I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Mong luật "lau khô nước mắt" sơn nữ. Bài báo phản ánh: Về góc độ khoa học, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cũng khẳng định nữ khi đủ 18 tuổi trở lên thì mới đảm bảo sức khỏe sinh sản, không tai biến sản khoa.
Việt Nam là một trong nhóm quốc gia có tỷ lệ trẻ em gái mang thai ở tuổi chưa thành niên cao nhất thế giới. Nguyên nhân chính yếu vẫn là do việc kết hôn sớm. Rất nhiều trẻ em gái đã phải từ bỏ giấc mơ đến trường, tự quyết cuộc đời của mình chỉ vì những đám cưới ép buộc ở tuổi 15-16, thậm chí còn sớm hơn. Thế nên, lo ngại trước thông tin “Chính phủ sẽ hướng dẫn các trường hợp đặc biệt kết hôn từ đủ 16 tuổi” cũng là điều dễ hiểu…
Mới đây, ngày 13/1/2014 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã góp ý Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi). Theo đó, về độ tuổi kết hôn, đại diện Bộ Tư pháp và một số ý kiến đề nghị cân nhắc bổ sung quy định ngoại lệ đối với trường hợp nữ chưa đủ 18 tuổi kèm theo một số điều kiện chặt chẽ như: chỉ giảm tối đa không quá 2 tuổi, được hai bên gia đình công nhận hoặc được sự đồng ý của người giám hộ, đã có con chung... Việc bổ sung quy định ngoại lệ được cho là sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đặc biệt là trẻ em được sinh ra trong trường hợp này. Trên cơ sở luật định, Chính phủ sẽ hướng dẫn các trường hợp đặc biệt kết hôn từ đủ 16 tuổi.
Tuy nhiên, trước đề xuất này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đặt câu hỏi: “Làm luật phải theo xu hướng tiến bộ, hạ tuổi của nữ xuống 16 tuổi được lấy chồng liệu có ngược xu hướng?”. Bên cạnh rất nhiều ý kiến tán đồng quan điểm của Chủ tịch Quốc hội, cũng có ý kiến góp ý thêm rằng muốn bổ sung quy định ngoại lệ đối với trường hợp nữ chưa đủ 18 tuổi thì nhất thiết phải rà soát kỹ lưỡng chuyện hôn nhân của đồng bào dân tộc thiểu số, có danh mục những đồng bào dân tộc thiểu số nào và độ tuổi kết hôn của họ thực tế thế nào…
Còn nhớ, trong các cuộc họp của Ban soạn thảo Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi), cũng không nhiều ý kiến tán đồng việc hạ tuổi kết hôn. Đặc biệt, về vấn đề này, trong cuộc họp Ban soạn thảo lần thứ tư, đại diện Ủy ban Dân tộc đã cho rằng, chỉ một số ít dân tộc đề nghị hạ tuổi kết hôn xuống 16 chứ không phải tất cả 54 dân tộc ở Việt Nam đều đề xuất như thế.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Hữu Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới có một quan điểm rất nhất quán. Đúc rút từ lĩnh vực nghiên cứu của mình, ông Minh cho rằng không nên hạ tuổi kết hôn của nữ cũng như bổ sung quy định ngoại lệ đối với trường hợp nữ chưa đủ 18 tuổi kết hôn, vì điều này sẽ tạo ra nhiều tiêu cực xã hội, đẩy cao nạn tảo hôn, hiếp dâm trẻ em... “Luật phải điều chỉnh được tổng thể vì mục đích chung, thay vì chạy theo từng vấn đề nhỏ nhặt của thực tế” – ông Nguyễn Hữu Minh nhấn mạnh.
2. Báo Người Đưa tin có bài Kỷ luật phó bí thư xã vì lấy người đã có chồng. Bài báo phản ánh: Anh Nguyễn Huy Tuyền, phó bí thư đoàn xã Tam Dị lấy vợ là người địa phương. Trước khi tổ chức lễ cưới, anh chị ra UBND xã đăng ký kết hôn, anh Tuyền ngớ người ra khi nhận được thông báo, vợ anh đã “có chồng” Hàn Quốc. Vì tiền, nhiều phụ nữ Tam Dị đánh đổi tất cả, đùa giỡn với chính hạnh phúc riêng tư của mình. Nhiều câu chuyện cười ra nước mắt vẫn được người dân nơi đây kể cho nhau nghe...
Chúng tôi về Tam Dị (Lục Nam- Bắc Giang) để tìm hiểu thông tin nhiều người phụ nữ trong xã kết hôn giả với người nước ngoài để đi xuất khẩu lao động.
Ông Nguyễn Văn Toán, ở thôn Thanh Giã 1, cho biết: Có nhiều câu chuyện thật mà như đùa ở các thôn xóm trong xã. Có một câu chuyện mà nhiều người dân Tam Dị hay kể với nhau, đó là trường hợp của cô gái có tên Trần Thị Tuyết (SN 1987) trú tại thôn Đông Thịnh, có chồng ở cùng xã. Thấy việc xuất khẩu lao động theo cách kết hôn chồng giả dễ dàng, nhiều người trong làng đã làm được, Tuyết và gia đình đã bàn bạc và đi vay 12.000 USD để “xuất ngoại”. Sau khi hoàn tất các thủ tục, tháng 5/2010 Tuyết theo “chồng” sang Hàn Quốc.
Tuy nhiên sang đến nơi, khi xin vào làm cho một công ty, khám sức khỏe, phát hiện Tuyết đã có bầu 3 tháng nên công ty này không nhận. Tuyết cố gắng đi tìm việc ở nhiều nơi khác nhau nhưng không được, cuối cùng cô đành phải trở về Việt Nam sau 1 tháng lang thang ở đất Hàn. Số tiền đưa cho cò coi như mất trắng, công việc lại không có, không biết đến bao giờ gia đình Tuyết mới trả hết nợ.
Ông Đào Văn Quảng - Phó chủ tịch UBND xã Tam Dị chia sẻ, ở địa phương cũng có một trường hợp cán bộ xã bị “kỷ luật” vì liên quan đến việc “kết hôn giả” với người nước ngoài. Đó là trường hợp của anh Nguyễn Huy Tuyền (SN 1978) trú tại thôn Thanh Giã - Tam Dị là phó bí thư đoàn xã. Cách đây vài năm, anh Tuyền lấy vợ là người địa phương. Trước khi tổ chức lễ cưới, anh chị ra UBND xã đăng ký kết hôn, anh Tuyền ngớ người ra khi nhận được thông báo, vợ anh đã “có chồng” là một người mang quốc tịch Hàn Quốc.
Sau khi tìm hiểu thông tin anh được biết, trước đây vợ anh đã từng tham gia vào một đường dây “kết hôn giả” với người nước ngoài để đi xuất khẩu lao động, nhưng do trục trặc nên chị đã không đi được, tuy vậy các thủ tục như đăng ký kết hôn thì đã xong xuôi. Chị đã không nói với anh về việc này, chỉ đến khi đi đăng ký kết hôn thì mọi việc mới lộ ra. Ngày đó, anh đã bị kỷ luật vì hành vi “kết hôn với người đã có gia đình”. Hiện hai vợ chồng anh vẫn sống tại địa phương, có con gái một tuổi, và lẽ đương nhiên cháu bé cũng chưa có giấy khai sinh do bố mẹ cháu chưa có giấy đăng ký kết hôn.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thông tư “ưu ái phụ nữ” có phải là sự cảm tính?. Bài báo phản ánh: "Về cơ bản, Thông tư 26 không bổ sung thêm các chức danh mới không được sử dụng lao động nữ so với danh mục đã được ban hành tại Thông tư liên tịch số 40/2011/TTLT-BLĐTBXH-BYT. "
Mặc dù nhận được sự phản ứng của dư luận, nhưng Cục An toàn lao động, Bộ LĐTBXH vẫn khẳng định Thông tư 26 được ban hành hợp lý và hợp tình.
Đó là khẳng định của Cục An toàn lao động, Bộ LĐTBXH về căn cứ pháp lý và tính hợp lý của Thông tư 26. Theo đó, Thông tư 26 hướng dẫn Điều 160 của Bộ luật Lao động, mà điều luật này đã quy định rõ là “Công việc không được sử dụng lao động nữ” chứ không phải là “cấm”. Hay nói cách khác, Thông tư 26 không ban hành danh mục “cấm” không cho lao động nữ tham gia lao động.
Mặt khác, Thông tư 26 được xây dựng trên cơ sở kế thừa chính sách đã được ban hành, đó là Thông tư Liên Bộ LĐTBXH - Y tế số 05-TT/LB ngày 1/6/1968 và từ đó đến nay Thông tư Liên Bộ này đã được chỉnh sửa 3 lần vào các năm 1986,1994 và 2011 trên quan điểm bảo vệ sức khỏe lao động nữ, thai nhi và em bé, cũng như xem xét đến cơ hội việc làm của lao động nữ.
Theo quan điểm của Cục An toàn lao động, khi ban hành Thông tư, các chuyên gia đã xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau từ khoa học đến thực tiễn, chứ không phải do cảm quan, cảm tính của cơ quan quản lý Nhà nước. Cụ thể, ngoài việc kế thừa Thông tư liên tịch số 40, khi xây dựng Thông tư 26 các chuyên gia đã xem xét đến điều kiện lao động ở một số chức danh còn mang tính thủ công nhiều, chưa được cải thiện; tham khảo các điều ước quốc tế như Công ước số 3 về sử dụng lao động nữ trước và sau khi sinh con, Công ước số 29 về lao động cưỡng bức, Công ước số 45 về sử dụng lao động nữ trong những công việc ở hầm mỏ, Công ước 127 của Tổ chức lao động thế giới về giới hạn trọng lượng mang vác tối đa… nhằm hướng tới mục đích bảo vệ sức khỏe lao động nữ nhưng không làm mất cơ hội tham gia làm việc của họ.
Ngay sau khi Thông tư 26 được ban hành, báo chí đã đồng loạt lên tiếng về việc cuộc sống của rất nhiều lao động nữ sẽ bị ảnh hưởng vì những quy định của Thông tư. Tuy nhiên, theo quan điểm của Cục An toàn lao động, nội dung Thông tư đã bị dư luận xã hội, truyền thông tiếp cận sai một phần nguyên nhân do sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ tiếng Việt (!).
Đơn cử, một trong những công việc không được sử dụng lao động nữ theo Thông tư 26 là nạo vét cống ngầm, nhưng đã bị hiểu sai rằng lao động móc cống hở cũng bị cấm. “Rõ ràng rằng hình ảnh người lao động móc cống hở khác hẳn với quy định không được sử dụng lao động nữ nạo vét ở cống ngầm. Bởi lẽ khi nạo vét cống ngầm thủ công, người lao động phải chui xuống để nạo vét cặn, phải ngâm mình trong nước bẩn hôi thối” – đại diện Cục An toàn lao động nhấn mạnh.
Hơn ai hết, những nữ lao động đang mưu sinh bằng nghề bốc vác tại các chợ đầu mối thực sự lo lắng vì Thông tư 26. Phần lớn những người này cũng không hiểu vì đâu mà con số 50kg lại được lựa chọn làm tiêu chí để quy định phụ nữ không được thực hiện các công việc phải mang vác trên 50kg.
Lý giải về vấn đề này, theo Cục An toàn lao động, trọng lượng mang vác tối đa của mỗi người theo khuyến cáo của khoa học là không quá 40% trọng lượng cơ thể, nữ thì thấp hơn, khoảng 34%. Theo tiêu chuẩn mang vác do Bộ Y tế ban hành thì giới hạn trọng lượng cho phép đối với lao động nữ là 30kg mang vác thường xuyên và 20kg mang vác không thường xuyên. Tuy nhiên, để phù hợp thực tiễn, Thông tư 26 đã nâng mức giới hạn mang vác lên 50kg nhằm tạo điều kiện cho lao động nữ.
Một thắc mắc nữa của Thông tư 26 cũng được Cục An toàn lao động giải thích, đó là Thông tư không điều chỉnh khu vực không có quan hệ lao động, ví dụ như nữ nông dân tự làm việc trên cánh đồng của họ. Đối tượng được áp dụng tại Thông tư chỉ là các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình và cá nhân có sử dụng lao động nữ trong quan hệ lao động.
Thông tư 26 quy định lao động nữ không được lái ô tô có trọng tải trên 2,5 tấn (trừ các ô tô có trọng tải dưới 10 tấn có hệ thống trợ lực). Trong khi đó, theo Luật Giao thông đường bộ, khi cấp giấy phép lái xe không có quy định nào về giới tính của người lái xe, được hiểu là lao động nữ có quyền có giấy phép lái xe tất cả các hạng. Phải chăng ở đây có tình trạng luật “đá” luật?
Lý giải vấn đề này, Cục An toàn lao động cho biết, quy định lao động nữ không được lái xe có trọng tải trên 2,5 tấn của Thông tư 26 kế thừa các Thông tư liên tịch các năm 1986,1994 và 2011. Ngay từ năm 2011, xuất phát từ điều kiện thực tế có nhiều xe ô tô có hệ thống trợ lực mà phụ nữ có thể tham gia lái được, nên quy định trong Thông tư 40 đã được sửa từ “lái ô tô có trọng tải trên 2,5 tấn” thành “lái ô tô có trọng tải trên 2,5 tấn (trừ các ô tô có trọng tải dưới 10 tấn có hệ thống trợ lực)” và Thông tư 26 tiếp tục kế thừa. Theo Cục An toàn lao động, việc sửa đổi như vậy đã tạo cơ hội việc làm hơn đối với lao động nữ được cấp giấy phép lái xe, chứ không nên nhìn nhận theo quan điểm luật “đá” luật.
4. Báo Người Lao động có bài Công an vẫn muốn bêu tên người vi phạm. Bài báo phản ánh: Bộ Công an cho rằng việc nêu tên người vi phạm giao thông trên báo chí đã đạt được nhiều kết quả: Bảo đảm tính răn đe, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông của người dân...
Đại diện Vụ Pháp chế (V19) vừa có buổi làm việc với Tổng cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội (Tổng cục VII, thuộc Bộ Công an) để trao đổi thông tin xung quanh dự thảo thông tư thay thế Thông tư 38/2010 quy định về việc thông báo người có hành vi vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông.
Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, đại tá Trần Thế Quân, Vụ phó Vụ Pháp chế, cho biết quan điểm của Tổng cục VII là vẫn muốn giữ việc thông báo một số hành vi vi phạm giao thông đến nơi cư trú và công khai tên tuổi, địa chỉ cư trú, cơ quan công tác của người vi phạm trên báo chí. Tuy nhiên, việc bêu tên trên báo chí chỉ được áp dụng đối với một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông được đánh giá là nghiêm trọng, như: sử dụng rượu bia điều khiển phương tiện gây tai nạn, chống người thi hành công vụ...
Theo ông Quân, về nội dung này, khi trao đổi cũng có ý kiến cho rằng cần cân nhắc. Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính (có hiệu lực từ ngày 1-7-2013) không nhắc tới việc khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt thì công khai thông tin cá nhân vi phạm trên báo đài. “Chúng tôi thấy rằng việc công khai tên tuổi người vi phạm sẽ đạt những hiệu quả nhất định. Hơn nữa, đối với một số vi phạm nặng như chống người thi hành công vụ, dù không có quy định nhưng báo chí vẫn đăng tải” - ông Quân nói.
Đại diện Tổng cục VII cho rằng thực hiện Nghị quyết 32/2007 của Chính phủ từ năm 2007, Bộ Công an đã ban hành Thông tư 22 hướng dẫn việc thông báo đến nơi cư trú hoặc nơi công tác, học tập của người có hành vi vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông. Đến năm 2010, Bộ Công an tiếp tục ban hành Thông tư 38 thay thế Thông tư 22, trong đó có việc bêu tên người vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Tổng kết việc thực hiện Thông tư 38 cho thấy đã đạt được nhiều kết quả như bảo đảm tính răn đe, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông của người dân. Vì vậy, việc bêu tên người vi phạm là cần thiết.
Trong khi đó, ông Đặng Thanh Sơn - Giám đốc Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Tổ trưởng Tổ Triển khai đề án về xử lý vi phạm hành chính (Bộ Tư pháp) - cho rằng do đây là thông tư nên việc xây dựng và đưa ra các quy định thuộc thẩm quyền của Bộ Công an. Tuy nhiên, với chức năng của mình, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật Bộ Tư pháp sẽ hậu kiểm để xem các quy định này có phù hợp với các luật hiện hành, nhất là Luật Xử lý vi phạm hành chính hay không.
Ông Sơn giải thích không hẳn Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định thì các văn bản khác không được đề cập. “Dựa vào các quy định liên quan và nhằm bảo đảm quản lý nhà nước tốt hơn, Bộ Công an có thể đưa ra quy định sao cho phù hợp nhất” - ông Sơn nói.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Nhân dân điện tử đưa tin Ủy ban Thường vụ QH thông qua Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND. Sáng 20-1, tại Hà Nội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (TVQH) họp phiên bất thường, thông qua dự án Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (BPXLHC) tại Tòa án nhân dân (TAND). Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng chủ trì phiên họp. Cùng dự, có các Phó Chủ tịch QH.
Tại phiên họp, các đại biểu, nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Nguyễn Văn Hiện báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Pháp lệnh trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC tại TAND.Pháp lệnh quy định rõ sự tham gia của Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) trong tiến trình này để bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của TAND trong quá trình xem xét, quyết định biện pháp xử lý hành chính; đồng thời bảo đảm sự chặt chẽ, phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính. Ủy ban Tư pháp của QH nhận thấy, việc TAND xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC có tác động đến quyền tự do, quyền cơ bản của công dân và lợi ích công cộng. Hoạt động của TAND về bản chất là hoạt động tư pháp. Theo quy định của Hiến pháp, Viện KSND có chức năng giám sát hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc quy định Viện KSND tham gia phiên họp để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC như đề cập trong Dự thảo Pháp lệnh là phù hợp.
Tại phiên họp, Ủy ban TVQH đã thảo luận, cho ý kiến và thông qua Pháp lệnh nêu trên.
Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2014.