tăng thấp, thậm chí còn kỳ vọng sẽ là năm thứ 3 liên tục tăng thấp xuống (năm 2012 tăng 6,81%, năm 2013 tăng 6,04%, năm 2014 sẽ thấp hơn 6%).