I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Ngành Tư pháp triển khai nhiệm vụ năm 2014. Bài báo đưa tin: Năm 2014, một trong những nhiệm quan trọng của đất nước là tổ chức thi hành Hiến pháp, bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP với 9 nhóm giải pháp cần thực hiện. Do vậy, ngành Tư pháp cần nhanh chóng tổ chức triển khai thật nghiêm túc, hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Chiều 8/1, tại TPHCM, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2014. Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham dự và chỉ đạo hội nghị.
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao sự cố gắng của ngành Tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, triển khai toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm các mặt công tác, đặc biệt là hoàn thành Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo Nghị quyết của Quốc hội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Phó Thủ tướng cũng cho rằng, công tác tư pháp cũng còn có những hạn chế, như hệ thống pháp luật hiện chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thể chế hóa kịp thời, đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; công tác kiểm soát thủ tục hành chính có dấu hiệu chậm lại; việc theo dõi thi hành pháp luật chưa mang lại hiệu quả; thi hành án dân sự chưa đạt chỉ tiêu theo yêu cầu của Quốc hội; quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực (như hộ tịch, chứng thực) còn chậm đổi mới...
Phó Thủ tướng cho biết, năm 2014, một trong những nhiệm quan trọng của đất nước là tổ chức thi hành Hiến pháp. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01 với 9 nhóm giải pháp cần thực hiện. Do vậy, ngành Tư pháp cần nhanh chóng tổ chức triển khai thật nghiêm túc, hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Theo đó, ngành cần tăng cường công tác xây dựng thể chế, đặc biệt là làm tốt việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Kế hoạch của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và của Chính phủ về triển khai thi hành Hiến pháp. Trước mắt, cần tập trung rà soát, lập danh mục các luật, pháp lệnh cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với quy định của Hiến pháp, đề xuất xây dựng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đảm bảo khoa học, hợp lý, khả thi.
Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị vào công tác phổ biến giáo dục pháp luật, đưa các công tác này đi vào chiều sâu, bám sát nhu cầu xã hội. Đẩy mạnh việc rà soát, công bố kịp thời các thủ tục hành chính, bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng thủ tục hành chính trên toàn quốc. Triển khai đồng bộ Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2011-2020.
Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo quyết liệt hơn nữa công tác thi hành án dân sự khẩn trương xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Hoàn thiện dự án Luật Hộ tịch, nhằm tạo thuận lợi cho người dân, góp phần quan trọng tạo bước đột phá trong công tác quản lý nhà nước về dân cư, hướng tới một nền quản trị quốc gia hiện đại.
2. Báo Người Lao động có bài Không thể “trói” báo chí bằng việc xử phạt. Bài báo phản ánh: Xung quanh quy định cho phép nhiều cơ quan cùng được xử phạt báo chí đưa tin sai sự thật, luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn Luật sư TP HCM) đã có bài phân tích về vấn đề này
Ở góc độ xã hội, ngay tại điều 1 Luật Báo chí đã nêu rõ vai trò, chức năng của báo chí: “Báo chí ở nước CHXHCN Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, diễn đàn của nhân dân”.
Điều ấy cũng có nghĩa báo chí phản ánh trung thực những mặt khách quan hiện thực của đời sống xã hội, giúp xã hội ngày một trở nên tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó, báo chí còn có chức năng quan trọng là tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giúp pháp luật đi vào đời sống nhân dân một cách nhanh chóng, hiệu quả nhất.
Như vậy, với chức năng, vai trò của mình, báo chí đã tác động một cách tích cực hầu như bao trùm tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để báo chí thực hiện tốt chức năng và thể hiện đúng vai trò của mình, nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước bảo hộ.
Xét ở góc độ pháp lý, thuộc tính của pháp luật là thống nhất, toàn diện, phổ biến để điều chỉnh các quan hệ xã hội và tính hiệu lực của pháp luật được xác định theo thứ tự giá trị của văn bản pháp luật, thời điểm ban hành pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền ban hành pháp luật phải có trách nhiệm rà soát tính hiệu lực của các văn bản đã ban hành trước đó để tránh chồng chéo, dẫn đến việc áp dụng pháp luật một cách tùy tiện.
Một điều cốt yếu nữa là tại khoản 1, điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rất rõ về nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật: “Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật”.
Đơn cử trường hợp Nghị định 02/2011/NĐ-CP quy định xử phạt hành vi vi phạm quy định về nội dung thông tin như thông tin sai sự thật bị phạt 5 triệu đồng (điểm a, khoản 2, điều 7), gây hậu quả nghiêm trọng bị phạt 30 triệu đồng. Trong khi cũng hành vi tương tự, tại Nghị định 79/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thống kê, chỉ cần đưa tin sai sự thật về số liệu thống kê, không cần hậu quả cũng đã bị phạt đến 30 triệu đồng...
Chính từ việc ban hành các nghị định về xử phạt này đã làm cho các văn bản pháp luật mâu thuẫn nhau, dẫn đến khó áp dụng trong thực tế.
Trong Luật Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP, Nghị định 02/2011/NĐ-CP, Nghị định 159/2012/NĐ-CP đã có đầy đủ hành lang pháp lý quy định quyền, trách nhiệm, chế tài xử phạt cụ thể cho từng hành vi tác nghiệp của phóng viên cũng như tờ báo quản lý phóng viên đó, nếu có vi phạm. Quy định của Luật Báo chí trao cho nhà báo nhiều quyền để hoạt động. Việc cho phép nhiều ngành ban hành các nghị định xử phạt vi phạm hành chính đối với báo chí hiện nay vô tình đã tạo nên một sự “hỗn loạn” trong việc thực thi pháp luật; đồng thời gia tăng sự lạm quyền, gây trở ngại đến tác nghiệp của nhà báo.
Ngoài ra, nhiều cơ quan tự cho mình thẩm quyền được xử phạt đã làm hạn chế tiếng nói phản biện của báo chí, tính thông tin đa chiều trên báo cũng sẽ giảm... Điều này đi ngược xu thế chung của thế giới và phá vỡ tính thống nhất quản lý ngành cũng như nguyên tắc một hành vi vi phạm chỉ xử phạt 1 lần.
Vì vậy, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu, kiến nghị sửa đổi những quy định chồng chéo, rối rắm nói trên và ban hành những quy định phù hợp Luật Báo chí.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Nhịp cầu đầu tư có bài Nỗi niềm Thông tư. Bài báo phản ánh: Việc áp dụng Thông tư 02/2013 (về phân loại nợ của các tổ chức tín dụng) vào tháng 6.2014 đang gây ra nhiều tranh cãi. Giới ngân hàng lo ngại nếu áp dụng thông tư này thì nợ xấu tại các ngân hàng sẽ tăng lên. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước lại tỏ ra kiên quyết áp dụng. Nhưng nếu nhìn lại quá khứ, sẽ thấy có nhiều loại văn bản quy định hoạt động ngân hàng cũng tốn giấy mực báo chí như thông tư này. Và kết quả cuối cùng là, nếu không lùi thời hạn thì sẽ… sửa đổi lại.
Nói đến các văn bản có ảnh hưởng mạnh nhất tới hoạt động ngân hàng, không thể không nhắc đến Nghị định 141/2006. Nghị định này ban hành với một mục tiêu rất rõ ràng: các ngân hàng phải đi theo lộ trình tăng vốn tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng với thời hạn cuối cùng là năm 2010. Khi đó, giới báo chí cũng tốn nhiều giấy mực thảo luận đề tài: “Có nên hoãn việc tăng vốn để cứu các ngân hàng hay không”.
Trong giai đoạn đó, Ngân hàng Nhà nước tỏ ra kiên quyết với việc áp dụng Nghị định khi công bố khả năng rút giấy phép hoạt động các ngân hàng không đảm bảo thời hạn tăng vốn. Tuy nhiên, thời hạn này sau đó cũng được lùi lại 1 năm. Tính đến hết năm 2011, vẫn còn 3 ngân hàng chưa tăng vốn theo quy định và đến hết năm 2012, các ngân hàng này mới hoàn tất việc tăng vốn lên mức tối thiểu.
Việc yêu cầu các ngân hàng tăng vốn điều lệ nhằm gia tăng sức mạnh tài chính là một chủ trương đúng. Tuy nhiên, một số ngân hàng đã tăng vốn bằng mọi cách, trong đó có cả việc lách luật bằng sở hữu chéo, vốn là một rào cản cho quá trình tái cấu trúc ngân hàng hiện nay.
Tính đến cuối tháng 10.2013, theo Ngân hàng Nhà nước, tổng số dư các khoản nợ được cơ cấu lại và giữ nguyên nhóm nợ theo Quyết định 780 là 316.800 tỉ đồng, tương đương khoảng 10% tổng dư nợ của nền kinh tế.
Dường như Ngân hàng Nhà nước đang ngày càng nhân nhượng với các ngân hàng để cơ cấu lại nợ xấu và thúc đẩy các ngân hàng tăng trưởng tín dụng. Đặc biệt là với Văn bản số 7558/2013 cho phép các ngân hàng được cho vay với các con nợ cũ nếu các con nợ này có kế hoạch kinh doanh hợp lý. Đáng tiếc là hầu như chẳng ngân hàng nào mặn mà với việc cho vay những đối tượng không trả được nợ.
Chính vì thế mà Thông tư 02/2013 được xem như một đòn giáng mạnh mẽ và là bước đi ngạc nhiên của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng. Khi Thông tư 02 được áp dụng, nợ xấu của các ngân hàng được dự đoán sẽ tăng lên gấp nhiều lần và vô hiệu hẳn “lá chắn” cơ cấu nợ của những văn bản ở trên. Điều này rõ ràng đi ngược với xu hướng cố gắng giảm tỉ lệ nợ xấu ở các ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước hiện vẫn kiên quyết áp dụng thông tư này, nhưng lại theo một hướng khác phù hợp hơn bằng cách điều chỉnh một số chỉ tiêu. Trong tháng 1.2014, Ngân hàng Nhà nước sẽ có văn bản chính thức về vấn đề này.
Trong quá khứ, cũng có những thông tư sửa đổi lại quy định và có lợi hơn cho ngân hàng như Thông tư 13/2010 (đã nói ở trên). Thông tư này cuối cùng cũng được áp dụng, nhưng một vài chỉ tiêu đã được điều chỉnh và cả chỉ tiêu tỉ lệ cấp tín dụng trên vốn huy động cũng bị bỏ. Theo ông Tuấn, Chương trình Fulbright, đó là sự nhượng bộ quá mức khi một chỉ tiêu an toàn đặc biệt trong hoạt động ngân hàng lại không được áp dụng.
Theo Thông tư 13/2010, tỉ lệ cấp tín dụng trên vốn huy động là 80%, nhưng đến Thông tư 19/2010 thì được sửa lại theo hướng mở hơn và đến Thông tư 22/2011 thì bỏ luôn quy định này. Điều đó có nghĩa, nhiều ngân hàng huy động được 1 đồng nhưng vẫn được quyền cho vay tới hơn 1 đồng. Trên thực tế, nhiều ngân hàng ở Việt Nam có tỉ lệ này lớn hơn 100%, tức đã hơn 1 đồng.
Từ năm 2010, các quy định mới hoặc sửa đổi về hoạt động của ngân hàng ngày càng được ban hành nhiều hơn. Đó là điểm tích cực vì nó chứng tỏ rằng cơ quan quản lý đang cố gắng bịt dần những lỗ hổng của thị trường tài chính và giúp cho hoạt động thị trường đi vào nề nếp hơn. Có điều, phương pháp thực hiện đang có chút vấn đề khi thời điểm áp dụng một văn bản pháp luật liên tục bị trì hoãn. Gần đây nhất là Thông tư 02/2013 được Ngân hàng Nhà nước ban hành vào tháng 1.2013 và có hiệu lực vào tháng 6.2013, nhưng ngay sau đó lại được gia hạn đến tháng 6.2014.
Phải chăng Ngân hàng Nhà nước tự gây sức ép cho mình khi đặt ra thời hạn quá gấp rút khiến các ngân hàng không theo kịp, hay do các ngân hàng cố ý trì hoãn sự thay đổi vì sợ tốn kém
2. Báo Pháp luật Việt Nam đưa tin Dương Tự Trọng lĩnh 18 năm tù, khởi tố vụ án làm lộ bí mật nhà nước. Chiều ngày 08/01, HĐXX sơ thẩm TAND TP Hà Nội đã công bố bản án và hình phạt đối với Dương Tự Trọng cùng đồng phạm. Cũng trong phiên tòa chiều nay, HĐXX đã quyết định khởi tố vụ án làm lộ bí mật Nhà nước dựa trên lời khai của Dương Chí Dũng và các bị cáo tại phiên tòa.
Sau hơn một ngày xét xử, HĐXX đã tuyên án: Dương Tự Trọng (52 tuổi, nguyên phó giám đốc Công an TP Hải Phòng, nguyên phó cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Tổng cục VII - Bộ Công an) bị phạt 18 năm tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.
Theo HĐXX thì Trọng có vai trò chủ mưu, cầm đầu, là người lên kế hoạch, phân công chỉ đạo các bị cáo khác, cung cấp tiền, phương tiện, điện thoại…tạo điều kiện cho Dương Chí Dũng (anh trai Trọng) trốn chạy.
Là cán bộ công an cao cấp, có nhiều nghiệp vụ trong phòng chống tội phạm, Trọng đã sử dụng kinh nghiệm của mình để thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình xét xử, bị cáo này còn không thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Tuy Trọng không thừa nhận hành vi của mình nhưng hành vi đó đã biểu lộ qua lời khai của Vũ Tiến Sơn về quá trình đưa Dương Chí Dũng bỏ trốn, từ việc Trọng gọi Sơn lên phòng làm việc, đưa tiền, điện thoại…Lời khai này còn được khẳng định qua lời khai của các bị cáo khác.
Về đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung, HHĐX thấy rằng hành vi tiết lộ thông tin và hành vi tổ chức cho Dương Chí Dũng là khác nhau, không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với chi tiết mà Dương Chí Dũng khai ra việc được một lãnh đạo Bộ Công an tiết lộ thông tin, khiến ông Dũng bỏ trốn.
Bị coi là người có vai trò thứ 2 Vũ Tiến Sơn (47 tuổi, nguyên Phó Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, CA TP Hải Phòng) bị xử phạt 13 năm tù. HĐXX cho rằng bị cáo là người thay mặt Trọng chỉ đạo các bị cáo khác trong quá trình tổ chức cho Dương Chí Dũng bỏ trốn theo hành trình Hà Nội- Quảng Ninh- Tp Hồ Chí Minh- Tây Ninh- Campuchia.
Các bị cáo còn lại tham gia giúp sức cho Dũng trốn ra nước ngoài có mức án như sau:
Hoàng Văn Thắng (43 tuổi, nguyên Cán bộ phòng CSĐT tội phạm về Môi trường, CA TP Hải Phòng) được cho là người giúp sức đắc lực, đưa Dương Chí Dũng đi Quảng Ninh, rồi đi TP Hồ Chí Minh, nhiều lần nghe điện thoại chỉ đạo của Sơn, Trọng trong quá trình đưa Dũng đi trốn, bị xử 5 năm tù
Nguyễn Trọng Ánh (28 tuổi, nguyên cán bộ Phòng CSĐT tội phạm về TTXH CA Hải Phòng) là người chuẩn bị phương tiện đưa Dũng vào TP Hồ Chí Minh, nhiều lần nghe điện thoại chỉ đạo của Trọng, Sơn, bị xử phạt 6 năm tù.
Đồng Xuân Phong (39 tuổi, quê Hải Phòng, nguyên cán bộ Hải quan, thời điểm tổ chức cho Dũng trốn chạy đang bị truy nã do liên quan đến buôn lậu) đã thực hiện tội phạm một cách tích cực, là người đưa Dũng sang Campuchia và sau đó còn cung cấp tiền cho Dương Chí Dũng, bị xử phạt 7 năm tù
Trần Văn Dũng (tức Dũng “Bắc Kạn”, 45 tuổi, quê Bắc Kạn), bị xử phạt 8 năm tù.
Phạm Minh Tuấn (52 tuổi, nguyên Giám đốc Xí nghiệp Bạch Đằng, Hải Phòng) bị xử phạt 5 năm tù. Tuy bị cáo này không nhận hành vi phạm tội nhưng HĐXX cho rằng, Tuấn biết việc đưa Dũng đi trốn. Việc Dũng là quan chức cao, đi bất thường vào ban đêm, có điểm bất thường nên bị cáo có nhận thức được việc Dương Chí Dũng bỏ trốn.
Sau khi công bố bản án, Chủ tọa đã công bố Quyết định khởi tố vụ án hình sự “Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước” theo Điều 263 BLHS. Căn cứ vào lời khai của Vũ Tiến Sơn, nhân chứng Dương Chí Dũng (về việc có người gọi điện, báo tin việc khởi tố bị can, bắt tạm giam cho Dương Chí Dũng vào chiều tối 17/5/2012, khuyên Dũng tạm lánh), đề nghị của Kiểm sát viên, quy định về danh mục Mật của Bộ Công an…., HĐXX thấy có dấu hiệu của tội “Cố ý làm lộ bí mật công tác”. Ngoài việc công bố tại Tòa thì Quyết định này còn được gửi tới VKSND Tp Hà Nội.
Trước đó, trong bản án, HĐXX cũng nhận định rằng, vụ án tại Vinalines là chuyên án đang được Bộ công an điều tra. Thông tin khởi tố vụ án, khởi tố bị can và những thông tin khác là tuyệt mật. Trên thực tế, Dũng đã bỏ trốn trước khi công bố Quyết định khởi tố và đã ghi việc mình được thông tin trong nhật ký hành trình bỏ trốn.
Trong khi đó, bị cáo Sơn cũng khai ra việc được Trọng nói là “có ông anh ở Bộ gọi điện thông báo”. HĐXX thấy đề nghị của KSV về việc khởi tố vụ án “cố ý làm lộ bí mật công tác” là hợp lý.
Ngoài ra, HĐXX cũng đề nghị VKSND TP Hà Nội báo cáo VKSNDTC về việc Dương Chí Dũng có lời khai về việc đưa 510.000 USD; đưa 20.000 USD; đưa 10.000 USD cũng như việc Dũng đưa 20 tỷ đồng liên quan đến dự án chuyển đổi công năng Cảng Sài Gòn của Công ty Vạn Thịnh Phát.