Điểm tin báo chí sáng ngày 20 tháng 12 năm 2013

20/12/2013
Trong ngày 19/12 và đầu giờ sáng ngày 20/12/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài Vì sao nhiều người nhận nuôi con nuôi không muốn đăng ký?. Bài báo phản ánh: “Những trường hợp NCN này, cần được phân loại và ưu tiên rà soát thực hiện trước, chú trọng giải thích về thời hiệu đăng ký, hết ngày 31/12/2015 mà không đăng ký thì việc NCN thực tế sẽ không được pháp luật công nhận, các tranh chấp phát sinh liên quan đến cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa con nuôi với thành viên gia đình cha mẹ nuôi như nghĩa vụ cấp dưỡng, quyền thừa kế… sẽ không được pháp luật bảo hộ”

Luật Nuôi con nuôi (NCN) có một quy định hết sức ưu việt là cho thời hạn 5 năm để thực hiện việc đăng ký NCN thực tế đối với việc NCN trước ngày Luật có hiệu lực mà chưa đăng ký. Tuy nhiên, đã gần hết 3 năm mà kết quả triển khai đăng ký NCN thực tế còn rất khiêm tốn. Qua đó thấy rằng, các cơ quan chức năng cần động viên, khuyến khích người dân đi đăng ký NCN thực tế vì lợi ích của chính họ.

Tính đến hết tháng 11/2013, có 5.236 trường hợp NCN thực tế đã được rà soát và thống kê tại 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, có 4.067 trường hợp đáp ứng đủ điều kiện theo Điều 50 của Luật NCN, 1.169 trường hợp không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

Số trường hợp NCN thực tế đã được đăng ký từ ngày 1/1/2011 (ngày Luật NCN có hiệu lực) đến nay là 1.226 trường hợp, chiếm 23% số lượng các trường hợp NCN thực tế. Số trường hợp NCN thực tế chưa đăng ký là 3.808 trường hợp. Các bên không đăng ký việc NCN thực tế đa số là do cha mẹ nuôi/con nuôi không muốn đăng ký với 1.824 trường hợp (chiếm 47,8%); còn lại là do có khó khăn về hồ sơ, giấy tờ, một bên cha/mẹ nuôi hoặc con nuôi đã chết, quan hệ NCN không còn tồn tại, không đủ điều kiện về độ tuổi (cha/mẹ nuôi và con nuôi cách nhau dưới 20 tuổi).

Chỉ tính riêng tại TP.Hà Nội, trong 818 trường hợp NCN thực tế đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật thì có tới 605 trường hợp (74%) cha mẹ nuôi/con nuôi không muốn đăng ký, phần lớn tập trung ở các huyện ngoại thành và một số ít quận ven đô. Phó Trưởng phòng Hành chính Tư pháp (Sở Tư pháp TP.Hà Nội) Nguyễn Thị Hằng lý giải: Cha mẹ nuôi muốn giữ bí mật về việc NCN để con nuôi yên tâm “nối dõi tông đường”, tạo tâm lý yên ổn; có người con nuôi không muốn đi đăng ký vì sợ ảnh hưởng đến quyền lợi về nhà đất được bố mẹ nuôi cho, tặng.

Như vậy có thể thấy nguyên nhân lớn nhất của việc không đăng ký NCN thực tế xuất phát từ ý chí chủ quan của người dân. Chính bản thân người dân không muốn đăng ký NCN thực tế vì muốn giữ bí mật đối với người con nuôi. Đây là vấn đề thuộc về nhận thức của người dân, đã có từ đời này sang đời khác, tạo thành thói quen tâm lý không dễ thay đổi một sớm một chiều.

So với thực tiễn, số lượng rà soát và thống kê trên có thể là con số khiêm tốn nhưng nó thể hiện sự tận tâm với nhiệm vụ vốn rất nhạy cảm này của đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã. Bởi theo đúng quy định của Luật NCN và Nghị định 19/2011/NĐ-CP, chủ yếu chỉ được tuyên truyền để người dân hiểu về vấn đề NCN thực tế, hiểu được quyền lợi của các bên liên quan trong quan hệ NCN. Còn việc đăng ký NCN phải đảm bảo tôn trọng quyền tự quyết của người dân, tôn trọng ý chí và nguyện vọng của họ chứ không bắt buộc người dân đi đăng ký.

Tuy nhiên, từ góc độ địa phương, bà Nguyễn Thị Thu (Sở Tư pháp tỉnh Điện Biên) cho biết, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân về công tác NCN thực tế tuy đã thực hiện song chưa thường xuyên, liên tục và có chiều sâu. Hơn nữa, việc tuyên truyền mới do ngành Tư pháp làm là chính, chưa được sự quan tâm của các ngành khác.

“Đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu ít được tiếp xúc với các loại hình thông tin, việc tuyên truyền bằng các phương tiện thông tin đại chúng chưa thực sự hiệu quả” – bà Thu chia sẻ. 

Vì vậy, bà Thu kiến nghị Cục Con nuôi (Bộ Tư pháp) xây dựng mẫu quy chế phối hợp trong lĩnh vực NCN để làm cơ sở cho Sở Tư pháp ban hành Quy chế phối hợp giữa các ngành liên quan tại địa phương. Trong công tác tuyên truyền pháp luật, cần chú trọng nội dung về quyền nhân thân của trẻ em và quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ NCN thực tế đến tận các khu dân cư, bằng những hình thức phù hợp để người dân hiểu và tự nguyện đăng ký.

Bà Nguyễn Thị Hằng lại mong muốn có sự chủ động “vào cuộc” của UBND cấp xã, Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ. Theo đó, cần phối hợp với những gia đình có quan hệ NCN thực tế để khuyến khích, vận động họ tự nguyện đi đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đảm bảo cho việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì quyền lợi tốt nhất của các bên và phục vụ công tác quản lý của Nhà nước. 

2. Báo Người Lao động có bài Tranh cãi việc nêu tên người vi phạm giao thông. Bài báo phản ánh: Bộ Công an và Bộ Tư pháp bất đồng quan điểm trong việc nêu tên các tổ chức, cá nhân vi phạm giao thông trên báo chí

Ngày 19-12, TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp, cho rằng cần xem xét đề xuất thông báo vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông của các cá nhân, tổ chức trên báo chí được dự thảo lần 4 Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2010/BCA quy định việc thông báo người có hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông (ATGT). Thông tư này do Tổng cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội (Tổng cục VII) - Bộ Công an chủ trì soạn thảo.

Theo dự thảo, hằng tuần, lực lượng công an các tỉnh, thành phố, Cục CSGT Đường bộ - Đường sắt (C67) sẽ lập danh sách các trường hợp vi phạm trật tự, ATGT gửi đến các cơ quan thông tin truyền thông (bằng văn bản hoặc thư điện tử) để thông báo, “điểm danh tên tuổi” trên báo, đài truyền hình, truyền thanh địa phương.

Đối với những trường hợp chống người thi hành công vụ hoặc sử dụng rượu, bia, chất ma túy,… rồi điều khiển phương tiện gây tai nạn thì danh sách cá nhân vi phạm với đầy đủ thông tin về địa chỉ cư trú, cơ quan, đơn vị công tác, học tập phải được gửi về Ủy ban ATGT quốc gia để thông báo trên các phương tiện thông tin truyền thông trung ương.

Đại diện cơ quan soạn thảo thừa nhận khi thảo luận xung quanh quy định này đã nảy sinh những ý kiến trái chiều cho rằng cần phải đánh giá lại bởi điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính (có hiệu lực từ ngày 1-7-2013) không có quy định về lĩnh vực vi phạm giao thông.

Điều 72 chỉ quy định trường hợp vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; dược; khám bệnh, chữa bệnh; lao động; xây dựng; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo vệ môi trường; thuế; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; đo lường; sản xuất, buôn bán hàng giả mà gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công bố công khai việc xử phạt.

Nội dung công bố công khai bao gồm cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, hành vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả. Hơn nữa, việc công bố công khai được thực hiện trên trang thông tin điện tử hoặc báo của cơ quan quản lý cấp bộ, cấp sở hoặc của UBND cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hành chính.

TS Lê Hồng Sơn cho rằng Luật Xử lý vi phạm hành chính là quy định gốc, buộc nghị định của Chính phủ và thông tư của các bộ phải xây dựng sao cho phù hợp, không được quy định trái hoặc mâu thuẫn. “Phải đặt ra câu hỏi tại sao khi Quốc hội thông qua luật đó, tại điều 72 lại không có quy định về vi phạm trong lĩnh vực giao thông?” - ông Sơn nói.

Theo đại tá Trần Thế Quân, Vụ phó Vụ Pháp chế - Bộ Công an, Nghị quyết 32/2007 và Nghị định 34/2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - đường sắt có quy định về việc gửi thông báo vi phạm lên báo chí. Tuy nhiên, nghị định mới nhất thay thế Nghị định 34 đã bỏ quy định này, Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng không nhắc tới. Dù vậy, đây là quy định cũ đã được đưa ra trong Thông tư 38/2010 và dựa trên tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 32/2007, Bộ Công an vẫn xác định đó là một biện pháp quan trọng, phù hợp, bảo đảm tính răn đe.

“Quy định này còn đang trong giai đoạn dự thảo lấy ý kiến nhưng thực tế cho thấy việc gửi thông báo như vậy đã đem lại những hiệu quả nhất định” - ông Quân cho hay.

Dự thảo tờ trình của Tổng cục VII nêu rõ sau nhiều lần bàn bạc, thảo luận, các thành viên tổ soạn thảo và các đơn vị liên quan thống nhất vẫn giữ nguyên quy định thông báo tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trật tự ATGT trên báo chí vì phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, đây được coi là một biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật về trật tự ATGT đem lại hiệu quả cao.

3. Báo Người đưa tin có bài Nghị định cho phép nổ súng: Lo ngại cảm tính, tùy tiện. Bài báo phản ánh: Việc cho phép cán bộ có quyền nổ súng trực tiếp vào một người khi có đủ căn cứ để cho rằng người đó chống người thi hành công vụ sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng chẳng khác nào việc kết án tử hình mà không qua xét xử.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ. Nghị định sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/2/2014.

Theo nghị định, người thi hành công vụ được hiểu là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.

Trong lúc làm nhiệm vụ nếu gặp phải chống đối, người thi hành công vụ giải thích cho người vi phạm biết lỗi mắc phải, yêu cầu chấm dứt ngay hành vi. Nếu họ không chấp hành, người thi hành công vụ mới được sử dụng biện pháp bắt giữ, cưỡng chế...

Nghị định cho phép trong trường hợp bị tấn công bằng vũ khí quân dụng hoặc vũ khí thô sơ, người thi hành công vụ được sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ và các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phòng vệ, khống chế bắt giữ người chống đối. Biện pháp đặc biệt được áp dụng là cho phép nổ súng.

Tuy nhiên, Nghị định yêu cầu chỉ được áp dụng trong trường hợp "cần thiết", "cấp bách" và căn cứ "tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và từng trường hợp cụ thể".

Bên cạnh những ý kiến đồng ý và cho rằng việc quy định như vậy là cần thiết nhằm giải quyết tình trạng chống người thi hành công vụ nghiêm trọng đang xảy ra ngày càng nhiều. Thì cũng có ý kiến cho rằng việc trao quyền nổ súng cho người thi hành công vụ như nghị định mới ban hành có thể xảy ra trường hợp nổ súng một cách cảm tính.

Lý giải về vấn đề cảm tính trong việc nổ súng này đặt trong bối cảnh người thi hành công vụ là bởi vì khi thực hiện công vụ ngoài hiện trường đứng trước người chống đối, vi phạm pháp luật xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau có thể khiến người thi hành công vụ không kìm chế được cảm xúc bản thân. Từ cảm xúc đó dễ tạo ra những nhận định sai lầm cho tính thế cấp thiết, cấp bách để phải nổ súng. Phán quyết nổ súng này có thể tước đi sinh mạng ngay của một người trong khi để loại một người hoàn toàn ra khỏi xã hội (hình phạt tử hình) cần phải trải qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử và tuyên án.

Mục đích hàng đầu và cuối cùng của pháp luật cũng chính là bảo vệ tính mạng của một con người. Cho nên chắc chắn không thể xem nhẹ, không thể chỉ vì một hành vi có căn cứ chống người thi hành công vụ gây ra hậu quả nghiêm trọng mà tùy tiện tước đoạt ngay tức khắc bằng việc nổ súng.

Việc nghị định yêu cầu tuân thủ hướng dẫn tại điều 22 Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và các quy định khác của pháp luật có liên quan có thể được coi là một căn cứ để xác định việc lạm quyền.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Giấy chứng nhận bào chữa: “điểm nghẽn” cần tháo gỡ. Bài báo phản ánh: Chủ tịch Liên đoàn luật sư đã có văn bản đề nghị Ban soạn thảo BLTTHS (sửa đổi) cân nhắc, mạnh dạn bãi bỏ thủ tục này. Các nước trên thế giới đều không quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa.

Nguyên nhân của vướng mắc, khó khăn, bên cạnh nhận thức và thái độ của cơ quan điều tra, điều tra viên đối với người bào chữa còn xuất phát từ sự chưa rõ ràng trong việc người bị tạm giữ, tạm giam nhờ người bào chữa trực tiếp với việc người thân thích hoặc người khác có thể mời người bào chữa cho họ.

Thông tư 70 ngày 10-10-2011 của bộ trưởng Bộ Công an quy định người bị tạm giữ, bị can có thể làm văn bản đề nghị: người bào chữa là người đại diện hợp pháp, nhờ luật sư hoặc nhờ người thân liên hệ luật sư. Tuy nhiên, trường hợp họ không biết chữ để viết yêu cầu nhờ luật sư hoặc không có người thân thích để liên hệ nhờ luật sư thì có thể ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa của họ. Khi lấy ý kiến người bị tạm giữ, bị can thường chỉ có điều tra viên, không có mặt luật sư hoặc đại diện gia đình họ nên hoàn toàn không biết ý chí của người bị tạm giữ, bị can khi từ chối người bào chữa là tự nguyện hay bị ép buộc.

Với thủ tục tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận người bào chữa, Thông tư 70 quy định có thể nộp trực tiếp hoặc nộp qua đường bưu điện. Có một thực tế là khi trình thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận tại cơ quan điều tra, không có quy định nộp cho văn phòng cơ quan điều tra, thủ trưởng hay điều tra viên. Bản thân tôi khi đến trình thủ tục tại Cơ quan CSĐT Bộ Công an cũng thường không được tiếp nhận và cán bộ tiếp dân hướng dẫn phải gửi bằng đường bưu điện. Đó là chưa kể khi có khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận thì việc giải quyết thường kéo dài, đến khi luật sư được cấp giấy thì có khi vụ án đã kết thúc điều tra.

Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi) vẫn duy trì thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa nhưng xuất phát từ thực trạng nêu trên, chủ tịch Liên đoàn luật sư đã có văn bản đề nghị Ban soạn thảo BLTTHS (sửa đổi) cân nhắc, mạnh dạn bãi bỏ thủ tục này. Nếu tháo gỡ được, BLTTHS không chỉ đề cao địa vị pháp lý của người bào chữa mà còn mở ra những giải pháp mang tính đột phá nhằm tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong cách thức yêu cầu và bảo đảm thực hiện quyền bào chữa. Thực tế hầu như tất cả các nước trên thế giới và ngay trong BLTTHS năm 2012 của Trung Quốc cũng không quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa như ở nước ta.



File đính kèm