I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Muốn cưỡng chế bắt buộc “lo” thuê nhà cho người phải thi hành án?. Bài báo phản ánh: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án (THA) nói chung và biện pháp kê biên xử lý tài sản của người phải THA nói riêng là biện pháp nghiêm khắc nhất mà chấp hành viên áp dụng khi tổ chức THA để đảm bảo hiệu quả công tác THA.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi áp dụng biện pháp kê biên xử lý tài sản của người phải THA, chấp hành viên gặp phải không ít khó khăn. “Nhiều trường hợp cơ quan THA muốn cưỡng chế thì phải đi thuê nhà cho người phải thi hành án” – Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự (THADS) Lê Quang Tiến chia sẻ khi đề cập đến các khó khăn trong THA dân sự tại Hội nghị tổng kết thi hành Luật THADS năm 2008 trên địa bàn TP Hà Nội vừa được tổ chức.
Theo Cục trưởng Lê Quang Tiến, Khoản 1, Điều 95, Luật THADS quy định: “Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải THA và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để THA, trừ trường hợp người phải THA đồng ý kê biên nhà ở để THA”. Mặt khác, theo quy định tại Khoản 5, Điều 115 của Luật THADS thì “trường hợp cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của người phải THA cho người mua được tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ THA mà người phải THA không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi làm thủ tục chi trả cho người được THA, chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một khoản tiền để người phải THA thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung bình tại địa phương trong thời hạn 1 năm”.
Thực hiện những quy định trên, sau khi chấp hành viên cơ quan THADS xác minh đủ điều kiện THA của người phải THA sẽ tiến hành kê biên, xử lý nhà để THA. Sau khi bán đấu giá tài sản và thanh toán các khoản nghĩa vụ THA mà người phải THA không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trước khi thanh toán các nghĩa vụ THA của người phải THA, chấp hành viên mời đại diện chính quyền địa phương, VKSND cùng cấp và các cơ quan liên quan họp bàn để xem xét trích lại cho người phải THA một khoản tiền từ tiền bán tài sản.
Tuy nhiên, trong thực tế, “việc trích lại số tiền này có vướng mắc do chưa quy định rõ khoản tiền bán tài sản trích lại riêng cho người phải THA hay cho cả gia đình của người phải THA cùng sinh sống chung nhà với người phải THA đủ thuê nhà trong thời hạn 1 năm? Chưa kể, đa phần người phải THA không bao giờ họ chấp nhận tự đi thuê nhà. Do đó, cơ quan THA muốn cưỡng chế được lại phải thực hiện các quy trình: Tìm nhà, thuê nhà, đảm bảo chỗ ở cho người phải THA mới tổ chức cưỡng chế được. Điều này gây khó khăn cho cơ quan THADS, là gánh nặng của chính quyền địa phương và bức xúc của đương sự và những người liên quan. Do vậy, việc cưỡng chế giao nhà khó thực hiện được và thường không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của địa phương” – ông Lê Quang Tiến nói.
Khắc phục tình trạng kể trên, Cục trưởng Cục THADS Lê Quang Tiến cho rằng, việc sửa đổi bổ sung Luật THADS năm 2008 sắp tới cần tính đến việc có quy định cụ thể hơn về tạo nơi ở mới cho người bị cưỡng chế giao nhà, trả nhà.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nên bổ sung chế định tha tù trước hạn?. Bài báo phản ánh: Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính Nguyễn Quốc Việt ủng hộ đề xuất bổ sung chế định tha tù trước thời hạn nhưng ông cho rằng “không phải tội phạm nào cũng được tha tù trước thời hạn, ví dụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay người có nhân thân xấu thì không nên tha trước thời hạn”.
Miễn, giảm hình phạt là một chế định nhân đạo trong Bộ luật Hình sự (BLHS) có tác dụng khuyến khích người bị kết án tích cực cải tạo, lập công để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước. Tuy nhiên, nhiều quy định tại BLHS hiện hành đã bộc lộ bất cập…
BLHS hiện hành quy định một số trường hợp miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng chưa chấp hành hình phạt. Hai điều kiện chủ yếu để được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt trong những trường hợp này là lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Tuy nhiên, theo báo cáo nghiên cứu hoàn thiện quy định của BLHS về hệ thống chế tài do một nhóm chuyên gia thực hiện thì “quy định này chỉ thích hợp đối với trường hợp người bị kết án bị mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”.
Trong trường hợp lập công, mặc dù rất đáng khuyến khích và cũng thể hiện được phần nào quyết tâm, thiện chí và mong muốn của người bị kết án trong việc sửa chữa lỗi lầm và phục thiện, nhưng vấn đề mấu chốt là các yếu tố nguy cơ là nguyên nhân gây nên hành vi phạm tội thì chưa giải quyết được. Nếu lập tức miễn ngay toàn bộ hình phạt cho người bị kết án thì mục đích của hình phạt chưa đạt được.
Bên cạnh đó, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù còn lại, hiện nay đều được tiến hành trên cơ sở không có ràng buộc gì đối với người bị kết án được trả tự do, quy định này có thể dẫn đến người phạm tội lại tiếp tục tái phạm.
Tương tự, quy định về miễn giảm hình phạt đối với người chưa thành niên cũng bộc lộ một số hạn chế. Đáng chú ý, người chưa thành niên lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, nếu không thỏa mãn hai điều kiện trên thì cũng không được xét giảm hoặc chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp. Điều này chưa thực sự hợp lý, đặc biệt trong trường hợp người chưa thành niên bị mắc bệnh hiểm nghèo, không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và việc giáo dục đối với họ không còn thực sự có ý nghĩa.
Nhóm chuyên gia cho rằng, trong thời gian tới những “khiếm khuyết” nêu trên cần phải được khắc phục, sao cho việc miễn, giảm chế tài đối với người bị kết án, đặc biệt là đối với người chưa thành niên phải một mặt thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng kết thúc việc chấp hành chế tài để có thể làm lại từ đầu, nhưng mặt khác vẫn phải bảo đảm hiệu quả phục hồi, ngăn ngừa tái phạm một cách có hiệu quả.
Do đó, nhóm chuyên gia đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 57, Điều 58 BLHS (về miễn chấp hành hình phạt và giảm mức hình phạt đã tuyên) theo hướng đối với trường hợp người bị kết án bị mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm cho xã hội nữa được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Còn đối với người bị kết án đã lập công thì được ưu tiên xét giảm ngay và với mức giảm cao hơn.
Đáng chú ý, nhóm chuyên gia đề xuất nghiên cứu bổ sung chế định tha tù trước hạn có điều kiện. Theo đó, người đang chấp hành hình phạt tù, nếu thỏa mãn một số yêu cầu như về thời hạn chấp hành án, cải tạo tốt và có nhiều tiến bộ thì được miễn chấp hành hình phạt tù còn lại với điều kiện là sau khi trả tự do, họ phải tuân thủ một số điều kiện như tuân thủ pháp luật, tích cực thực hiện các nghĩa vụ công dân, trình diện cơ quan có thẩm quyền, không được đi khỏi nơi cư trú và phải tham gia một số chương trình dịch vụ xã hội … và bị giám sát trong một thời gian nhất định.
TS Nguyễn Mai Bộ - Phó Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương - cho rằng, quy định chỉ miễn chấp hành hình phạt với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo (quy định tại Khoản 1 Điều 57) là không công bằng với người đang tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Người này cũng phải được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt (Khoản 1 Điều 62).
Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính Nguyễn Quốc Việt ủng hộ đề xuất bổ sung chế định tha tù trước thời hạn nhưng ông cho rằng “không phải tội phạm nào cũng được tha tù trước thời hạn, ví dụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay người có nhân thân xấu thì không nên tha trước thời hạn”.
Nhiều ý kiến cũng đề nghị cần nghiên cứu thêm để đưa ra những cơ sở khoa học của vấn đề này, bởi lẽ các điều kiện ràng buộc sau khi trả tự do như Nhóm nghiên cứu đưa ra dường như khó thực hiện, khó kiểm soát và quan trọng là phải có chế tài xử lý nếu vi phạm.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Lao động đưa tin Phiên họp thứ 13 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp: Nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn nữa về quyền tư pháp. Bài báo đưa tin: Ngày 18.12, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã tiến hành phiên họp thứ 13 dưới sự chủ trì của đồng chí Trương Tấn Sang - Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Nước, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương.
Phiên họp đánh giá việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đã thu được những kết quả bước đầu có ý nghĩa quan trọng; khẳng định mục tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp được Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra cơ bản là đúng đắn, phản ánh đúng những yêu cầu khách quan của việc xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý...
Các đại biểu cũng đã thảo luận, làm rõ một số hạn chế và nguyên nhân trong tiến trình thực hiện cải cách tư pháp.Về phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp thời gian tới, các ý kiến cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn nữa về quyền tư pháp, góp phần thực hiện có hiệu quả các quy định Hiến pháp về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp; nghiên cứu làm rõ hơn vấn đề phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực nhà nước trong hệ thống các cơ quan tư pháp khi TAND thực hiện quyền tư pháp; xác định rõ phạm vi, thẩm quyền của viện KSND trong kiểm sát hoạt động tư pháp.
Kết thúc phiên họp, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang - Trưởng ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương - đề nghị, các thành viên thường trực ban chỉ đạo và bộ phận biên tập tiếp thu ý kiến để chỉnh lý, hoàn thiện báo cáo tổng kết, trình Bộ Chính trị.
2. Báo Dân Việt có bài Giá xăng tăng đột ngột: Dân và chuyên gia bức xúc. Bài báo phản ánh: Trong khi Bộ Công Thương đang trưng cầu ý kiến vào dự thảo Nghị định 84 kinh doanh xăng dầu sửa đổi thì giá bán lẻ mặt hàng này đột ngột tăng gần 600 đồng/lít, gây bức xúc trong người dân và các chuyên gia.
Sau quyết định của Bộ Tài chính các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vừa được phép tăng giá xăng lên thêm 600 đồng/lít. Cụ thể, từ 2 giờ chiều 18.12, Tập đoàn Xăng dầu VN (Petrolimex) đã điều chỉnh lên mức 24.210 đồng một lít xăng.
Cùng với việc cho tăng giá, cơ quan quản lý yêu cầu doanh nghiệp ngừng trích quỹ bình ổn (200-300 đồng một lít) đối với xăng dầu hỏa và dầu diesel. Lợi nhuận định mức đối với các đơn vị kinh doanh 3 mặt hàng này cũng được cắt giảm, không tính vào giá cơ sở. Riêng dầu hỏa, do lượng bán không nhiều và mức chênh lệch giữa giá cơ sở và bán ra lớn, được tiếp tục sử dụng quỹ bình ổn như hiện hành (700 đồng một lít).
Theo số liệu của cơ quan quản lý, giá xăng dầu thế giới trong vòng 30 ngày qua liên tục tăng và duy trì ở mức cao. Diễn biến này khiến giá cơ sở cao hơn mức bán lẻ trong nước 914 -1.414 đồng một lít. Số dư Quỹ Bình ổn giá cũng chỉ còn lại 72 tỷ đồng (tính đến 10.12), có 7 doanh nghiệp bị âm.
Như vậy, trong năm 2013, giá xăng dầu đã có 5 lần tăng, 6 lần giảm. Gần đây nhất là ngày 17.7, khi giá xăng tăng lên mức cao nhất trong lịch sử - 24.570 đồng một lít RON 92.
TS Lưu Bích Hồ - nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch-Đầu tư) phản ứng trước việc giá xăng tăng bất ngờ: Giá xăng tăng vào thời điểm cuối năm không khác gì “hành” người dân. Thời điểm này các doanh nghiệp đang vào mùa sản xuất, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Chuyên gia kinh tế Vũ Vinh Phú thì cho rằng: Không ai cấm chuyện tăng giá, tăng vẫn phải tăng nhưng phải minh bạch. Lâu nay chúng ta có công khai nhưng rõ ràng là chưa minh bạch.
Giá thành đầu vào của xăng dầu vẫn không ai biết chính xác là bao nhiêu, quỹ bình ổn vẫn để ở doanh nghiệp, giá tăng giảm bao nhiêu vẫn do doanh nghiệp đề xuất… Đây là câu chuyện vô lý tồn tại 10 năm nay rồi và giờ trở thành căn bệnh mãn tính: Tăng nhiều giảm ít, tăng nhanh giảm chậm… Xăng dầu cũng như điện, nước đều vẫn độc quyền nên là sự chi phối của nhóm lợi ích. Cho dù có cơ chế xin phép nhưng vẫn chỉ là “nửa nạc, nửa mỡ”. "Không ai cấm chuyện tăng giá, tăng vẫn phải tăng nhưng phải minh bạch. Lâu nay chúng ta có công khai nhưng rõ ràng là chưa minh bạch”, Chuyên gia kinh tế Vũ Vinh Phú.
Xung quanh việc sửa Nghị định 84, các chuyên gia cho rằng: “Cứ sau mỗi lần sửa đổi, doanh nghiệp lại được tăng thêm quyền. “Tháng 11, bản dự thảo lần 4: Doanh nghiệp được điều chỉnh giá trong biên độ giá cơ sở biến động 5%. Nay, qua mấy lần sửa đổi nữa, biên độ 5% được tăng lên 7%”.
Theo TS Nguyễn Minh Phong, phương án được đưa ra lấy ý kiến lần này khác hẳn với các lần dự thảo trước. Như vậy cơ quan soạn thảo có khả năng đặt người dân vào cảnh phải lựa chọn 2 trong 1. Trong bản dự thảo cũ gửi Bộ Tư pháp thẩm định, doanh nghiệp chỉ được tăng giá trong phạm vi 5%. Nay bản mới lại nới rộng biên độ 7%. Chắc chắn người dân sẽ không đồng tình với bản dự thảo mới vì ưu tiên thiên lệch cho doanh nghiệp. Khi chê phương án 7%, tức là đồng tình với phương án 5%. Trong khi cả 2 phương án đều không thuận. “ Tôi có cảm giác ban soạn thảo chỉ làm động tác giả là trưng cầu ý kiến mà thôi”