Điểm tin báo chí sáng ngày 18 tháng 02 năm 2014

18/02/2014
Trong ngày 17/02 và đầu giờ sáng ngày 18/02/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Việt Nam thắng vụ kiện đòi 3,75 tỉ USD. Đầu năm 2014, tại Hội nghị triển khai công tác pháp chế các bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ năm 2014, đại diện Vụ Pháp luật quốc tế (Bộ Tư pháp) thông tin: Hội đồng Trọng tài quốc tế đã ra phán quyết, bác bỏ tất cả lập luận và yêu cầu bồi thường của nhà đầu tư South Fork (Mỹ) kiện tỉnh Bình Thuận đòi bồi thường số tiền lên tới gần 4 tỉ USD.

2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Hợp đồng công chứng: may nhờ rủi chịu?. Bài báo phản ánh: Một ngôi nhà được bán cho hai người. Người bán sử dụng giấy tờ giả trong lần giao dịch thứ hai, nhưng công chứng viên vẫn chứng nhận, hậu quả là người mua chịu thiệt, còn công chứng viên khẳng định vô can.

Ngôi nhà nói trên ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (P.7, Q.3, TP.HCM) do ông Phạm Văn Cần đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà (sổ hồng) đã được ông bán cho bà L.T.Đ.T. với giá ghi trên hợp đồng là 4,5 tỉ đồng, được chứng thực tại văn phòng công chứng Hội Nhập (Q.4, TP.HCM) ngày 16-8-2010. Sau đó, cũng chính ông Cần lại một lần nữa bán căn nhà này cho ông Vũ Hoàng Sơn với giá 2 tỉ đồng ngày 4-1-2012, được chứng thực tại văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa (H.Hóc Môn, TP.HCM).

Theo trình bày của ông Vũ Hoàng Sơn thì ông biết ông Cần qua một vài người bạn, ông Cần đã đưa sổ hồng và những giấy tờ liên quan khác chứng minh mình là chủ căn nhà. Kiểm tra thực tế, nhiều người dân sống quanh đó đều trả lời ông Cần là chủ nhà. Dù căn nhà ở Q.3, ông Sơn ở Q.11, nhưng ông Cần đề nghị chọn công chứng tại văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa (H.Hóc Môn, TP.HCM) vì ông Cần có quen với công chứng viên Trần Trọng Thư làm việc ở đây, sẽ có thể làm thủ tục nhanh chóng.

Ông Cần là người trực tiếp liên hệ với công chứng viên và chuẩn bị mọi giấy tờ liên quan, sau đó hẹn ngày giờ để ông Sơn tới ký hợp đồng. Ông Sơn giao đủ 2 tỉ đồng và nhận bản gốc sổ hồng của căn nhà ngay tại văn phòng công chứng. Khi tới nộp thuế trước bạ tại Chi cục Thuế Q.3 để sang tên đăng bộ tài sản, ông Sơn mới biết ông Cần đã bán nhà trên cho bà T.. Liên hệ với văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Q.3, ông Sơn ngã ngửa khi được thông báo bản chính sổ hồng ông đang giữ là giả.

Công chứng viên Trần Trọng Thư - người chứng thực bản hợp đồng mua bán giữa ông Phạm Văn Cần và ông Vũ Hoàng Sơn dựa trên bộ giấy tờ giả - cho rằng: “Quá trình làm việc tôi đã kiểm tra rất kỹ toàn bộ hồ sơ, giấy tờ liên quan. Tuy nhiên, chỉ bằng mắt thường và chút kinh nghiệm công tác, chúng tôi không thể đảm bảo chắc chắn phân biệt thật giả được mọi loại giấy tờ. Với trình độ làm giả siêu việt như hiện nay, chỉ ba đơn vị, cá nhân có thể xác định chắc chắn giấy tờ thật hay giả là cơ quan giám định, cơ quan ban hành văn bản và chính người làm giả mà thôi”. Ông Thư khẳng định không quen biết với ông Cần và càng không bao giờ nhận tiền của ông Cần để “làm bậy”. “Còn lý do vì sao họ từ Q.3 xuống tới đây ký hợp đồng là quyền của họ, tôi không thể trả lời thay” - ông Thư nói.

Ông Thư cũng lý giải: “Theo quy định, người đề nghị công chứng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ liên quan tới việc chứng thực. Do đó, người chịu trách nhiệm trong trường hợp này là ông Cần. Tôi có trách nhiệm kiểm tra để đảm bảo quyền lợi của người mua, nhưng tôi không phát hiện được bất thường vì khả năng có hạn, nó không thuộc trách nhiệm của tôi”.

Ông Từ Dương Tuấn, trưởng phòng bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết theo quy định, đương sự đi công chứng phải cung cấp đầy đủ giấy tờ liên quan và chịu trách nhiệm về những giấy tờ đó. Công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra các loại giấy tờ đó, nếu có nghi ngờ thì đề nghị xác minh, giám định, giám định không được thì từ chối. Không nghi ngờ thì có thể ký xác nhận bình thường. Khi được hỏi cơ sở nào để xác định công chứng viên không thể phát hiện bất thường hay cố ý không phát hiện?, ông Tuấn trả lời: “Nhà nước đã tin tưởng trao cho công chứng viên quyền được nhân danh Nhà nước thực hiện việc này thì phải tin tưởng họ”.

Ông Tuấn cũng cho biết: “Hiện nay các công chứng viên có thể tra cứu trên hệ thống dữ liệu của Sở Tư pháp TP để biết tài sản giao dịch có bị ngăn chặn hay không. Nhưng do yếu tố kỹ thuật, việc tra cứu này chưa thể thực hiện đồng bộ, đó có thể là một trong những lý do khiến việc một tài sản được chứng thực mua bán “chồng”. Trong trường hợp này, lỗi không thuộc về công chứng viên. Nếu cơ quan chức năng chứng minh được công chứng viên có thông đồng, móc nối để lừa đảo thì công chứng viên đó phải chịu trách nhiệm”.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Công an nhân dân có bài Để nguời dân vay vốn từ gói 30.000 tỉ đồng không khó như “leo cột mỡ”. Bài báo phản ánh: Đầu tháng 6/2013, gói hỗ trợ 30.000 tỉ đồng được tung ra với đối tượng cho vay là người thu nhập thấp, doanh nghiệp xây nhà xã hội hoặc từ nhà thương mại chuyển sang nhà xã hội. Tuy nhiên, sau hơn nửa năm triển khai, tốc độ giải ngân vẫn chậm do nhiều nguyên nhân.

Với mục tiêu hỗ trợ người lao động hưởng lương ngân sách, người thu nhập thấp tạo lập nhà ở với lãi suất thấp, qua đó giúp doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và làm ấm thị trường bất động sản, đầu tháng 6/2013, gói tín dụng 30.000 tỉ đồng được đưa ra với tỉ lệ phân bổ: dành tối đa 30% để cho vay đối với doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội và doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại được chuyển đổi công năng sang nhà ở xã hội. 70% còn lại dành cho người dân vay mua nhà ở xã hội và nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.

Ngay sau khi thông tin về gói 30.000 tỉ đồng được công bố, không chỉ các doanh nghiệp đang gặp khó về vốn để hoàn thiện dự án mà hàng trăm ngàn gia đình đang khó khăn về nhà ở khấp khởi hy vọng sẽ sớm được tiếp cận nguồn vốn này. Bởi theo thống kê của Bộ Xây dựng, đến năm 2015, trong khu vực đô thị cả nước có khoảng 1.740.000 người có khó khăn về nhà ở (diện tích bình quân dưới 5m2/người) và 1.715.000 công nhân có nhu cầu ổn định chỗ ở, để đáp ứng nhu cầu về nhà ở cần phải xây dựng khoảng 700.000 căn hộ.

Nhu cầu về nhà ở cho người có thu nhập thấp và công nhân khu công nghiệp đến năm 2020 sẽ tăng thêm khoảng 200.000 căn. Trong đó, một số địa phương có nhu cầu nhà ở xã hội lớn, cụ thể: Hà Nội cần 111.200 căn; TP HCM cần 134.000 căn; Đà Nẵng cần 16.000 căn; Đồng Nai cần 95.000 căn; Bình Dương cần 104.000 căn… nghĩa là đang có hàng triệu người cần mua nhà được hỗ trợ vốn vay với lãi suất thấp.

Tuy nhiên, thực tế đã không như mong đợi khi để có thể vay vốn từ chương trình đang có quá nhiều thủ tục. Tính đến hết ngày 31/12/2013, Ngân hàng Nhà nước đã cam kết cho 13 doanh nghiệp và 1.764 khách hàng cá nhân vay với tổng số tiền 1.759 tỉ đồng. Trong đó, 7 doanh nghiệp đã nhận được số tiền giải ngân là 304 tỉ đồng và 5 ngân hàng đã giải ngân cho 1.750 khách hàng với dư nợ 428,5 tỉ đồng, đưa tổng số tiền giải ngân từ gói 30.000 tỉ đồng lên 732,5 tỉ đồng.

Lý giải cho việc chậm giải ngân gói tín dụng 30.000 tỉ đồng, Bộ Xây dựng cho rằng một trong những nguyên nhân là do nguồn cung căn hộ đáp ứng được tiêu chí cho vay còn khan hiếm.

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, cả nước hiện nay có 57 dự án đăng ký chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội với quy mô xây dựng khoảng 34.837 căn, tổng mức đầu tư khoảng 20.567 tỉ đồng; có 62 dự án đăng ký điều chỉnh cơ cấu căn hộ với số lượng căn hộ ban đầu là 31.999 căn hộ, điều chỉnh thành 40.500 căn hộ (tăng 8.501 căn).

Nhưng còn một nguyên nhân nữa là chính từ các ngân hàng. Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam, một số ngân hàng thương mại được giao nhiệm vụ triển khai việc cho vay cũng còn quá thận trọng, dẫn đến việc chậm trễ trong việc xét duyệt, thẩm định đối tượng cho vay vốn.

Theo ông Nam, trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc liên quan đến công chứng hợp đồng thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai đối với nhà ở xã hội, xử lý tài sản thế chấp là nhà ở hình thành trong tương lai, thủ tục giao dịch bảo đảm trong việc cho vay vốn của các tổ chức tín dụng mà hiện nay chưa được điều chỉnh bởi pháp luật có liên quan.

Để thúc đẩy tiến độ giải ngân gói 30.000 tỉ này, ngày 31/10/2013, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 18/2013/TT-BXD, trong đó mở rộng thêm đối tượng được vay vốn từ gói 30.000 tỉ đồng. Theo đó, bổ sung thêm đối tượng là cá nhân, hộ gia đình chưa có nhà ở nhưng có đất ở và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và diện tích đất ở đó nhỏ hơn diện tích đất đã được cấp phép xây dựng theo quy định của UBND cấp tỉnh.

Ngoài ra, các đối tượng tạm trú nhưng có đóng bảo hiểm xã hội từ 1 năm trở lên (có thể không liên tục) và có giấy xác nhận của cơ quan bảo hiểm cũng được vay tiền từ gói hỗ trợ 30.000 tỉ đồng.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam, Bộ Xây dựng đã và đang phối hợp với các bộ, ngành có liên quan (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường...) thực hiện các giải pháp như sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật về công chứng hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai; thủ tục thực hiện, công chứng hợp đồng; đăng ký, xử lý tài sản bảo đảm; nghiên cứu, ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn Nghị định số 188/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội…

2. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Hà Nội trả lời về đề án thu phí trên Đại lộ Thăng Long. Bài báo phản ánh: Ngày 15/2, ông Nguyễn Thịnh Thành, Người phát ngôn của TP. Hà Nội vừa cho biết Đề án thu phí trên Đại lộ Thăng Long (phần đường cao tốc) vẫn đang trong quá trình báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, chỉ đạo. Việc có triển khai thu phí hoặc thu phí vào thời điểm nào là tùy thuộc vào hình thức đầu tư và phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.

Ngày 24/1/2014, UBND thành phố Hà Nội đã có Công văn số 687/UBND-KT báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép thu phí sử dụng đường bộ trên Đại lộ Thăng Long.

Đại lộ Thăng Long có chiều dài 29,8km (phần đường cao tốc) được xây dựng, hoàn thành và bàn giao cho Hà Nội quản lý tại Quyết định số 2884/QĐ-BGTVT ngày 5/10/2010 và Quyết định số 267/QĐ-BGTVT ngày 29/1/2013 của Bộ GTVT.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại Công văn số 9141/VPCP-KTN ngày 26/12/2011 giao UBND Thành phố Hà Nội tổ chức xây dựng phương án thu, nộp phí sử dụng đường bộ trên Đại lộ Thăng Long, UBND Thành phố đã chỉ đạo Sở GTVT nghiên cứu xây dựng đề án thu phí trên Đại lộ Thăng Long (phần đường cao tốc) nhằm tạo nguồn thu để thực hiện công tác quản lý, duy tu, bảo trì cơ sở hạ tầng như hệ thống chiếu sáng, cây xanh, công tác đảm bảo an toàn giao thông (mặt đường, biển báo...), cứu hộ, cứu nạn, hệ thống điều hành giao thông thông minh trên tuyến đường này.

Trong đề án thu phí trên Đại lộ Thăng Long có nội dung triển khai đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thông minh, bao gồm việc huy động nguồn vốn dưới hình thức hợp tác công tư (PPP) hoặc BOT nhằm hiện đại hóa thực hiện công tác quản lý đường cao tốc, đảm bảo an toàn giao thông. Kinh phí để đầu tư hệ thống giao thông thông minh có thể sử dụng theo các hình thức đầu tư nêu trên và thực hiện thu phí để hoàn vốn đầu tư.

Tuy nhiên, nếu triển khai theo hình thức xã hội hóa và thu phí trong trường hợp đã có quy định về thu phí sử dụng đường bộ theo Thông tư số 197/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ Tài chính thì địa phương hoặc đơn vị có nhu cầu phải báo cáo xin ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ trước khi triển khai thực hiện. Do vậy, ngày 24/1/2014, UBND Thành phố Hà Nội đã có Công văn số 687/UBND-KT báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép thu phí sử dụng đường bộ trên Đại lộ Thăng Long.

Theo ông Nguyễn Thịnh Thành, cho đến nay, Đề án thu phí trên Đại lộ Thăng Long (phần đường cao tốc) vẫn đang trong quá trình báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, chỉ đạo. Việc có triển khai thu phí hoặc thu phí vào thời điểm nào là tùy thuộc vào hình thức đầu tư và phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.

Nếu được Thủ tướng Chính phủ cho phép, UBND Thành phố Hà Nội sẽ chỉ đạo các cơ quan chuyên môn xây dựng phương án cụ thể đảm bảo dự án đạt hiệu quả phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của nhân dân.



File đính kèm